Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hiệu quả giảm đau chuyển dạ của gây tê ngoài màng cứng bằng bupivacain 0,08% phối hợp với fentanyl

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.58 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CHUYỂN DẠ CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG 
CỨNG  
BẰNG BUPIVACAIN 0,08% PHỐI HỢP VỚI FENTANYL 
Trần Thị Hoàn Mỹ*, Bùi Thị Phương Nga*, Trần Thị Liễu*, Mã Thanh Tùng*,  
Nguyễn Thị Phương Dung** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Gây tê ngoài màng cứng giảm đau trong chuyển dạ là một phương pháp giảm đau hiệu quả 
nhất. Nhằm tránh các tai biến do nồng độ thuốc tê (bupivacain) còn cao, việc hạ thấp thuốc đến nồng độ 0,08% 
còn nhiều tranh cãi. 
Mục tiêu nghiên cứu: So sánh hiệu quả giảm đau chuyển dạ của gây tê ngoài màng cứng bằng bupivacain 
0,08% so với bupivacain 0,1% trên những sản phụ chuyển dạ 
Phương  pháp  nghiên  cứu: Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, ngẫu nhiên có nhóm chứng, mù đơn. Các sản 
phụ được phân bố ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm 0,08% gồm các sản phụ nhận bupivacain 0,08% phối hợp 
fentanyl so với nhóm 0,1% nhận bupivacain 0,1% phối hợp fentany. Đánh giá điểm đau bằng thang điểm VAS, 
mức độ phong bế vận động Bromage của hai nhóm, tỷ lệ sanh thường, tỷ lệ sanh mổ, tỷ lệ giúp sanh bằng dụng 
cụ, chỉ số Apgar một phút và năm phút của trẻ sơ sinh, tỷ lệ các tác dụng phụ giữa hai nhóm. 
Kết quả: Nhóm 0,08% (có 161 sản phụ), nhóm 0,1% (162 sản phụ). Tỷ lệ GTNMC giảm đau là 90,2% ở 
nhóm 0,08% so với 91,4% ở nhóm 0,1% (p=0,601). Tỷ lệ sản phụ không liệt vận động là 98,2% ở nhóm 0,08% 
so với 95,1% ở nhóm 0,1% (p = 0,032). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sanh thường, sanh mổ, 
tỷ lệ giúp sanh, chỉ số apgar của trẻ sơ sinh giữa hai nhóm. 
Kết luận: Gây tê ngoài màng cứng với bupivacain 0,08% phối hợp với fentanyl đem lại hiệu quả giảm đau 
tốt, ít phong bế vận động, và ít ảnh hưởng đến tình trạng của sản phụ và trẻ sơ sinh.  
Từ khoá: gây tê ngoài màng cứng cho giảm đau sản khoa, Bupivacain 

ABSTRACT 
EFFICACY OF LABOR EPIDURAL ANALGESIA WITH BUPIVACAIN 0.08%  


ASSOCIATED FENTANYL 
Tran Thi Hoan My, Bui Thi Phuong Nga, Tran Thi Lieu, Ma Thanh Tung,Nguyen Thi Phuong Dung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 163 ‐ 167 
Background:  Epiduarl  analgesia  in  labor  is  the  most  efficacy  method  for  pain  relief  in  labor.  To  reduce 
complications related to high concentration of bupivacain, these is a controversial in lowering concentration of 
bupivacain. 
Objectives: to compare efficacity of epidural analgesia in labor with bupivacain 0.08% versus bupivacain 
0.1% associated with fentanyl. 
Methods: The prospective cohort study. The patients were ramdomised in two group: group 0.08% included 
161  pregnants  received  epidural  analgesia  with  bupivacain  0.08%  +  fentanyl  2mcg/ml  versus  162  pregnants 
received epidural analgesia with bupivacain 0.1% + fentanyl 2mcg/ml in group 0.1%. The visual analogue scales 
for pain, motor blockade Bromage, mode of delivery and neonatal apgar score were recorded. 
* Bệnh viện Từ Dũ, ** Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Trần Thị Hoàn Mỹ 

Sản Phụ Khoa

 ĐT: 0982866923 

Email:  

163


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Results: There were 161 pregnants in group 0.08% versus 162 pregnants in group 0.1%. The successful 
pain relief rate in group 0.08% was 90.2% versus 91.4% in group 0.1% (p= 0.601). There were no statistically 

significant differences in mode of delivery, side effects, or neonatal apgar scores between groups. 
Conclusion: Epidural analgesia with bupivacain 0.08% + fentanyl provides equivalent pain relief in labor 
with less motor blockade and without maternal and fetal side effects.  
Keyword: epidural analgesia in labor, Bupivacain 

ĐẶT VẤN ĐỀ 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) đã xuất 
hiện từ rất sớm vào năm 1901 đem lại nhiều hiệu 
quả  ứng  dụng  trong  lĩnh  vực  gây  mê  hồi  sức, 
đặc  biệt  trong  sản  khoa.  GTNMC  giảm  đau 
trong chuyển dạ là một bước ngoặc đánh dấu sự 
tiến bộ của ngành gây mê hồi sức  sản  khoa,  từ 
đó không chỉ đem lại hiệu quả giảm đau tốt mà 
còn  đem  lại  sự  thoải  mái  tinh  thần,  ổn  định  về 
tâm  lý  của  các  sản  phụ  trong  giai  đoạn  “vượt 
cạn”  khó  khăn  nhất  này(14).  Ngoài  ra,  có  nhiều 
tác  giả  cũng  đồng  tình  rằng  GTNMC  cải  thiện 
tình  trạng  tim  mạch  ‐  hô  hấp  của  mẹ  và  tình 
trạng cân bằng toan kiềm ở thai nhi.  

Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, ngẫu nhiên có 
nhóm  chứng,  mù  đơn  tại  bệnh  viện  Từ  Dũ  từ 
01/07/2012  đến  01/07/2013.  Đối  tượng  nghiên 
cứu là những sản phụ một thai, ngôi đầu, ASA 
I_II,  chuyển  dạ  giai  đoạn  hoạt  động,  được  làm 
giảm  đau  sản  khoa  với  GTNMC  và  không  có 
chống chỉ định GTNMC như rối loạn đông máu, 

huyết  động  không  ổn  định,  nhiễm  trùng  vùng 
lưng, dị dạng cột sống. 

Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả giảm đau của 
GTNMC đem lại, người ta vẫn còn lo ngại về tỷ 
lệ  biến  chứng  khi  GTNMC  với  thuốc  tê 
bupivacain nồng độ cao. Mặt khác, trước đây có 
nhiều ý kiến gây tranh cãi về vấn đề: “GTNMC 
có  ảnh  hưởng  lên  tiến  trình  chuyển  dạ  hay 
không?”,  từ  đó  gián  tiếp  làm  tăng  tỷ  lệ  mổ  lấy 
thai (MLT) và tỷ lệ sanh dụng cụ cũng như tỷ lệ 
gây  liệt  vận  động.  Do  đó,  người  ta  đã  hạ  thấp 
dần liều thuốc tê của bupivacain dần từ nồng độ 
0,125%  đến  0,1%  hay  0,08%,  thậm  chí  chỉ  còn 
nồng  độ  0,0625%  nhằm  hạn  chế  những  biến 
chứng và độc tính thuốc tê cho  mẹ và con.  
Tại Việt  Nam,  nồng  độ  thuốc  tê  bupivacain 
để GTNMC vẫn khá cao là 0,1%‐0,125% và có rất 
ít nghiên cứu đánh giá toàn diện hiệu quả thuốc 
tê bupivacain liều thấp (0,08%). Phải chăng trên 
sản phụ, với nồng độ thuốc tê bupivacain 0,08% 
phối  hợp  với  fentanyl,  hiệu  quả  giảm  đau  gần 
tương đương với bupivacain 0,1% nhưng ít gây 
ức  chế  vận  động  hơn,  ít  tác  dụng  phụ  không 
mong muốn mà vẫn không làm ảnh hưởng lên 
cách sanh của mẹ, chỉ số apgar của trẻ sơ sinh?. 

164

Các sản phụ được các bác sĩ sản khoa khám 

đánh giá khả năng sanh ngã âm đạo và các bác 
sĩ GMHS khám loại trừ các chống chỉ định gây 
tê. Sau khi được  tham  vấn,  các  sản  phụ  kí  cam 
kết  đồng  ý  tham  gia  nghiên  cứu.  Các  sản  phụ 
được  ngẫu  nhiên  chia  thành  hai  nhóm:  nhóm 
0,08%  gồm  những  sản  phụ  được  GTNMC  với 
bupivacain  0,08%  +  fentanyl  2mcg/ml  so  với 
nhóm 0,1% gồm những sản phụ được GTNMC 
với bupivacain 0,1% + fentanyl 2mcg/ml. Chúng 
tôi  chọn  tư  thế  ngồi  cho  sản  phụ  khi  làm  thủ 
thuật.  Chúng  tôi  sử  dụng  kim  Touhy  18G  với 
catheter  20G  có  3  lỗ  (B‐Braun),  vị  trí  chọc  kim 
L3‐L4  và  L4‐L5,  xác  định  khoang  màng  cứng 
bằng phương pháp mất sức cản với nước muối 
sinh  lý.  Sau  khi  hút  ngược  kiểm  tra  không  có 
máu hay dịch não tủy, tiến hành chích liều nạp 
dung  dịch  thuốc  tê  tương  ứng  cho  từng  nhóm; 
10ml cho sản phụ thấp hơn 160 cm và 12 ml cho 
sản  phụ  cao  hơn  160  cm.  Liều  nạp  được  chích 
ngắt  quãng  mỗi  3‐4  ml  cách  nhau  3‐5  phút  với 
nghiệm  pháp  hút  ngược  catheter  và  theo  dõi 
sinh hiệu và tim thai. Sau đó, mắc vào máy bơm 
tiêm  điện  và  truyền  liên  tục  qua  catheter  ngoài 
màng cứng với vận tốc 6‐10 ml/giờ.. Khi sổ thai 
hoặc  may  tầng  sinh  môn,  nếu  sản  phụ  đau  sẽ 
được bơm thêm 4‐8ml.  

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Chúng tôi theo dõi mạch, huyết áp, đánh giá 
mức độ giảm đau bằng thang điểm đau VAS và 
sự  đối  xứng  hai  bên,  tình  trạng  phong  bế  vận 
động Bromage 6 cải tiến với khoảng thời gian 5 
phút,  15  phút  sau  gây  tê  trong  một  giờ  đầu  và 
mỗi 30 phút trong những giờ tiếp theo; cho đến 
khi sản phụ sanh xong hoặc MLT. Sản phụ còn 
được  theo  dõi  sản  khoa  như  monitor  theo  dõi 
cơn gò, tim thai, tình trạng CTC,…cũng như chỉ 
số  Apgar  của  trẻ  sơ  sinh  và  tỷ  lệ  các  tác  dụng 
phụ  như  run,  ngứa,  tụt  huyết  áp,  thủng  màng 
cứng, đau lưng, bí tiểu… 
Nếu  sản  phụ  MLT  khẩn  cấp  (như  suy  thai 
nặng, sa dây rốn…) thì gây mê toàn thân; nếu có 
thể trì hoãn (như bất xứng đầu chậu, cổ tử cung 
không tiến triển…) thì bơm thêm 16‐20 ml thuốc 
tê Lidocain 2% 20ml. 
Tất cả số liệu ghi nhận trên bảng thu thập đã 
chuẩn bị sẵn. Phân tích số liệu bằng phần mềm 
SPSS 16.0. Các biến liên tục được trình bày bằng 
số trung bình ± độ lệch chuẩn, và tần suất và tỷ 
lệ phần trăm cho các biến định tính. Kiểm định t 
cho  các  giá  trị  trung  bình  và  kiểm  định  Chi‐
square dùng giữa các biến định tính với p < 0,05 
là có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 

KẾT QUẢ 
Chúng tôi thu thập được 161 sản phụ nhóm 
1  so  với  162  sản  phụ  nhóm  2  với  các  đặc  điểm 

chung không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p > 0,05) (Bảng 1). 
Bảng 1: Đặc điểm chung dân số nghiên cứu 
Tuổi mẹ (năm)
Chiều cao (cm)
Cân nặng (kg)
Tuổi thai (tuần)
ASA I (%)
ASA II (%)

Nhóm 0,08% Nhóm 0,1%
28,3 ± 4,6
28,1 ± 4,7
155,5 ± 3,9
156,3 ± 3,8
67,4 ± 5,8
66,7 ± 4,9
37,8 ± 0,8
38,2 ± 0,6
83,2
85,8
17,8
14,2

p
0,735
0,322
0,254
0,087
0,421


Hiệu quả giảm đau 
Số  sản  phụ  có  điểm  đau  VAS  ≤  3  là  145 
(90,2%) ở nhóm 0,08% so với 148 (91,4%) ở nhóm 
0,1%  (p=0,601);  có  9  sản  phụ  (5,5%)  ở  nhóm 
0,08%  và  8  sản  phụ  (4,7%)  nhóm  0,1%  vẫn  còn 
đau nhẹ sau gây tê với VAS ≤ 5. Còn 13 sản phụ 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học

vẫn đau nhiều với VAS > 5 (7 trường hợp nhóm 
0,08% so với 6 trường hợp nhóm 0,1%). 

Mức độ phong bế vận động 
Tỷ  lệ  sản  phụ  không  yếu  liệt  vận  động 
(Bromage  5  ‐  6)  ở  nhóm  0,08%  là  98,1%  so  với 
95,1% ở nhóm 0,1% (p = 0,032). Trong đó, nhóm 
0,08%  có  3  sản  phụ  so  với  8  sản  phụ  ở  nhóm 
0,1% được đánh giá Bromage 3 – 4. 
Bảng 2: Những ảnh hưởng lên mẹ và con 
Nhóm 0,08% Nhóm 0,1%
Cách sanh (%)
Sanh thường
67,7
63,5
Sanh giúp
10,0
10,0

Sanh mổ
22,3
26,5
Chỉ số Apgar
1 phút
7,4 ± 0,5
7,5 ± 0,4
5 phút
8,5 ± 0,5
8,6 ± 0,4
Cân nặng (g) 3206,2 ± 352,7 3196 ± 360,2

p
0,201

0,165
0,395
0,254

Bảng 3: Các tác dụng phụ của gây tê ngoài màng cứng 
Tác dụng phụ (%) Nhóm 0,08% Nhóm 0,1%
Không có
75,2
72,8
Tụt HA
1,2
1,8
Buồn nôn- nôn ói
3,1
2,4

Ngứa
3,1
3,7
Run
9,3
8,1
Đau lưng
0,6
0,0
Nhức đầu
0,0
0,6
Bí tiểu
6,2
5,5

p

0,472

Có 19 sản phụ bí tiểu sau sanh tự phục hồi 
trong vòng 2 ngày sau. 
Có 2 trường hợp tụt huyết áp ở nhóm 0,08% 
so với 3 trường hợp ở nhóm 0,1%. Các sản phụ 
này  được  xử  lý  tạm  dùng  thuốc,  truyền  dịch 
nhanh,  thở  oxy  và  sử  dụng  thuốc  vận  mạch 
ephedrine. 
Các  trường  hợp  sản  phụ  bị  ngứa  và  run, 
chúng tôi không xử trí gì thêm.  


BÀN LUẬN 
Mặc  dù  thang  điểm  đau  VAS  là  thước  đo 
chủ quan của từng sản phụ, chịu ảnh hưởng của 
nhiều yếu tố: trình độ học vấn, nghề nghiệp, con 
so  –  con  rạ,  điều  kiện  kinh  tế  ‐  xã  hội  v.v…(9) 
nhưng  tất  cả  sản  phụ  chỉ  được  làm  giảm  đau 
GTMNC khi đã vào chuyển dạ hoạt động và đã 
chịu đựng tới mức độ điểm VAS 8 – 10 điểm là 

165


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

một  điều  khó  chấp  nhận  được.  Theo  ACOG 
2006(1)  hoặc  RCOG  2007(14),  tất  cả  sản  phụ  phải 
được giảm đau chuyển dạ bằng GTNMC chỉ với 
yêu cầu giảm đau đơn thuần của người mẹ. Đây 
là  vấn  đề  thực  tế  thường  gặp  tại  bệnh  viện  Từ 
Dũ  cũng  như  các  bệnh  viện  khác  làm  GTNMC 
giảm đau chuyển dạ.  
Sau khi GTNMC, chúng tôi ghi nhận cả hai 
nhóm  nghiên  cứu  đạt  hiệu  quả  giảm  đau  tốt 
chiếm  90,2%  ở  nhóm  0,08%  so  với  91,4%  ở 
nhóm 0,1%.  
Theo  Nguyễn  Thị  Thanh(11),  tỷ  lệ  sản  phụ 
GTNMC với bupivacain 0,08% đạt điểm số đau 
VAS  <  3  là  94,4%.  Kết  quả  của  chúng  tôi  thấp 

hơn kết quả của nghiên cứu này. 
Trong  nghiên  cứu  đánh  giá  hiệu  quả  giảm 
đau  qua  thang  điểm  VAS  khi  sử  dụng  20  ml 
bupivacaine nồng độ 0,08% phối hợp fentanyl 2 
mcg/ml, tác giả Campbell (2000)(5), ghi nhận hiệu 
quả  giảm  đau  tại  thời  điểm  20  phút:  VAS  ≤2 
chiếm 95%, trong đó 90% sản phụ có VAS = 0.  
Năm 2002, khi sử dụng bupivacaine 0,075% 
phối  hợp  fentanyl  2  mcg  /ml,  tác  giả  Owen  và 
cs(13)  ghi  nhận  tỷ  lệ  có  ức  chế  vận  động  48%, 
trong đó không có sản phụ nào trong nhóm này 
có ức chế vận động độ II và độ III. 
Năm 2010, Kalra và cs(10) nghiên cứu 50 sản 
phụ  được  chia  làm  hai  nhóm:  nhóm  F  nhận 
bupivacaine  0,065%  phối  hợp  fentanyl  2,5 
mcg/ml  và  nhóm  S  nhận  bupivacaine  0,065% 
phối  hợp  sufentanil  0,25  mcg/ml.  Kết  quả 
nghiên cứu cho thấy nhóm F có điểm đau VAS 
≤  3  sau  20  phút  chiếm  100%,  tỷ  lệ  ức  chế  vận 
động độ 0 là 100%. Tuy nhiên, để đảm bảo đạt 
hiệu  quả  giảm  đau  tốt,  tác  giả  Kalra  đã  nâng 
liều fentanyl hoặc sufentanil. 
Như vậy, việc pha loãng hạ thấp liều thuốc 
tê xuống nồng độ 0,08% vẫn đem lại hiệu quả 
giảm  đau  tốt  gần  như  tương  đương  nồng  độ 
thuốc 0,1% và sử dụng nồng độ thuốc tê 0,08% 
có  thể  thay  thế  cho  bupivacain  0,1%  GTNMC 
giảm  đau  chuyển  dạ,  nhằm  giúp  giảm  tổng 
liều  thuốc  tê  sử  dụng  trên  sản  phụ  mà  vẫn 
đảm bảo giảm đau đủ. 


166

Nếu so sánh đơn thuần trên nhóm 0,1%, kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi có mức độ phong 
bế vận động thấp hơn nghiên cứu  của  Nguyễn 
Văn  Chinh(12)  với  tỷ  lệ  không  ức  chế  vận  động 
trong nhóm GTNMC (Bromage 4) là 77,94%. Sự 
khác biệt rất khó có thể đánh giá chính  xác  mà 
nguyên nhân là do (1) cỡ mẫu khác nhau. Trong 
nghiên cứu của Nguyễn Văn Chinh(12) phong bế 
vận  động  ở  độ  I  thường  xuất  hiện  ở  nhóm  sản 
phụ  có  thời  gian  duy  trì  thuốc  tê  >  3  giờ,  và 
phong bế vận động độ II thấy ở nhóm sản phụ 
có thời gian duy trì thuốc tê > 4,5 giờ (270 phút); 
trong  khi  thời  gian  duy  trì  thuốc  tê  của  nghiên 
cứu chúng tôi < 2 giờ 30 phút. Thứ hai (2), chúng 
tôi  sử  dụng  bảng  đáng  giá  phong  bế  vận  động 
cải tiến Bromage 6 mức độ(2) thay thế cho phiên 
bảng  Bromage  4  mức  độ(3),  và  chúng  tôi  không 
sử  dụng  liều  thuốc  thử  với  thuốc  tê  lidocain 
hoặc bupivacain mà sử dụng bơm một liều nạp 
duy  nhất  với  dung  dịch  thuốc  tê  bupivacain 
nồng  độ  thấp  8  ‐  9,6  mg  phối  hợp  với  fentanyl 
20‐24 mcg. 
Ngược lại, trên nhóm sản phụ GTNMC với 
nồng độ bupivacain 0,08%, kết quả nghiên cứu 
này  tương  tự  như  kết  quả  nghiên  cứu  của 
Nguyễn  Thị  Thanh(11)  với  tỷ  lệ  không  ức  chế 
vận  động  96,4%,  mặc  dù  chúng  tôi  sử  dụng 

bảng đáng giá phong bế vận động Bromage 6 
mức độ. 
Trước đây, khi người ta còn sử dụng thuốc 
tê  bupivacain  nồng  độ  cao,  tác  giả  Breen 
(1993)(2) ghi nhận 68% sản phụ có thể đi lại sau 
khi  bơm  liều  thử  lidocaine‐epinephrine,  liều 
nạp 15ml và truyền liên tục bupivacaine 0,04% 
+  1,7  mcg/ml  epinephrine  +  1,7  mcg/ml 
fentanyl. Tuy nhiên, nồng độ thấp bupivacain 
0,04% không giảm đau đủ.  
Năm  1994,  tác  giả  Buggy(3)  nhận  thấy  66% 
phụ nữ thay đổi bất thường cảm giác ở đầu xa 
chi, trong đó 44% sản phụ cảm thấy khác biệt 
khi  đứng  đến  nỗi  họ  không  tự  tin  khi  đi  lại 
một mình sau khi bơm 15ml bupivacain 0,1% + 
fentanyl  2  mcg/ml.  Tác  giả  Chestnut  và  cs(4) 
chứng  minh  truyền  liên  tục  0,0625% 
bupivacaine với fentanyl 2 mcg/ml ít bị ức chế 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
vận  động  so  với  truyền  liên  tục  0,0625% 
bupivacaine đơn thuần.  
Từ đó, nhiều tác giả đã khuyến cáo sử dụng 
thêm  thuốc  phiện  (fentanyl‐sufentanil)  hoặc 
phối  hợp  với  dung  dịch  thuốc  tê  pha  loãng 
(bupivacain nồng độ từ  0,05%  ‐  0,125%)  để  cho 
phép sản phụ đi lại được sau khi GTNMC giảm 

đau chuyển dạ(6,8). Ngoài ra, việc sử dụng thêm 
thuốc giảm đau trung ương trong GTNMC giảm 
đau chuyển dạ không làm ảnh hưởng đến chỉ số 
apgar  của  trẻ  sơ  sinh.  Kết  quả  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  có  nhóm  0,08%  ít  bị  phong  bế  vận 
động hơn nhóm 0,1% là phù hợp. 
Các  nhà  nghiên  cứu  trong  COMET  (2001)(7) 
kết  luận  tỷ  lệ  giúp  sinh  dụng  cụ  thấp  hơn  với 
nhóm  GTNMC  liều  thấp  hoặc  nhóm  CSE. 
Nhưng tổng liều thuốc bupivacain sử dụng trên 
sản  phụ  ở  nhóm  liều  cao  bupivacain  0,25% 
không khác biệt với nhóm bupivacain 0,1%. 
Hiện nay, ACOG (2006)(1) và RCOG (2007)(14) 
cùng  khuyến  cáo  rằng  gây  tê  vùng  giảm  đau 
chuyển dạ không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ MLT, 
nghĩa là phương pháp này không làm tăng nguy 
cơ MLT đã có sẵn từ trước trên những sản phụ 
có  nguy  cơ  MLT  lựa  chọn  phương  pháp  giảm 
đau với GTNMC 
Mặc  dù  hiện  nay,  mọi  cải  tiến  giảm  liều 
thuốc tê GTNMC nhằm giảm mức độ ức chế vận 
động đến mức tối đa nhưng có một thực tế phải 
nhìn nhận rằng các sản phụ rất ít khi đi lại sau 
khi  GTNMC  giảm  đau.  Việc  lựa  chọn  một 
phương  pháp  giảm  đau  hoặc  nên  đi  lại  nhiều 
trong  chuyển  dạ  hay  không  là  tùy  thuộc  vào 
quyết định hợp tác của người mẹ bên cạnh sự tư 
vấn, động viên của nhân viên y tế.  

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.
11.

12.

13.

14.

KẾT LUẬN 

Nghiên cứu Y học

cesarean delivery rates”. ACOG Committee opinion No. 339; 
107(6): pp. 1487‐1488 
Breen  TW,  Shapiro  T,  Glass  B,  et  al  (1993).  “Modified 

Bromage score”. Anesth Analg; 77: pp. 919 – 24. 
Buggy  D,  Hughes  N,  Gardiner  J  (1994).  “  Posterior  column 
impairment  during  ambulatory  extradural  analgesia  in 
labour”. Br J Anaesth; 73: pp. 540 ‐2 
Campbell  DC,  Zwack  RM,  Crone  LL,  Yip  RW  (2000). 
“Ambulatory  labor  epidural  analgesia:  bupivacaine  versus 
ropivacaine”. Anesth Analg; 90: pp. 1384–9 
Chestnut DH, McGrath JM, Vincent RD Jr, et al (1994). “Does 
early  administration  of  epidural  analgesia  affect  obstetric 
outcome  in  nulliparous  women  who  are  in  spontaneous 
labor?”. Anesthesiology; 80: pp. 1201–8. 
Cohen SE, Yeh JY, Riley ET, Vogel TM (2000). “Walking with 
labor  epidural  analgesia:  the  impact  of  bupivacaine 
concentration  and  a  lidocaine‐epinephrine  test  dose”. 
Anesthesiology; 92(2): pp. 387‐92 
COMET (2001). “Effect of low‐dose mobile versus traditional 
epidural  techniques  on  mode  of  delivery:  a  randomised 
controlled trial”. Lancet; 358(9275): pp. 19‐23 
Connelly NR, Parker RK, Vallurupalli V, et 
al 
(2000). 
“Comparison of epidural fentanyl versus epidural sufentanil 
for  analgesia  in  ambulatory  patients  in  early  labor”. Anesth 
Analg; 91: pp. 374‐378 
Kalra  S,  Saraswat  N,  Agnihotri  G  S,  (2010),  ʺComparison  of 
efficacy  of  bupivacaine  and  fentanyl  with  bupivacaine  and 
sufentanil for epidural labor analgesiaʺ, Saudi J Anaesth, 4(3), 
pp. 178‐181 
Lowe  NK  (2002).  “The  nature  of  labor  pain”.  Am  J  Obstet 
Gynecol; 186: pp. 16–24 

Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Trọng Thắng (2011). “Hiệu quả 
và  an  toàn  của  giảm  đau  trong  chuyển  dạ  với  gây  tê  ngoài 
màng cứng bằng bupivacain nồng độ thấp kết hợp fentanyl 
không dùng liều thuốc thử”. Tạp chí y học Tp.HCM, Đại học 
Y dược Tp.HCM, tập 15, tr. 101 – 108. 
Nguyễn  Văn  Chinh  (2010),  ʺNghiên  cứu  giảm  đau  trong 
chuyển  dạ  bằng  gây  tê  ngoài  màng  cứng  phối  hợp 
Bupivacain  với  Fentanylʺ,  Luận  án  tiến  sĩ  Y  Học,  ĐHYD 
TP.HCM, tr. 60‐79. 
Owen  MD,  Thomas  JA,  Smith  T,  Harris  LC,  DʹAngelo  R, 
(2002),  ʺRopivacaine  0.075%  and  bupivacaine  0.075%  with 
fentanyl  2  microg/mL  are  equivalent  for  labor  epidural 
analgesiaʺ, Anesth Analg, 94(1), pp. 179‐183, table of contents 
Royal  College  of  Obtetricians  and  gynecologists,  Royal  of 
Midwives,  Royal  College  0f  Anesthetists,  Royal  College  of 
Paediatrics  and  Child  Heath.  Safer  Children:  Minimum 
Standards for the Organisation and Delivery of Care in Labor. 
RCOG  Press  at  Royal  College  of  Obtetricians  and 
Gyneciologists 2007. 

Gây  tê  ngoài  màng  cứng  với  bupivacain 
0,08%  phối  hợp  với  fentanyl  đem  lại  hiệu  quả 
giảm đau tốt mà ít phong bế vận động và không 
ảnh hưởng lên mẹ và con. 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 


1.

 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 

American  College  of  Obstetricians  and  Gynecologists, 
Committee  on  Obstetric  Practice  (2006).  “Analgesia  and 

Sản Phụ Khoa

167



×