Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ứng dụng nội soi qua đường mũi xoang bướm mở rộng phẫu thuật u sọ hầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.54 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

ỨNG DỤNG NỘI SOI QUA ĐƯỜNG MŨI XOANG BƯỚM MỞ RỘNG  
PHẪU THUẬT U SỌ HẦU 
Nguyễn Thanh Xuân*, Lý Ngọc Liên*, Kiều Đình Hùng*, Đồng Văn Hệ*, Trần Đình Văn*,  
Nguyễn Đức Anh* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: U sọ hầu là những khối u điều trị chính bằng phẫu thuật với nhiều đường mổ được áp dụng. 
Ngày nay với sự tiến bộ của nội soi, ứng dụng đường mổ xoang bướm mở rộng có thể mổ lấy những khối u sọ 
hầu trên yên, thậm chí trong não thất. 
Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 7/2013 – 8/2014, 33 bệnh nhân (7 trẻ em và 26 người lớn) khối u sọ 
hầu đã được phẫu thuật nội soi lấy u qua đường mũi xoang bướm. 
Kết quả: Tỷ lệ lấy hết khối u 17/33 (51,5%), lấy gần hoàn toàn 14/33 (42,2%), lấy u một phần 2/33(6,1%). 
Biến chứng tử vong 1/33(3%) trường hợp do viêm màng não, rò dịch não tuỷ 3/33 (9,1%).  
Kết luận: Phần lớn những khối u sọ hầu vùng trên yên có thể phẫu thuật bằng đường mổ nội soi qua mũi 
xoang bướm cho kết quả tốt, an toàn. 
Từ khoá: nội soi u sọ hầu 

ABSTRACT 
EXTENDED ENDOSCOPIC ENDONASAL TRANSPHENOIDAL APPROACH TO MANAGEMENT  
OF CRANIOPHARYNGIOMAS 
Nguyen Thanh Xuan, Ly Ngoc Lien, Kieu Dinh Hung, Dong Van He, Tran Dinh Van,  
Nguyen Duc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 122 – 127 
Objective: Craniopharyngiomas have been classically removed using a 
variety of transcranial approaches.With the advent of the endoscope in transsphenoidal surgery, its obvious 
advantages  combined  with  neurosurgeons  increasing  interest  in  extended  transsphenoidal  approaches  made 


suprasellar and even intraventricular craniopharyngiomas. 
Patients and methods: From 7/2013 – 8/2014, 33 patients (26 adults and 7 children) underwent surgery 
for craniopharyngioma with nasal transsphenoidal approaches 
Result: Gross total tumor removal was achieved in 17/33 (51,5%) patients, subtotal removal was achieved in 
14/33 (42,4%), and partial removal was achieved in 2/33(6,1%). The early postoperative mortality rate was 1/33 
(3,0%) cause of meningitis. Cerebrospinal fluid (CSF) leakage occurred in 3/33 (9,1%) patients. 
Conclutions:  Most craniopharyngiomas including the supradiaphragmatic type can be removed safely by 
TSS with a good outcome, although endocrine function frequently worsens after surgery 
Keywords: craniopharyngiomas – Endoscopic endonasal transsphenoidal approach 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
U  sọ  hầu  (Craniopharyngiomas)  là  loại  u 
biểu  mô  vảy  lành  tính  ít  gặp,  phát  triển  chậm, 
nằm  phần  lớn  dọc  theo  tuyến  yên  đến  vùng 
dưới đồi, giải phẫu bệnh gồm 2 thể là u sọ hầu 
* Khoa PTTK – BV Việt Đức 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thanh Xuân 

122

thể  men  bào  và  u  sọ  hầu  thể  nhú(3).  U  gặp  chủ 
yếu  ở  hai  nhóm  tuổi  trẻ  em  từ  5  ‐  15  tuổi  và 
người lớn 50 ‐ 70 tuổi. Tỷ lệ mới mắc được phát 
hiện 0,5‐2 ca / 1 triệu dân/ năm; tỷ lệ gặp ở hai 
giới tương đương nhau(7). U sọ hầu gây nên các 

ĐT: 0912423740  Email:  

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
biến chứng về mắt, rối loạn nội tiết, rối loạn tâm 
thần, tăng áp lực nội sọ. Có nhiều phương pháp 
điều  trị:  phẫu  thuật  lấy  u,  xạ  trị,  hoá  chất  hoặc 
phối  hợp  nhiều  phương  pháp.  Điều  trị  phẫu 
thuật lấy bỏ hoàn toàn khối u được lựa chọn đầu 
tiên. Đây là khối u lành tính nên để việc điều trị 
có kết quả tốt phải lấy bỏ hết khối u mà không 
làm tổn thương tuyến yên, cuống tuyến yên và 
các cấu trúc quan trọng xung quanh. Nhưng bản 
chất của khối u thường dính chặt và xâm lấn vào 
các cấu trúc quan trọng này nên việc cắt bỏ hết 
khối u là điều rất khó khăn. Lựa chọn đường mổ 
tiếp cận khối u phụ thuộc vào vị trí, sự xâm lấn 
của khối u, tính chất khối u và kinh nghiệm của 
phẫu  thuật  viên.  Đường  mổ  nội  soi  qua  mũi 
xoang  bướm  mở  rộng  được  nhiều  tác  giả  ứng 
dụng  do  tỷ  lệ  thành  công  cao  và  biến  chứng 
thấp(7).  Nguy  cơ  lớn  nhất  là  rò  dịch  não 
tuỷ(DNT) ngày nay đã được nghiên cứu điều trị, 
sử dụng các vật liệu chống rò trong mổ đã được 
áp  dụng  nên  tỷ  lệ  bị  rò  DNT  sau  mổ  đã  được 
hạn chế rất nhiều. Chúng tôi thực hiện đề tài này 
nhằm 2 mục tiêu:  


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Đối tượng nghiên cứu 
33 bệnh nhân được chẩn đoán u sọ hầu vị trí 
hố yên, trên yên hoặc xâm lấn một phần não thất 
III được phẫu thuật nội soi lấy u qua đường mũi 
xoang  bướm  trong  thời  gian  từ  7/2013  đến 
8/2014 tại khoa Phẫu thuật thần kinh, bệnh viện 
Việt  Đức.  Bệnh  nhân  gồm  9  nữ/  24  nam  ,  7  trẻ 
em/  26  người  lớn,  độ  tuổi  từ  6  ‐  65  tuổi,  tuổi 
trung bình 33,2 tuổi. Có 11 bệnh nhân được chẩn 
đoán u tái phát và 22 bệnh nhân mổ lần đầu, 1 
bệnh  nhân  u  tái  phát  đã  được  xạ  phẫu  gamma 
knife. Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán u sọ 
hầu dựa vào khai thác triệu chứng lâm sàng, các 
xét  nghiệm  điện  giải,  nội  tiết  đầy  đủ,  hình  ảnh 
cắt lớp vi tính (CTscanner), cộng hưởng từ (MRI) 
trước và sau mổ, giải phẫu bệnh khẳng định u sọ 
hầu. Bênh nhân được khám định kỳ sau mổ theo 
dõi  tiến  triển,  biến  chứng  và  điều  trị  nội  khoa. 
Trong  số  33  bệnh  nhân:  8  bệnh  nhân  được  mổ 

Bệnh Lý Sọ Não 

nội  soi  qua  đường  xoang  bướm  đơn  thuần  là 
những khối u nằm ở vùng hố yên, trên yên đơn 
thuần, 25 bệnh nhân được mổ qua đường xoang 
bướm mở rộng: mở sàn hố yên và củ yên, bộc lộ 
để  đi  vào  khe  giao  thoa  thị  giác  tuyến  yên  tiếp 
cận khối u đối với những khối u nằm ở trên yên, 
sau giao thoa thị giác và não thất III. 


Chỉ định phẫu thuật 
U sọ hầu nằm trong hố yên, u sọ hầu nằm 
vùng trên yên, não thất III sử dụng đường mổ 
xoang  bướm  mở  rộng  bằng  cách  mở  rộng 
xương phần củ yên, phần ngang xương bướm 
trước củ yên. Những trường hợp u sọ hầu nằm 
sang  bên  ngoài  động  mạch  cảnh  hoặc  thần 
kinh  thị  giác  trên  1  cm,  u  nằm  trong  não  thất 
bên  hoặc  sừng  trán  không  có  chỉ  định  đi 
đường mũi xoang bướm(1). 

Dụng cụ 
Sử dụng hệ thống nội soi với camera và màn 
hình độ nét cao của hãng Karlstorz (Đức), nguồn 
sáng led, optic: 0 độ, 30 độ, 70 độ, hệ thống ghi 
video  và  hình  ảnh  trong  mổ.  Bộ  dụng  cụ  phẫu 
thuật qua mũi xoang, dụng cụ phẫu thuật tuyến 
yên,  sử  dụng  hệ  thống  khoan  mài  mũi  kim 
cương  tốc  độ  cao,  có  tay  mài  dài  chuyên  dụng 
qua  mũi  (Medtronic).  Hệ  thống  định  vị 
Navigation: Brainlab, Medtronic sử dụng đĩa CD 
phim cộng hưởng từ hoăc CT scanner. Dụng cụ 
cầm  máu:  ống  hút  đốt  điện,  Kẹp  lưỡng  cực, 
Surgicel, Floseal, vật tư đóng nền sọ: màng cứng 
nhân tạo, cân cơ đùi, mỡ, keo sinh học (Bioglue). 

Kỹ thuật mổ 
Sử  dụng  đường  mổ  đi  vào  2  mũi,  2  phẫu 
thuật  viên  thành  thạo  nội  soi  kỹ  thuật  3  hoặc  4 

dụng cụ viên, gồm 4 thì chính: (1) Thì mũi xoang 
bướm: mở vào xoang bướm, tạo vặt vách mũi có 
cuống để vá nền sọ, cắt 1 phần sau mảnh xương 
vách mũi. (2) Thì hố yên: sử dụng khoan mài và 
cò  súng  mở  sàn  hố  yên,  rãnh  giao  thoa,  củ  yên 
để  bộc  lộ  vào  khe  giữa  giao  thoa  thị  giác  và 
tuyến  yên  lành.  (3)  Thì  lấy  u:  phẫu  tích  tách  u 
khỏi mạch máu, thần kinh thị giác, cuống tuyến 

123


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
yên,  lấy  u  từng  phần.  (4)  Thì  đóng  nền  sọ:  Sử 
dụng  cân,  mỡ  đùi,  vạt  vách  mũi  có  cuống,  keo 
sinh học để vá nền sọ(5).  

Bảng 2 Kết quả phẫu thuật lấy u  
Đặc
điểm

Bảng 1 Đặc điểm khối u sọ hầu được phẫu thuật nội 
soi qua mũi xoang bướm 
Đặc điểm
Vị trí


N(33)

%

Hố yên

2

6,1

Trên yên

6

18,2

Trên yên và
trong NT3

25

75,7

< 2cm

2

6,1

2 - 4 cm


28

84,8

> 4 cm

3

9,1

dạng nang

4

12,1

Dạng đặc

3

9,1

Hỗn hợp

26

78,8

Giãn não thất


13

39,4

Kích thước

Tính chất u

Kích thước u

Tổng số

Lần
đầu

Tái
phát

<
2cm

24cm

>4cm

n

%


Hết u

14

3

2

14

1

17

51,5%

Gần
hết u

8

6

0

12

2

14


42,4%

Bán
phần

0

2

0

2

0

2

6,1%

KẾT QUẢ 
Trong  thời  gian  từ  tháng  7/2013  đến  tháng 
8/2014 đã có 33 bệnh nhân u sọ hầu được phẫu 
thuật nội soi lấy u qua đường mũi xoang bướm 
theo đúng chỉ định nghiên cứu đề ra với những 
đăc điểm theo thống kê (Bảng 1). Hầu hết bệnh 
nhân  có  khối  u  lớn  trên  2cm  tập  trung  ở  vùng 
trên  yên  và  não  thất  III  là  những  vị  trí  rất  khó 
tiếp cận, dù đi vào bằng đường ở sọ hay đường 
xoang bướm. Các khối u phần lớn dạng hỗn hợp 

gồm  2  phần:  phần  nang  và  phần  đặc,  trong  đó 
chúng tôi lựa chọn những khối u có phần nang 
chiếm ưu thế, vôi hoá ít, não úng thuỷ chiếm tỷ 
lệ cao 39,4%. 

Tiền sử mổ
USH

MRI trước mổ 

MRI sau mổ 6 tháng 

Kết quả lấy u 
Tỷ lệ lấy hết hoàn toàn khối u chiếm 51,5%, 
lấy u gần hoàn toàn (> 80%) chiếm 42,4%, lấy u 
một  phần  chiếm  6,1%.  Những  khối  u  có  kích 
thước  nhỏ,  nằm  thấp,  mổ  lần  đầu  có  tỷ  lệ  lấy 
hết  u  và  gần  hết  u  cao  hơn  Những  khối  u  tái 
phát  thường  khó  lấy  hết  u  hơn.  Có  2  trường 
hợp (6,1%) chỉ lấy được một phần u, mở thông 
nang đều là u sọ hầu tái phát.  

124

Khối u lấy ra 
Ảnh 1: Bệnh nhân Kiều Doãn Kh 10 tuổi (Mổ 
26.12.2013) 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Những khối u sọ hầu nhỏ, ít chèn ép hoặc xâm 
lấn  vào  cuống tuyến yên hay sàn não thất III  ít 
gây suy tuyến yên hơn cả trước và sau mổ, khối 
u càng lớn và lan rộng gây suy tuyến yên càng 
cao  hơn  .Như  vậy  đối  với  phẫu  thuật  u  sọ  hầu 
thường  không  cải  thiện  triệu  chứng  nội  tiết  mà 
kết  quả  thường  biểu  hiện  suy  tuyến  yên  nặng 
hơn so với trước mổ. 

Kết quả biến đổi nội tiết trước và sau mổ 
Hầu  hết  các  bệnh  nhân  đều  biểu  hiện  suy 
tuyến yên nặng hơn, do đặc điểm bệnh học của 
u sọ hầu là suy tuyến yên. Tỷ lệ suy tuyến yên 
một phần hoặc toàn bộ trước mổ chiếm tỷ lệ cao 
87,9%.  Tình  trạng  suy  tuyến  yên  nặng  hơn  sau 
mổ chiếm 72,7% số bệnh nhân và tỷ lệ đái nhạt 
mới mắc chiếm 51,2%, chỉ có 2/33 (6,1%) trường 
hợp  có  cải  thiện  triệu  chứng  nội  tiết  sau  mổ. 
Bảng 3 Kết quả biến đổi nội tiết trước và sau mổ 

u trên yên

u trên yên và
NT3


N

%

Bình thường

1

2

1

4

12,1

Suy tuyến yên

1

4

24

29

87,9

Đái nhạt


0

1

6

7

21,2

Cải thiện

0

2

0

2

6,1

Không thay đổi

2

3

2


7

21,2

Suy tuyến yên nặng thêm

0

1

23

24

72,7

Đái nhạt mới mắc

0

2

15

17

51,5

Trước

mổ

Sau mổ

Tổng số

u trong hố yên

Đặc điểm nội tiết

Kết quả thay đổi thị lực 
Có  21/33  trường  hợp  có  rối  loạn  do  tổn 
thương  thần  kinh  thị  giác  trước  mổ:  như  giảm 
thị  lực  hẹp  thị  trường,  trong  số  đó  có  tất  cả  11 
bệnh nhân u tái phát và 10 bệnh nhân u nguyên 
phát.Sau  mổ  có  12/21(57,1%)  bệnh  nhân  có  cải 
thiện triệu chứng thị giác,7 bệnh nhân không cải 
thiện,2 bệnh nhân kém hơn trước mổ, trong đó 
có 1 bệnh nhân mù 1 mắt sau mổ do tổn thương 
thần  kinh  thị  giác  trong  mổ.  Triệu  chứng  cải 
thiện thị giác rõ rệt nhất ở những bệnh nhân mổ 
lần đầu, diễn biến giảm thị lực nhanh. 

Biến chứng 
Biến chứng gặp nhiều nhất là rò dịch não tuỷ 
3/33 (9,1%) và viêm màng não sau mổ 4/33 (12,1), 
có 2 trường hợp cấy vi khuẩn dương tính là trực 
khuẩn mủ xanh và phế cầu.Trong 3 trường hợp 
rò dịch não tuỷ: 1 trường hợp phải mổ lại vá rò 
qua đường mũi, 1 trường hợp chọc dịch não tuỷ 

dẫn lưu thắt lưng hết rò sau 5 ngày. Có 1 trường 
hợp tử vong do rò dịch não tuỷ gây viêm màng 
não, cấy dịch não tuỷ dương tính với trực khuẩn 
mủ  xanh  là  bệnh  nhân  nam  19  tuổi,  u  sọ  hầu 

Bệnh Lý Sọ Não 

vùng trên yên mổ lấy toàn bộ u, sau mổ ổn định, 
ra viện sau 10 ngày, 2 tuần sau bệnh nhân được 
chuyển đến trong tình trạng sốc nhiễm khuẩn, rò 
dịch  não  tuỷ,  viêm  màng  não,  bệnh  nhân  tử 
vong  sau  2  ngày  nhập  viện.  Một  trường  hợp 
máu tụ ngoài màng cứng sau mổ do chảy máu 
từ  chân  đinh  cố  định  đầu  ở  bệnh  nhân  7  tuổi, 
bệnh nhân ổn định ra viện sau khi mổ lấy máu 
tụ. Biến chứng nặng hay gặp là rối loạn điện giải, 
chúng  tôi  gặp  2  trường  hợp  rối  loạn  điện  giải 
nặng sau mổ do bệnh nhân đái nhạt. Một trường 
hợp sụp mi sau mổ do liệt dây III và một trường 
hợp tràn khí nội sọ nhiều sau mổ.  
Bảng 3: Biến chứng sau phẫu thuật 
Biến chứng
Rò DNT
VMN
Máu tụ NMC
Tràn khí trong não
Tổn thươngng mạch máu lớn
Tổn thương TK thị giác
Liệt thần kinh sọ
RL điện giải nặng

Tử vong

n
3
4
1
1
0
1
1
2
1

%
9,1
12,1
3,0
3,0
0
3,0
3,0
6,1
3,0

125


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014


 
BÀN LUẬN 
Ứng dụng đường mổ: U sọ hầu là những tổn 
thương  đa  hình  thái  và  đa  vị  trí  nên  việc  lựa 
chọn  đường  mổ  lấy  u  phụ  thuộc  vào  tuỳ  từng 
tổn  thương.  Trước  đây,  việc  lấy  bỏ  khối  u  chủ 
yếu thực hiện bằng đường mở sọ với đường mổ 
trán  thái  dương,  dưới  trán  hay  đường  mổ  vào 
não  thất  3  nhưng  đều  có  những  nhược  điểm 
nhất định. Đường mổ qua xoang bướm chủ yếu 
đối với những khối u nằm ở hố yên và trên yên 
trong bể dịch não tuỷ nền sọ trước hay u độ 1 và 
độ  2  theo  phân  loại  của  Samii(7).  Ngày  nay,  với 
sự  tiến  bộ  của  công  nghệ  hình  ảnh,  dụng  cụ 
phẫu  thuật  và  những  nghiên  cứu  sâu  áp  dụng 
nội soi trong phẫu thuật nền sọ, đặc biệt là ứng 
dụng đường mổ xoang bướm mở rộng đã có thể 
lấy những khối u ở vị trí cao hơn, xa hơn vùng 
trên yên, sau dốc nền, thậm chí trong não thất(4). 
Phương  pháp  phẫu  thuật  nội  soi  lấy  u  sọ  hầu 
qua đường mũi cho thấy những ưu điểm rõ rệt 
so  với  những  phương  pháp  khác  như:  đường 
mổ nhỏ, qua lỗ tự nhiên, không cần phải mở sọ; 
tiếp cận trực tiếp khối u mà không cần vén não, 
thấy  rõ  được  các  mốc  giải  phẫu  khó  tiếp  cận 
vùng  nền  sọ  trước  nếu,  tỷ  lệ  lấy  bỏ  hoàn  toàn 
khối  u  cao,  thời  gian  nằm  viện  ngắn.  Nhược 
điểm lớn nhất của phương pháp này là tỷ lệ rò 
dịch não tuỷ sau mổ cao hơn các phương pháp 

khác(8). Hiện nay đã có rất nhiều báo cáo về các 
phương  pháp  vá  nền  sọ  chống  rò  dịch  não  tuỷ 
như: sử dụng mảnh ghép bằng các vạt có cuống 
mạch nuôi, cân đùi, mỡ bụng, mảnh xương ghép 
đỡ nền sọ, các vật liệu tạo dính, màng cứng nhân 
tạo(1)…Trong  33  bệnh  nhân,  chúng  tôi  đã  sử 
dụng  đường  mổ  xoang  bướm  mở  rộng  cho 
25/33(75,7%) khối u sọ hầu trên yên xâm lấn một 
phần vào não thất ba bằng cách mở sàn hố yên, 
củ yên và 1 phần mảnh ngang xương bướm để 
vào khe giao thoa thị giác và tuyến yên lành tiếp 
cận khối u, đường mổ này có thể bọc tách khối u 
khỏi  giao  thoa,  mạch  máu  xung  quanh,  cuống 
tuyến yên rất thuận lợi và rõ ràng. Điều cần chú 
ý  khi  phẫu  thuật  qua  đường  mổ  xoang  bướm 

126

mở rộng: thứ nhất là cầm máu xoang tĩnh mạch 
liên  xoang  hang,  chúng  tôi  sử  dụng  kẹp  đốt 
lưỡng  cực  trước  khi  cắt,  hoặc  kẹp  clip  bạc  tạm 
thời nếu không đốt được; thứ hai khi phẫu tích 
chú  ý  bảo  tồn  tối  đa  các  nhánh  mạch  xiên  vào 
giao thoa thị giác, cuống tuyến yên để giảm tối 
đa  giảm  thị  lực  và  suy  tuyến  yên  sau  mổ.  Khi 
đóng nền sọ chúng tôi dùng kỹ thuật nhiều lớp 
sử dụng cân và mỡ đùi, mảnh xương vách mũi 
là  miếng  đỡ  và  mảnh  ghép  bằng  vạt  vách  mũi 
bên  phải  có  cuống  mạch  từ  động  mạch  bướm 
khẩu  cái.  Chúng  tôi  có  8  bệnh  nhân  sử  dụng 

đường mổ xoang bướm kinh điển đơn thuần đối 
với những khối u nhỏ, nằm thấp đều cho kết quả 
tốt, cuộc mổ diễn biến thuận lợi. 
Tỷ  lệ  thành  công  ở  nhóm  bệnh  nhân  mổ 
lần  đầu  và  với  những  khối  u  có  phần  nang 
nhiều hơn phần đặc là do những khối u này dễ 
bóc tách khỏi các cấu trúc xung quanh nhờ còn 
lớp  màng  nhện  ngăn  cách.  Những  khối  u  tái 
phát  hoặc  u  có  vôi  hoá  nhiều  thường  dích 
chắc, khó bóc tách nên tỷ lệ lấy hết u thấp hơn. 
Đối với sự biến đổi nội tiết sau mổ, hầu hết có 
tình trạng suy tuyến yên, đái nhạt nặng hơn là 
do  bản  chất  của  khối  u  đã  gây  biến  loạn  nội 
tiết  trước  mổ,  khi  lấy  khối  u  thường  làm  tổn 
thương cuống tuyến yên, tuyến yến lành, cách 
mạch  máu  xiên  của  tuyến  yên  và  vùng  dưới 
đồi.  Biến  chứng  đáng  ngại  nhất  sau  mổ  là  rò 
dịch não tuỷ, viêm màng não và rối loại nước 
điện  giải.  Để  giảm  được  biến  chứng  này  thì 
trong  mổ  phải  đảm  bảo  đóng  nền  sọ  thật  cẩn 
thận,  theo  nhiều  lớp,  điều  trị  kháng  sinh  tốt 
sau  mổ,  sớm  phát  hiện  các  biểu  hiện  nhiễm 
khuẩn,  dự  phòng  và  điều  chỉnh  sớm  các  thay 
đổi về nước điện giải ngay trong và sau mổ. 

KẾT LUẬN 
Sử  dụng  đường  mổ  nội  soi  qua  mũi  xoang 
bướm để phẫu thuật lấy u sọ hầu là đường mổ 
thuận  lợi  để  lấy  những  khối  u  ở  vùng  hố  yên, 
trên yên và khối u trên yên xâm lấn vào não thất 

ba.  Đây  là  đường  mổ  cho  kết  quả  tốt,  an  toàn 
mặc dù tỷ lệ suy tuyến yên sau mổ cao. Điều cần 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
5.

Komotar  RJ,  Roguski  M,  Bruce  JN  (2009).  Surgical 
management  of  craniopharyngiomas.  J  Neurooncol,  92, 
283‐296.   

6.

Abuzayed  B,  Tanriover  N,  Akar  Z,  et  al  (2010).  Extended 
endoscopic  endonasal  approach  to  the  suprasellar 
parachiasmatic cisterns: anatomic study. Childs Nerv Syst, 
26, 1161‐1170. 
 

Kong  DS,  Kim  HY,  Kim  SH,  et  al  (2011).  Challenging 
reconstructive  techniques  for  skull  base  defect  following 
endoscopic  endonasal  approaches.  Acta  Neurochir,  153, 
807‐813.   


7.

Leng LZ, Vijay K. Anand, Schwartz TH (2011). Endoscopic 
of 
craniopharyngiomas. 
Operative 
management 
Techniques in Otolaryngology, 22, 215‐222.   

2.

Buchfelder M, Schlaffer SM, Lin F, et al (2013). Surgery for 
craniopharyngioma. Pituitary, 16, 18‐25. 
 

8.

3.

De  Divitiis  E,  Esposito  F,  Cappabianca  P,  et  al  (2009). 
Extended endoscopic endonasal transsphenoidal approach 
to  supra‐parasellar  tumors.  cavernous  sinus,  Springer‐
Verlag/Wien, Austria, 207‐221. 
 

Yamada  S,  Fukuhara  N,  Oyama  K,  et  al  (2010).  Surgical 
Outcome  in  90  Patients  with  Craniopharyngioma:  An 
Evaluation  of  Transsphenoidal  Surgery.  World 
Neurosurg, 74 (2/3), 320‐330.  
 


lưu  ý  quan  trọng  trong  phẫu  thuật  này  là  kỹ 
thuật  đóng  nền  sọ  tốt  nhằm  giảm  tối  đa  biến 
chứng rò dịch não tuỷ sau mổ. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

4.

Elliott  RE,  Jane  JA  Jr,  Wisoff  JH  (2011).  Surgical 
Management  of  Craniopharyngiomas  in  Children:  Meta 
analysis  and  Comparison  of  Transcranial  and 
Transsphenoidal  Approaches.  Neurosurgery,  69,  630–643.
   

 

Ngày nhận bài báo  

 

 

15/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

27/10/2014 


Ngày bài báo được đăng: 

5/12/2014 

 

 

 



Bệnh Lý Sọ Não 



127



×