Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 7 trang )
p 15 * Số 2 * 2011
gan. Trên diện cắt gan, cấu trúc vách bị xóa,
thay bằng mô u cứng, chắc, màu trắng. U có
thể rò do xâm nhập tạng lân cận; (2) Dạng
chồi sùi vào lòng túi mật thành khối như
bông cải đồng thời xâm nhập vách túi mật có
thể gây loét, hoại tử, chảy máu. Khi u được
phát hiện, thường đã có xâm lấn gan, đường
mật, di căn hạch vùng. Triệu chứng lâm sàng
không biểu hiện rõ dù u đã xâm lấn các tạng
lân cận. Ống túi mật có thể bị tắc nghẽn, mật
ứ trong túi mật được tái hấp thu và được thay
bằng chất nhầy tạo nên tình trạng túi mật
nước(10).
Đường lan truyền: 25% trường hợp ung thư
túi mật di căn theo các hạch bạch huyết, 70% di
căn gan. Hạch lân cận gồm: hạch ở ống cổ túi
mật, hạch quanh ống mật chủ, hạch ở đầu tụy,
dọc động mạch chủ bụng. Đường thứ hai của di
căn hạch là hạch sau tĩnh mạch cửa, hạch bên
phải động mạch chậu qua dây chằng gan vị.
Đường thứ ba sau túi mật là tụy và động mạch
chủ bụng. Thông thường ung thư túi mật xâm
lấn vào gan, tĩnh mạch cửa gây tắc ống gan
chung, ống mật chủ.
Để chẩn đoán ung thư túi mật, theo Shi và
cs , tỷ lệ CA19-9 dương tính là 81,31%. Nhiều
báo cáo cho rằng CA12-5 và CEA cũng có giá trị
trong chẩn đoán ung thư túi mật, nhưng không
phải là marker đặc hiệu.
(16)