Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
KẾT QUẢ CẮT CỰC TRÊN THẬN ĐÔI
BẰNG DAO SIÊU ÂM HARMONIC SCALPEL
Phạm Ngọc Thạch*, Lê Tấn Sơn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Chúng tôi giới thiệu phương pháp cắt cực trên thận đôi mất chức nặng bằng dao siêu âm
Harmonic Scalpel.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu từ tháng 3/2011 đến tháng 3/2013 chúng tôi có 26 bệnh nhi gồm 6
nam và 20 nữ đã được cắt cực trên thận đôi mất chức nặng bằng dao siêu âm Harmonic scalpel. Kỹ thuật: Xác
định niệu quản cực trên và cực dưới, cắt niệu quản cực trên, xẻ niệu quản cực trên vào thẳng bể và chủ mô thận
cực trên bằng dao Harmonic scalpel, xác định ranh giới và cắt chủ mô cực trên, lột phần niệu mạc còn sót lại của
cực trên.
Kết quả: Không có trường hợp nào phải truyền máu, không có biến chứng trong mổ và sau mổ. Thời gian
mổ trung bình 97 phút. Thời gian nằm viện trung bình từ 2 ‐ 4 ngày.
Kết luận: Sử dụng dao cắt đốt siêu âm Harmonic Scalpel giúp việc cắt cực trên trở nên dễ dàng thuận lợi,
an toàn hơn và giúp bảo tồn tối đa tránh tổn thương cực dưới.
Từ khóa: Dao siêu âm Harmonic scalpel, cắt cực trên thận đôi.
ABSTRACT
UPPER POLE HEMINEPHRECTOMY FOR DUPLEX KIDNEY USING HARMONIC SCALPEL
Pham Ngoc Thach, Le Tan Son * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 113 ‐ 115
Objectives: We present a technique using Harmonic Scalpel of upper pole heminephrectomy in cases of
duplex kidney.
Methods: 26 childrens have been treated using Harmonic Scalpel of upper pole heminephrectomy for non
functionning upper moieties of duplicated kidney.
Results: There was no complications. Hospitalization from 2 ‐ 4 days.
Conclusions: This technique enables reliable and safe excision of upper pole renal tissue with maximal
preservation of lower pole kidney. Shorter operative times, and improved outcomes.
Key words: Harmonic scalpel, heminephrectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
cực dưới.
Giải pháp cắt cực trên trong thận niệu quản
đôi có cực trên mất chức năng là duy nhất, dị tật
này thường kèm theo niệu quản cắm lạc chỗ hay
có nang niệu quản. Mục đích của kỹ thuật cắt
cực trên là loại bỏ hoàn toàn phần chủ mô cực
trên mất chức năng, bảo tồn tối đa chủ mô cực
dưới, không phạm vào bó mạch cực dưới cũng
như ảnh hưởng các mạch máu nuôi niệu quản
Kỹ thuật thường được áp dụng là tiếp cận
rốn thận phẫu tích cuống mạch máu cực trên
trước rồi mới tiến hành cắt cực trên. Kỹ thuật
này thuận lợi là khi kẹp cuống mạch máu cực
trên cho phép ta thấy rõ ranh giới của chủ mô
hai cực thận hỗ trợ việc cắt cực trên nhưng
không phạm chủ mô cực dưới(1,2). Tuy nhiên
trong thực tế lâm sàng, nhiều trường hợp khó
khăn khi tiếp cận cuống mạch thận, giải phẫu
* Bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả liên lạc: PGS TS Bs Lê Tấn Sơn
114
ĐT: 0902.964.446
Email:
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
này thực sự không lúc nào cũng rõ ràng nhất là
khi có tình trạng viêm nhiễm khi cực trên đang
bị nhiễm khuẩn, khi bóc tách bắt đầu chảy máu,
cuống mạch phân đôi không phân biệt được
mốc giải phẫu gây khó khăn cho phẫu thuật
viên, do đó nguy cơ làm tổn thương cực dưới là
rất dễ xảy ra(3).
Chúng tôi giởi thiệu kỹ thuật cắt cực trên
ngược dòng bằng dao siêu âm Harmonic
scalpel. Với kỹ thuật này chúng tôi không quan
tâm đến bó mạch cực trên, chỉ cắt phần chủ mô
và niệu quản cực trên(3).
Mục tiêu nghiên cứu
Chúng tôi giới thiệu phương pháp cắt cực
trên thận đôi mất chức nặng bằng dao siêu âm
Harmonic Scalpel.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiền cứu từ tháng 3/2011 đến tháng 3/2013
chúng tôi có 26 bệnh nhi gồm 6 nam và 20 nữ đã
được cắt cực trên thận đôi mất chức nặng bằng
dao siêu âm Harmonic scalpel tại bệnh viện Nhi
Đồng 2. Chỉ định phẫu thuật dựa vào UIV, siêu
âm và xạ hình thận DMSA, quyết định bảo tồn
hay cắt thận là dựa vào chức năng còn lại của
cực trên ở xạ hình DMSA.
Kỹ thuật mổ: Bệnh nhân nằm nghiên 60 độ
về phía đối diện thận cần được can thiệp, chân
nằm dưới co và chân trên thẳng. Rạch da từ đầu
sườn 12 hướng về rốn (nếu là nữ có thể đi
đường ngang). Cắt cơ chéo lớn, chéo bé, tách cơ
ngang và cắt cơ Gerota. Bóc tách thận khỏi mô
mỡ xung quanh và đưa thận ra ngoài. Xác định
niệu quản cực dưới và cô lập. Xác định niệu
quản cực trên, cắt niệu quản cực trên và luồn
đầu trên sau bó mạch thận và kéo ra ngoài lên
trên. Xẻ niệu quản cực trên thẳng vào chủ mô
thận bằng dao siêu âm Harmonic Scalpel, dùng
ngón tay trỏ luồn vào bể thận cực trên để hướng
dẫn giúp tránh tổn thương cực dưới. Với dao
siêu âm chúng tôi không cần khâu tăng cường
chủ mô thận, không quan tâm đến bó mạch cực
trên, sau khi cắt chủ mô cực trên, chúng tôi tiến
hành lột phần niệu mạc còn sót lại. Tiến hành cắt
Chuyên Đề Ngoại Nhi
Nghiên cứu Y học
đoạn xa niệu quản cực trên, nếu không trào
ngược có thể để mở.
KẾT QUẢ
Thời gian mổ trung bình 97 phút (min: 64
phút; max: 109 phút).
Thời gian nằm viện trung bình từ 2‐ 4 ngày.
Không có trường hợp nào phải truyền máu.
Có 4 bệnh nhi sốt sau mổ, đáp ứng với
kháng sinh.
Tái khám 1 tháng, 3 tháng sau mổ siêu âm
không tụ dịch cực trên, cực dưới không teo.
BÀN LUẬN
Giải pháp cắt cực trên trong thận niệu quản
đôi có cực trên mất chức năng là duy nhất, dị tật
này thường kèm theo niệu quản cắm lạc chỗ hay
có nang niệu quản. Mục đích của kỹ thuật cắt
cực trên là loại bỏ hoàn toàn phần chủ mô cực
trên mất chức năng, bảo tồn tối đa chủ mô cực
dưới, không phạm vào bó mạch cực dưới cũng
như ảnh hưởng các mạch máu nuôi niệu quản
cực dưới (3).
Hầu như mọi kỹ thuật hiện nay để cắt cực
trên đều tiếp cận rốn thận trước tiên, phẫu tích
và cột cắt bó mạch máu cực trên. Tuy nhiên
trong thực tế lâm sàng, nhiều trường hợp khó
khăn khi tiếp cận cuống mạch thận, giải phẫu
này thực sự không lúc nào cũng rõ ràng nhất là
khi có tình trạng viêm nhiễm khi cực trên đang
bị nhiễm trùng, khi bóc tách bắt đầu chảy máu,
cuống mạch phân đôi không phân biệt được
mốc giải phẫu gây khó khăn cho phẫu thuật
viên, do đó nguy cơ làm tổn thương cực dưới là
rất dễ xảy ra. Một nguy cơ đáng sợ nhất đó là
phẫu tích bó mạch cực trên và làm tổn thương
bó mạch cực dưới và dẫn đến teo cực dưới. Theo
Culp, Belman tỉ lệ teo cực dưới là 5% (1,2), bên
cạnh đó các biến chứng khác có thể xảy ra khi
tiếp cận rốn thận ngay từ đầu là làm thủng bể
thận cực dưới, thủng niệu quản cực dưới và tổn
thương mạch máu niệu quản.
Kỹ thuật của chúng tôi là tiếp cận niệu quản
cực trên ngay từ đầu, niệu quản cực trên dễ
nhận dạng do luôn dãn to ứ nước. Đi lần theo
niệu quản cực trên vào bể thận cực trên và tiến
115
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
hành cắt chủ mô cực trên, ngón trỏ hỗ trợ giúp
phân biệt ranh giới giữa hai cực. Dùng dao siêu
âm tiến hành cắt chủ mô thận, dao hoạt động
theo cơ chế xung động ở đầu dao với tần số
55.500 lần/giây với biên độ 50 ‐ 100 micron. Dưới
xung động này các kết cấu protein hydrogen
trong mô bị phá hủy và protein được giải
phóng. Các protein được giải phóng này sẽ kết
dính lại với nhau ở các mạch máu làm cầm máu.
Sự di chuyển protein này không phải do nhiệt
do đó hoàn toàn không làm tổn thương mô bên
cạnh.
Với dao siêu âm Harmonic Scalpel, việc chảy
máu mô thận khi cắt không xảy ra, phẫu trường
sạch sẽ, rõ ràng giúp phẫu thuật diễn ra dễ dàng
và nhanh chóng (4).
Chúng tôi có 4 bệnh nhân sau mổ sốt, đây là
những bệnh nhân ứ mủ cực trên, khi tiếp cận rất
viêm nhiễm và sơ dính. Theo chúng tôi, yếu
điểm duy nhất của phương pháp này là phải xẻ
bung niệu quản và bể thận để tiếp cận chủ mô
thận. Những trường hợp ứ mủ dễ dàng phát tán
116
vi khuẩn ra ngoài. Chúng tôi luôn cấy kháng
sinh đồ, những trường hợp sốt sau mổ đổi theo
kháng sinh đồ đều đáp ứng tốt.
KẾT LUẬN
Sử dụng dao cắt đốt siêu âm Harmonic
Scalpel giúp việc cắt cực trên trở nên dễ dàng
thuận lợi, an toàn hơn và giúp bảo tồn tối đa
tránh tổn thương cực dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
Belman AB, Filmer RB (1974). Surgical management of
duplication of collecting system. J urol 112: pp 316.
Culp OS, (1960). Heminephroureterectomy: Comparision of one
stage or two stage operations. J urol 83: pp 369.
Lê Tấn Sơn, Lê Thanh Hùng (2004). Cắt cực trên trong thận và
niệu quản đôi: một kỹ thuật đơn giản. Tạp chí Y Học TPHCM.
Phụ bản số 1, tập 8: tr 217‐219.
Ngày nhận bài
08/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo
22/07/2013.
Ngày bài báo được đăng:
15–09‐2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi