Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phẫu thuật nội soi qua đường mũi xoang bướm mở rộng điều trị u nguyên sống (chordomas) vùng dốc nền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

PHẪU THUẬT NỘI SOI QUA ĐƯỜNG MŨI XOANG BƯỚM MỞ RỘNG 
ĐIỀU TRỊ U NGUYÊN SỐNG (CHORDOMAS) VÙNG DỐC NỀN 
Nguyễn Thanh Xuân*, Lý Ngọc Liên*, Đồng Văn Hệ*, Trần Đình Văn* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: U nguyên sống(Chordomas) vùng dốc nền là tổn thương khó phẫu thuật. Sử dụng đường mổ 
nội soi qua mũi là đường mổ có nhiều ưu điểm, dễ tiếp cận trực tiếp tổn thương nằm ở đường giữa. Chúng tôi 
thực hiện đề tài này nhằm thông báo 6 trường hợp được mổ nội soi lấy u qua đường mũi xoang bướm. 
Phương pháp: 6 bệnh nhân(3nam, 3 nữ) được chẩn đoán u nguyên sống vùng dốc nền được phẫu thuật nội 
soi lấy u qua đường mũi tại khoa Phẫu thuật thần kinh Bệnh viện Việt Đức từ 3/2013 ‐8/2014, đánh giá thuận 
lợi, khó khăn khi phẫu thuật và theo dõi diễn biến sau mổ. 
Kết  quả: 3/6 bệnh nhân lấy hoàn toàn khối u, 3/6 lấy bán phần khối u. Biến chứng sau mổ: 1 trường hợp 
nặng xin về sau mổ do suy hô hấp, lâm sàng không cải thiện. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi lấy u nguyên sống vùng dốc nền là kỹ thuật có thể thực hiện hiệu quả, an toàn. 
Từ khóa: U nguyên sống vùng dốc nền – mổ nội soi qua đường mũi xoang bướm 

ABSTRACT 
EXPANDED ENOSCOPIC ENDONASAL APPROACH FOR TREATMENT OF CLIVAL CHORDOMAS 
Nguyen Thanh Xuan, Ly Ngoc Lien, Dong Van He, Tran Dinh Van 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 310 – 316
Objective: Cranial base chordomas are difficult lesions to treat. The endoscopic endonasal approach (EEA) 
takes advantage of the natural sinus corridor and may provide a less invasive approach for these midline tumors. 
We report our recent experience with an expanded purely endoscopic endonasal approach for the treatment of 6 
clival chordomas. 
Patients  and  methods: 6  patients  (3 males:  3 females)  underwent  an  expanded  endoscopic approach  for 


excision of cranial base chordomas at department of neurosurgery of Viet Duc hospital from 3/2013 to 8/2014. 
This study focused on the surgical approach, results, and complications associated with this approach.  
Results:  Treatment  of  the  6  newly  diagnosed  chordomas  included  3  total  resections  (50%),  3  subtotal 
resections (50%). and 1 patient died. 
Conclusion: Endoscopic endonasal resection of clival chordomas is effective, safe techniques. 
Keywords: Clival chordomas, endoscopic endonasal approach 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
U  nguyên  sống  là  khối  u  hiếm  gặp,  phát 
triển  chậm,  chiếm  0,15%  các  loại  u  nội  sọ,  tỷ  lệ 
mới mắc 0,5 ‐ 1/1 triệu dân/ năm. U nguyên sống 
thường gặp ở 2 cực của cột sống: vùng cùng cụt 
(60%)  và  vùng  dốc  nền  (30%)  các  vùng  khác 
chiếm  10%.  Khối  u  vùng  dốc  nền  thường  liên 
qua  với  các  cấu  trúc  thần  kinh  quan  trọng:  các 

dây  thần  kinh  sọ,  tuyến  yên,  nhiều  mạch  máu 
lớn  vùng  nền  sọ,  cầu  não(6)…  Giải  phẫu  bệnh 
gồm  3  thể  chính  là:  classic,  chondroid, 
differentiated.  Điều  trị  bao  gồm  phẫu  thuật  lấy 
u, xạ trị, hoá trị ít kết quả. Điều trị hiệu quả nhất 
là  lấy  triệt  để  khối  u  nhưng  đây  là  vị  trí  khó 
khăn để có thể lấy bỏ hoàn toàn khối u trong tất 
cả  các  trường  hợp.  Có  nhiều  đường  mổ  qua 

* Bệnh viện Việt Đức 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thanh Xuân  ĐT: 0912423740  

310


Email:  

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
đường mở sọ áp dụng để phẫu thuật lấy những 
khối  u  vùng  này  nhưng  đều  có  những  hạn  chế 
nhất định do tiếp cận khối u khó khăn, hiệu quả 
kém. Từ năm 1984, Laws và sau đó nhiều tác giả 
sử dụng đường mổ qua mũi xoang bướm dưới 
kính  vi  phẫu  để  mổ  khối  u  vùng  dốc  nền,  kỹ 
thuật  này  sau  đó  được  áp  dụng  nhiều  hơn  cho 
những  khối  u  nền  sọ  trước(2).  Những  năm  gần 
đây, nhờ sự phát triển của công nghệ hình ảnh, 
nội  soi  và  các  dụng  cụ  phẫu  thuật,  sử  dụng 
đường  mổ  nội  soi  qua  mũi  xoang  bướm  mở 
rộng để lấy những khối u vùng này đa có được 
những thuật lợi và kết quả rõ rệt. Khó khăn lớn 
nhất đối với đường mổ này là kiểm soát nhiễm 
khuẩn, tránh rò dịch não tuỷ và kiểm soát chảy 
máu trong mổ. Tại bệnh viện Việt Đức, kỹ thuật 
nội soi đường mổ xoang bướm mở rộng để lấy 
những  khối  u  vùng  tầng  trước  nền  sọ  đã  được 
áp  dụng  từ  năm  2010  và  đến  nay  đã  thành 
thường quy. 


ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
6  bệnh  nhân  gồm  3  nam,  3  nữ  được  phẫu 
thuật hoàn toàn bằng nội soi qua đường mũi để 
lấy  u  trong  thời  gian  từ  3/2013‐8/2014  tại  khoa 
Phẫu thuật thần kinh, bệnh viện Việt Đức.  

Chuẩn bị bệnh nhân:  
Khám lâm sàng đánh giá tổn thương các dây 
thần  kinh  sọ,  hình  ảnh  chụp  cộng  hưởng  từ, 
chụp CLVT sọ đa dãy, dụng mạch não nếu cần, 
in  đĩa  neuronavigation,  khám  mũi  họng  trước 
mổ,  đánh  giá  bilan  toàn  thân,  gây  mê  nội  khí 

quản, sử  dụng  kháng  sinh thế  hệ 3 từ 5‐7 ngày 
sau mổ(2). 

Phương tiện 
Đây  là  tổn  thương  khó  nên  đòi  hỏi  nhóm 
phẫu thuật viên thành thạo các kỹ thuật vi phẫu 
và  nội  soi,  nắm  chắc  giải  phẫu  nền  sọ  và  bắt 
buộc phải có đầy đủ dụng phẫu thuật: Sử dụng 
hệ thống nội soi với camera và màn hình độ nét 
cao: hãng Karlstorz (Đức), nguồn sáng led, optic: 
0  độ,  30  độ,  70  độ,  hệ  thống  ghi  video  và  hình 
ảnh trong mổ. Bộ dụng cụ phẫu thuật qua mũi 
xoang, dụng cụ phẫu thuật tuyến yên, sử dụng 
hệ thống khoan mài kim cương tốc độ cao, có tay 
mài  dài  chuyên  dụng  qua  mũi  (Metronic).  Hệ 
thống định vị Navigattion: Brainlab, Metronic có 

thể  sử  dụng  đĩa  CD  phim  cộng  hưởng  từ  hoăc 
CLVT. Dụng cụ cầm máu: ống hút đốt điện, kẹp 
cường lực, Surgicel, Floseal, vật tư đóng nền sọ: 
màng  cứng  nhân  tạo,  cân  cơ  đùi,  mỡ,  keo  sinh 
học (Bioglue)(3). 

Kỹ thuật 
Bệnh  nhân  nằm  tư  thế  ngửa,  đầu  chếch  về 
phía  phẫu  thuật  viên  20  độ,  đặt  gạc  tẩm 
naphazolin  2%  hoặc  adrenalin  1:1000  trước  mổ 
10 phút. Sử dụng kỹ thuật mổ qua 2 mũi, 2 phẫu 
thuật viên, 3‐4 dụng cụ viên. Chúng tôi sử dụng 
kỹ thuật đóng nền sọ bằng cân, mỡ đùi, vạt vách 
mũi  có  cuống  mạch  bướm  khẩu  cái,  mảnh 
xương  vách  mũi(6).  Quá  trình  mổ  gồm  4  bước 
như sau: 

 
Hình 1: Thì mở vào xoang bướm và tạo vạt vách mũi có cuống 

Bệnh Lý Sọ Não 

311


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

Thì  mũi:  đẩy  cuốn  giữa  sang  bên  tìm  lỗ 
thông xoang bướm từ đó mở vào xoang bướm, 
tạo vạt vách mũi có cuống mạch nuôi, lấy một 
phần  xương  vách  mũi,  mở  thành  trước  xoang 
bướm bằng kẹp Kerrison và khoan mài. 
Thì mở xương vùng dốc nền: đốt niêm mạc 
tại  vị  trí  mở  xương,  dùng  khoan  mài  mũi  kim 
cương mài dần xương. Ranh giới trên là sàn yên, 
2  bên  là  rãnh  động  mạch  cảnh  lồi  vào  xoang 

bướm,  phía  dưới  là  đáy  xoang  bướm.  Khi  mở 
màng  cứng rất  từ từ,  sử  dụng  dao  nhỏ  lưỡi 11, 
hoạc  dao  lá  lúa  chuyên  dụng.  Sử  dụng  khoan 
mài  mũi  kim  cương  vừa  có  tác  dụng  cầm  máu 
xương,  vừa  an  toàn  với  mạch  máu  lớn.  Lưu  ý 
khi  chảy  máu  từ  các  tĩnh  mạch  màng  cứng  và 
xoang tĩnh mạch hang, chỉ cần ép surgicel hoặc 
dùng  keo  cầm  máu  Floseal  (Baxter)  là  có  thể 
khống chế được, không nên đốt điện. 

Hình 2: Mài xương vùng dốc nền bộc lộ u dưới hướng dẫn Navigation 

Hình 3: Lấy u, tìm mốc giải phẫu động mạch thân nền, dây III, thân não 

312

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 


Nghiên cứu Y học

 

Hình 4: Đóng nền sọ bằng cân cơ, mỡ đùi, vạt vách mũi, bơm keo sinh học và đặt bóng Foley giữ mảnh ghép. 
Thì lấy u: Dùng nạo và ống hút đầu tròn để 
Thì đóng nền sọ: Đóng nền sọ vùng dốc nền 
lấy u, sử dụng optic 30 độ, 70 độ để nhìn các góc. 
là kỹ thuật khó, đòi hỏi đóng nhiều lớp. Sử dụng 
Sớm  nhận  ra  các  cấu  trúc  quan  trọng  để  định 
cân, mỡ đùi, mảnh xương vách, vạt vách mũi có 
hướng  cuộc  mổ:  động  mạch  thân  nền  và  các 
cuống mạch. Dùng keo sinh học Bioglue, Tisseel 
nhánh  của  nó,  thân  não,  thể  vú,  các  dây  thần 
tạo  dính.  Cuối  cùng  dùng  sonde  Foley  cỡ  12 
kinh sọ: III, VI, V, IV.  
bơm  bóng  vùa  đủ  (3‐4ml)  để  giữ  mảnh  ghép 
trong 3‐4 ngày. Chọc dẫn lưu dịch não tuỷ thắt 
lưng 5 ngày sau mổ(1) 

KẾT QUẢ 
Bảng 1: Thông tin 6 bệnh nhân trong nghiên cứu 
STT

Tuổi

Triệu chứng

Vị trí u


Mức độ lấy u

biến chứng

Karnofsky

1

33

Liệt VI, đau đầu

Dốc nền

Toàn bộ

Không

100/100

2

65

Đau đầu, liệt VI, tr/c thân
não, nhìn mờ

Xoang bướm, dốc nền,
xoang hang


Bán phần

Không

90/100

3

52

đau dầu, nhìn đôi

dốc nền, xoang bướm, sàn
NT3, xoang hang

Bán phần

Không

80/100

4

24

Liệt VI

dốc nền


Toàn bộ

Không

100/100

5

28

nhìn đôi, liệt VI

dốc nền

Toàn bộ

Không

100/100

6

27

Liệt VI, IX, X, tr/c thân
não,yếu tứ chi

xoang bướm, xoang hang,
thân não, góc cầu


Bán phần

VMN, xin về

0

Trong  thời  gian  3/2013  –  8/2014  tổng  số  6 
bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  gồm  3  nam:  3  nữ, 
tuổi từ 21‐65. Triệu chứng lâm sàng thường gặp 
là  đau  đầu,  liệt  các  dây  thần  kinh  sọ:  VI,  IX,  X, 
triệu chứng chèn ép dây thần kinh thị giác. Vị trí 
u khu trú vùng rãnh trượt có 3/6 bệnh nhân đều 
được lấy hoàn toàn khối u, 3 bệnh nhân u vùng 

Bệnh Lý Sọ Não 

rãnh trượt xâm lấn rộng sang xoang hang, xoang 
bướm, sàn não thất III, góc cầu, chèn ép thân não 
nặng  đều  không  có  khả  năng  lấy  hết  u.  Một 
trường hợp nặng xin về do suy hô hấp sau mổ 
không cải thiện do u xâm lấn rộng, viêm màng 
não.  Như  vậy,  kết  quả  tốt  (3/6  bệnh  nhân):  lấy 
hoàn toàn khối u và hồi phục sau mổ, không có 

313


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014


 
biến chứng. Kết quả trung bình sau mổ 2/6 bệnh 
nhân: lấy một phần khối u, sau mổ tự sinh hoạt, 
điểm Karnofsky 80‐90 điểm. Kết quả xấu có 1/6 
bệnh  nhân  nặng  xin  về,  trường  hợp  này  bệnh 
nhân được lấy khối u bán phần giải phóng được 
một  phần  chèn  ép  thân  não,  chụp  kiểm  tra 
không có chảy máu nhưng bệnh nhân không cải 
thiện cơ hô hấp, xin về 1 tuần sau mổ. 

Bệnh án minh hoạ
Bệnh  nhân  nữ  33  tuổi,  vào  viện  vì  triệu 
chứng  đau  đầu,lác  trong,nhìn  đôi.  Chụp  CT  và 

MRI trước mổ  

 

MRI sọ não phát hiện khối u vùng dốc nền, chẩn 
đoán  trước  mổ  là  clival  chordomas.  Bệnh  nhân 
được  mổ  nội  soi  lấy  u  qua  đường  mũi  xoang 
bướm  mở  rộng,  mài  xương  vùng  dốc  nền,  lấy 
toàn bộ u, đóng nền sọ bằng cân, mỡ đùi và vạt 
vách  có  cuống,  đặt  dẫn  lưu  dịch  não  tuỷ  thắt 
lưng 5 ngày. Sau mổ bệnh nhân tiến triển tốt, hết 
nhìn đôi và lác mắt, không có biến chứng. Bệnh 
nhân được xuất viện sau 1 tuần. Chụp kiểm tra 
sau mổ 1 tháng, 6 tháng không còn u. 


 

 

 

MRI sau mổ 

Hình trong mổ khi lấy hết u   

 

Bệnh phẩm sau mổ 

Hình 6: Hình ảnh bệnh nhân Đào Thu Th 33 tuổi 
Đường mổ này thuận lợi nhất và ưu điểm nhất 
BÀN LUẬN 
với những khối u giới hạn nằm ở đường giữa, ít 
U  nguyên  sống  vùng  dốc  nền  là  loại  tổn 
xâm  lấn  sang  bên,  tổn  thương  bắt  thuốc  cản 
thương khó phẫu thuật, kết quả phụ thuộc nhiều 
quang  ít  và  tổn  thương  không  lan  xuống  thấp 
vào  bản  chất,  mức  độ  xâm  lấn  của  tổn  thương. 

314

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 


Nghiên cứu Y học

 
quá C1. Những đường tổn thương lan rộng sang 
bên hoặc ra sau cần phối hợp với các đường mổ 
khác để đảm bảo hiệu quả lấy u cao nhất, ít biến 
chứng nhất. Khi ứng dụng đường mổ này, đầu 
tiên  là  phải  tìm  được  các  mốc  giải  phẫu  quan 
trọng để đinh hướng cuộc mổ, 2 mốc quan trọng 
nhất là sàn yên và động mạch cảnh. Phẫu trường 
được  xác  định  là  giữa  2  động  mạch  cảnh  với 
khoảng  cách  gần  2cm.  Luôn  luôn  phải  dùng 
định  vị  Navigation  để  kiểm  tra  sự  định  hướng 
của  mình.  Lưu  ý  chảy  máu  tĩnh  mạch  màng 
cứng và xoang hang không nên đốt cầm máu mà 
sử  dụng  surgicel  và  Floseal  sẽ  hiệu  quả.  Khi 
phẫu tích trong não luôn luôn tìm được các mốc 
giải  phẫu,  bảo  tồn  được  và  phẫu  tích  u  theo 
màng  nhện  mới  tránh  được  tổn  thương  thần 
kinh  và  mạch  máu.  Sử  dụng  các  dụng  cụ  đầu 
tròn, ít sang chấn, đặc biệt là ống hút để không 
làm  tổn  thương  các  cấu  trúc  bình  thường.  Các 
báo  cáo  gần  đây  cho  thấy  hầu  hết  số  lượng 
không  nhiều,  với  tỷ  lệ  lấy  u  từ  33‐67%,  biến 
chứng tổn thương mạch máu 9‐12%, rò dịch não 
tuỷ 8,3‐30%.  Nghiên  cứu  của  chúng tôi  mới  chỉ 
có 6 bệnh nhân, với tỷ lệ lấy hết khối u 3/6 (50%), 
trường hợp nặng xin về sau mổ không cải thiện 
tình trạng hô hấp do bệnh nhân đến viện trong 

tình cảnh lâm sang nặng: khó thở, liệt VI, IX, X, 
triệu chứng chèn ép thân não, yếu tứ chi, không 
có trường hợp nào rò dịch não tuỷ.  

Chúng  tôi  nhận  thấy  những  bệnh  nhân  có 
kết quả tốt hầu hết là những khối u khu trú, bắt 
thuốc ít nên trong mổ không chảy máu và dễ lấy 
hơn. Để thực hiện kỹ thuật này với những phẫu 
thuật viên chưa có kinh nghiệm mổ nội soi nền 
sọ nên lựa chọn những bệnh nhân có đặc điểm 
này để bắt đầu. Điều đặc biệt quan trọng nữa là 
kỹ thuật đóng nền sọ để chống dò dịch não tuỷ, 
sử  dụng  kỹ  thuật  đóng  nhiều  lớp.  Các  báo  cáo 
gần  đây  cho  thấy  kỹ  thuật sử  dụng  cân  cơ  đùi, 
vạt vách mũi có cuống và miếng đỡ mảnh ghép 
bằng  xương  vách  mũi  hoặc  xương  nhân  tạo  đã 
giảm tỷ lệ rò dịch não tuỷ dưới 10%. Chúng tôi 
sử  dụng  tất  cả  các  kỹ  thuật  trên  cùng  với  chọc 
dẫn  lưu  dịch  não  tuỷ  thắt  lưng  để  giảm  áp  lực 
trong sọ tạo điều kiện liền mảnh ghép nên chưa 
có  biến  chứng  rò  dịch  não  tuỷ.  Nguyên  tắc  khi 
phẫu thuật phẫu tích khối u không vượt quá các 
dây thần kinh sọ khi gặp như dây VI, dây III, các 
nhánh  của  động  mạch  thân  nền.  Do  đặc  điểm 
vùng  mổ  hẹp  liên  quan  nhiều  cấu  trúc  quan 
trọng nên đòi hỏi phải có kỹ năng thật tốt, khi có 
chảy  máu  từ  xoang  tĩnh  mạch  hoặc  các  tĩnh 
mạch  nền  nên  sử  dụng  vật  liệu  cầm  máu  như 
surgisel,  Floseal  không  nên  đốt  cầm  máu  vùng 
này vì thường rất khó và ít tác dụng. Chúng tôi 

sử dụng kỹ thuật 3 hoặc 4 nhân viên dụng cụ với 
hai  phẫu  thuật  viên  thành  thạo.  Khó  khăn 
thường  gặp  khi  lấy  u  ở  vị  trí  2  bên  của  động 
mạch  cảnh  xoang  hang  và  phần  thấp  của  dốc 
nền do khó đưa dụng cụ tới để lấy u.  

Bảng 2: So sánh với các báo cáo mổ nội soi lấy u nguyên sống khác 
Tác giả

Số lượng

Lấy hoàn toàn khối u

Biến chứng

Couldwell et al (2004)(3)

18

12

1 rò DNT, 3 chảy máu, 1 liệt nửa người do tổn
thương Đm cảnh

Solares et al (2005)(9)

3

2


Không

Frank et al (2006)(8)

9

3

2 rò DNT, 1 tổn thương Đm cảnh

Martina Stippler et al
(2009)(10)

20

9

5 rò DNt, 1 chết

Amir R. Dehdashti et al
(2008)(5)

12

7

4 rò DNT, 1 liệt nửa người do chảy máu sau mổ

Chúng tôi


6

3

1 chết

Bệnh Lý Sọ Não 

315


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
approach clival and petroclival regions. Neurosurgery, 65, 42‐
52.  

KẾT LUẬN 
Sử  dụng  đường  mổ nội soi  qua  đường  mũi 
xoang  bướm  mở  rộng  để  lấy  u  nguyên  sống 
vùng  dốc  nền  là  kỹ  thuật  có  nhiều  ưu  điểm 
thuận  lợi  nhưng  đòi  hỏi  phải  lựa  chọn  bệnh 
nhân phù hợp, phẫu thuật viên có kinh nghiệm 
cả nội soi và vi phẫu, nắm chắc giải phẫu vùng 
nền  sọ.  Khi  mổ  vùng  này  đặc  biệt  lưu  ý  đóng 
nền sọ nhiều lớp nhằm tránh biến chứng rò dịch 
não tuỷ sau mổ. 


TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Cavallo  LM,  Cappabianca  P,  Messina  A,  et  al  (2007).  The 
extended  endoscopic  endonasal  approach  to  the  clivus  and 
cranio‐vertebral junction: anatomical study. Childs Nerv Syst, 
23, 665‐671. 

2.

Cobb  WS,  Makosch  G,  Anand  VK,  et  al  (2010).  Endoscopic 
Transsphenoidal,  Transclival  Resection  of  an  Enterogenous 
Cyst  Located  Ventral  to  the  Brainstem:  Case  Report. 
neurosurgery, 67, 522‐26. 

3.

4.

Couldwell WT, Weiss MH, Rabb C, et al (2004). Variations on 
the  standard  transsphenoidal  approach  to  the  sellar  region 
with  emphasis  on  the  extended  approaches  and  parasellar 
approaches:  Surgical  experience  in  105  cases.  Neurosurgery, 
55, 5. 
De  Notaris  M,  Cavallo  LM,  Prats‐Galino  A,  et  al  (2009). 
Endoscopic endonasal transclival approach and retrosigmoid 

5.

Dehdashti  AR,  Karabatsou  K,  Ganna  A,  et  al  (2008). 

Expended  Endoscopic  Endonasal  approach  for  treatment  of 
clival  chordomas:  early  results  in  12  patients.  neurosurgery, 
63, 299‐309.   

6.

Fernandez‐Miranda  JC,  Morera  VA,  Snyderman  CH,  et  al 
(2012).  Endoscopic  Endonasal  Transclival  Approach  to  the 
Jugular Tubercle. Neurosurgery, 71, 146‐159. 

7.

Frank G, Sciarretta V, Calbucci F, et al (2006). The endoscopic 
transnasal  transsphenoidal  approach  for  the  treatment  of 
cranial base chordomas and chondrosarcomas. Neurosurgery, 
59, 50‐57. 

8.

Kassam A, Gardner P, Snydermann C, et al (2005). Extended 
endonasal approach: fully endoscopic, completely transnasal 
approach  to  the  middle  third  of  the  clivus,  petrous  bone, 
middle  cranial  fossa,  and  infratemporal  fossa.  Neurosurg 
Focus, 19, E6. 

9.

Solares  CA,  Fakhri  S,  Batra  Ps,  et  al  (2005).  Transnasal 
endoscopic  resection  of  lesions  of  the  clivus:  A  preliminary 
report. Laryngoscope, 115, 1917‐1922. 


10.

Stippler M, Gardner PA, Carrau RL, et al (2009). Endoscopic 
Endonasal  Transclival  Approach  chordomas.  Neurosurgery, 
64 (268‐278). 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

10/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

27/10/2014 

Ngày bài báo được đăng:  

05/12/2014 

 

 
 

 


316

 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 



×