Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Diễn tiến ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn tiến xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.44 KB, 2 trang )

Tổng Quan  

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

DIỄN TIẾN UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT GIAI ĐOẠN TIẾN XA 
Nguyễn Tuấn Vinh*, Trà Anh Duy* 

MỞ ĐẦU 
Ung  thư  tuyến  tiền  liệt  là  loại  ung  thư  rất 
phổ  biến  ở  nam  giới,  về  tần  suất  đã  vượt  qua 
ung  thư  phổi.  Theo  thống  kể  thì  năm  2012  số 
trường  hợp  mắc  ung  thư  tuyến  tiền  liệt  là 
271.740,  chiếm  29%  các  trường  hợp  ung  thư(6). 
Về  tử  suất,  ung  thư  tuyến  tiền  liệt  cũng  là 
nguyên  nhân  gây  tử  vong  đứng  hàng  thứ  2  ở 
nam giới. Ung thư tuyến tiền liệt diễn biến phức 
tạp nên để điều trị cho tốt, người thầy thuốc cần 
cần nắm vững bệnh sử tự nhiên của bệnh cũng 
như  chẩn  đoán,  phân  giai  đoạn  cũng  như  lựa 
chọn điều trị. 
Diễn  tiến  của  ung  thư  tuyến  tiền  liệt  ngoài 
diễn tiến tự  nhiên của bệnh còn có những diễn 
tiến  xấu  do  tác  dụng  ngoại  ý  của  điều  trị  như 
điều trị nội tiết, xạ trị hay do hóa trị toàn thân. 

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU TRỊ NỘI TIẾT 
LÊN  BỆNH  NHÂN  UNG  THƯ  TUYẾN 
TIỀN LIỆT 
Khi điều trị với nội tiết bệnh nhân thường có 
nhiều tác dụng ngoại ý nên nếu chỉ định điều trị 
không  đúng  cũng  như  không  xử  trí  tốt  các  tác 


dụng  ngoại  ý  này  thì  hiệu  quả  điều  trị  có  thể 
kém  hơn  không  điều  trị.  Có  nhiều  tác  dụng 
ngoại ý nhưng chủ yếu là: 
‐ Đái tháo đường: đường huyết có thể tăng 
hay trên cơ địa bệnh nhân đái tháo đường đang 
điều trị thì đường huyết không ổn cần chỉnh liều 
và thay đổi chế độ sinh hoạt(2). 
‐ Bệnh lý tim mạch: có ghi nhận bệnh lý tim 
mạch khi dung nội tiết điều trị, chủ yếu có tình 
trạng giữ nước, tăng áp huyết(2). 
‐ Bốc hỏa: gây khó chịu cho bệnh nhân như 
rối  loạn  tiền  mãn  kinh  ở  phụ  nữ,  nhất  là  trong 
thời gian đầu điều trị. Có thể phải điều trị triệu 
chứng cho bệnh nhân trong giai đoạn này. 

‐  Rối  loạn  cương  dương:  đây  là  hậu  quả 
không  tránh  khỏi  khi  điều  trị  nội  tiết  nhưng  ở 
giai đoạn tiến xa thường bệnh nhân không còn 
nhu cầu điều trị. 
‐  Nhũ  hóa  tuyến  vú:  thường  gặp  nhưng 
không  gây  quá  khó  chịu  cho  bệnh  nhân.  Tuy 
nhiên có một số bệnh nhân đau nhiều có thể phải 
xạ trị hay thậm chí cần phẫu thuật tuyến vú. 
‐  Loãng  xương:  đây  là  diễn  tiến  luôn  có  và 
nguy  hiểm  cho  bệnh  nhân  vì  gây  đau  nhức 
xương, hạn chế hoạt động, dễ xảy ra những biến 
cố về xương(5). Điều trị gồm phối hợp thuốc, vận 
động. 

ẢNH  HƯỞNG  CỦA  HÓA  TRỊ  TRÊN 

UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT 
Khi  ung  thư  đã  kháng  với  nội  tiết  thì  bệnh 
nhân  phải  được  hóa  trị  ,  một  liệu  pháp  ít  hiệu 
quả nhưng lại có nhiều tác dụng phụ trên bệnh 
nhân như: 

Giảm các dòng tế bào máu 
Có thể giảm 1 dòng, 2 hay 3 dòng và có thể 
giảm tạm thời hay xơ tủy gây suy tủy không hồi 
phục. Khi giảm các dòng tế bào máu thì tùy loại 
có  thể  có  các  triệu  chứng  khác  nhau  như  dễ 
nhiễm  trùng,  dễ  xuất  huyết.  Hiện  nay  đối  với 
giảm dòng hồng cầu và bạch cầu thì trê tị trường 
đã  có  nhiều  loại  thuốc  phổ  biến  nhưng  đối  với 
dòng  hồng  cầu  thì  hiệu  quả  kém  hơn  đối  với 
dòng bạch cầu. Khi giảm tiểu cầu hiện nay cũng 
có thuốc điều trị nhưng còn chưa phổ biến trên 
thị trường nên thường phải truyền tiểu cầu khi 
có chỉ định. 

Ảnh hưởng trên tim 
Các  thuốc  hóa  trị  ung  thư  tuyến  tiền  liệt, 
tương  tự  với  điều  trị  nội  tiết,  có  thể  gây  giữ 
nước,  suy  tim  ứ  huyết  trên  các  bệnh  nhân  có 
bệnh  lý  tim  có  sẵn.  Giữ  nước  thường  thể  hiện 
qua triệu chứng tràn dịch các màng, chủ yếu là 

* Khoa Niệu, bệnh viện Bình Dân Tp.HCM 
Tác giả liên lạc: PGS TS Nguyễn Tuấn Vinh    ĐT: 0909655145   Email:  


24

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
tràn dịch màng phổi. Có thể dùng lợi tiểu để giải 
quyết tình trạng ứ nước. 

Các triệu chứng trên thần kinh cảm giác 
Có thể giải chỉnh liều lại hoặc khi quá trầm 
trọng phải tạm ngưng điều trị. 

DIỄN  TIẾN  TỰ  NHIÊN  CỦA  UNG  THƯ 
TUYẾN TIỀN LIỆT 
Loãng xương và di căn xương 
Ung thư tuyến tiền liệt giai doạn tiến triễn có 
tỉ  lệ  di  căn  xương  từ  65%‐75%.  Đa  số  các  tổn 
thương  xương  do  di  căn  từ  ung  thư  tuyến  tiền 
liệt  có  dạng  tăng  tạo  xương  nên  trên  hình    X 
quang có tăng mật độ xương, tuy nhiên do cấu 
trúc  xương  bệnh  lý  nên  giống  như  các  di  căn 
xương của các loại ung thư khác, bệnh nhân dễ 
có  những  biến  cố  xương  gây  giảm  chất  lương 
cuộc sống của bệnh nhân cũng như gây tử vong 
cho bệnh nhân như: gãy xương bệnh lý, lâu ành 
xương, tăng calci máu ác tính, chèn ép tủy…  
Các tế bào di căn đến xương sẽ tiết  ra các tín 
hiệu  hoạt  hóa  các  tiêu  cốt  bào  gây  hủy  hoại 
xương, để ngăn ngừa tiến trình này có thể dùng 

zoledronic  acid,  một  biphosphonat  có  tác  dụng 
ức  chế  men  FPP  synthase  trong  con  đường  
mevalonat,  ngăn  sự  thành  lập  protein  cần  thiết 
cho hoạt động của tiêu cốt bào. Ngoài ra có thể 
tiêm Denosumab, một loại kháng thể đơn dòng 
Gắn kết với RANKL, ngăn cản sự hoạt động của 
tiêu cốt bào. 
Ngoài phương pháp điều trị nội khoa với các 
thuốc trên, có thể cân nhắc xạ trị vào chỗ di căn 
cũng  có  thể  giúp  giảm  đau  với  liều  8  Gy  duy 
nhất  hay  30  Gy  chia  ra  10  lần(3)  hay  khi  di  căn 
xương  nhiều  chỗ  có  thể  dùng  chất  đồng  vị 
phóng xạ như Strontium 89 hay Samarium 153. 
Các nẹp đặc biệt của khoa chấn thương cũng có 
thể dùng trong một số trường hợp. Hóa chất trị 

Tổng Quan 

ung  thư  nếu  nhạy  cũng  là  một  phương  pháp 
điều  trị  nâng  đỡ  có  hiệu  quả.  Các  thuốc  giảm 
đau  họ  morphin  thường  được  sử  dụng  trong 
giai đoạn cuối của bệnh. 

Di căn tủy xương  
Có thể gây giảm các dòng tế bào máu là một 
diễn tiến cuối cùng của ung thư  tuyến tiền liệt, 
bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng xuất 
huyết  do  giảm  tiểu  cầu,  nhiễm  trùng  do  giảm 
bạch cầu hay thiếu máu do giảm hồng cầu. Điều 
trị  thường không đáp ứng. Có thể dùng thuốc 

chống ung thư như là một biện pháp vớt vát và 
đôi khi có thể làm bệnh nhân tử vong sớm hơn 
nên luôn phải cân nhắc thận trọng. 

Tràn dịch đa màng ác tính  
Cũng là một diễn tiến có thể gặp ở giai đoạn 
cuối  của  ung  thư  tuyến  tiền  liệt.  Điều  trị  khó 
khăn, ít hiệu quả, có thể phải chọc tháo dịch để 
giảm  triệu  chứng.  Một  số  nghiên  cứu  dùng 
bevacizumab(1)  hay  catumaxomab(4)  cũng  cho 
nhiều kết quả khả quan. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

El‐Shami  K,  Elsaid  A,  El‐Kerm  Y.  Open  label  safety  and 
efficacy pilot trial of intraperitoneal bevacizumab as palliative 
treatment  in  refractory  malignant  ascites.  J  Clin  Oncol 
2007;25(185):9043 
Keating  NL,  O’Malley  AJ,  Smith  MR.  Diabetes  and 

cardiovascular disease during androgen deprivation therapy 
for prostate cancer. J Clin Oncol 2006;24:4448‐4456. 
Konski    A,  James  J,  Hartsell  W  .  Economic    analysis  of 
radiation  therapy  oncology  group  97‐14:  multiple  versus 
single  fraction  radiation  treatment  of  patients  with  bone 
metastases. Am J Clin Oncol 2009;32:423‐428 
Lila  Ammouri,  Eric  E  Prommer.  Palliative  treatment  of 
malignant  ascites:  profile  of  catumaxomab.  Biologies 
2010;4:103‐110 
Shahinian  VB,  Kuo  WF,  Freeman  JL,  Goodwin  JS.  Risk  of 
fracture  after  androgen  deprivation  for  prostate  cancer.  N 
Engl J Med 2005;352:154‐164. 
Siegel R, Naishadham D, Jemal A. Cancer stastistics,2012. CA 
Cancer J Clin 2012;62:10‐29 

 

Chuyên Đề Thận – Niệu 

25



×