Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phẫu thuật nội soi mở thông sàn não thất ba kết hợp đốt đám rối mạch mạc não thất bên trong điều trị đầu nước tắc cống não bẩm sinh ở trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.26 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

PHẪU THUẬT NỘI SOI MỞ THÔNG SÀN NÃO THẤT BA KẾT HỢP  
ĐỐT ĐÁM RỐI MẠCH MẠC NÃO THẤT BÊN  
TRONG ĐIỀU TRỊ ĐẦU NƯỚC TẮC CỐNG NÃO BẨM SINH Ở TRẺ EM 
Nguyễn Duy Khải*, Đặng Đỗ Thanh Cần* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu hiệu quả điều trị của phẫu thuật nội soi mở thông sàn não thất ba kèm đốt đám rối 
mạch mạc não thất bên ở trẻ đầu nước tắc cống não bẩm sinh. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu can thiệp các trường hợp trẻ đầu nước tắc cống não bẩm sinh 
nhập viện và điều trị tại khoa Ngoại Thần Kinh, bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 01/05/2013 đến 30/06/2014. 
Kết  quả:  Qua  nghiên  cứu  27  trường hợp đầu nước tắc  cống não bẩm  sinh được  phẫu  thuật nội  soi  mở 
thông sàn não thất ba kèm đốt đám rối mạch mạc não thất bên, tỉ lệ thành công là 81,5% với thời gian theo dõi 
trung bình là 8.1 ± 0,6 tháng. Tỉ lệ thành công ở trẻ nhỏ hơn 1 tuổi là 81,8%, ở trẻ lớn hơn 1 tuổi là 80%. Phẫu 
thuật không có ca tử vong hay di chứng thần kinh, biến chứng nhẹ thoáng qua xuất hiện ở 29,6% bệnh nhân.  
Kết luận: Điều trị bệnh đầu nước tắc cống não bẩm sinh bằng phương pháp phẫu thuật nội soi mở thông 
sàn não thất ba kèm đốt đám rối mạch mạc não thất bên có tỷ lệ thành công cao. Đốt đám rối mạch mạc não thất 
bên cải thiện hiệu quả của nội soi mở thông sàn não thất ba ở trẻ tắc cống não bẩm sinh nhỏ hơn 1 tuổi. 
Từ khóa: tắc cống não bẩm sinh, phẫu thuật nội soi mở thông sàn não thất ba kèm đốt đám rối mạch mạc 
não thất bên. 

ABSTRACT 
ENDOSCOPIC THIRD VENTRICULOSTOMY COMBINED WITH CHOROID PLEXUS  
CAUTERIZATION IN THE TREATMENT OF CONGENITAL AQUEDUCTAL STENOSIS 
Nguyen Duy Khai, Dang Do Thanh Can  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 139 – 143 


Objectives:  Study  the  outcome  of  endoscopic  third  ventriculostomy  combined  with  choroid  plexus 
cauterization in the treatment of congenital aqueductal stenosis. 
Methods: All cases of congenital aqueductal stenosis at Children’s hospital 2 from May 1st 2013 to June 
30th 2014. 
Results: Twenty‐seven patients met the study criteria and endoscopic third ventriculostomy combined with 
choroid plexus cauterization was performed. Treatment was successful in 81.5% of the patients, the mean follow‐
up was 8,1 ± 0,6 tháng. The success rate of patients younger than 1 year is 81,8%, of older than 1 year is 80%. 
The mild complications of procedure is 29,6% of patients. 
Conclusions:  Congenital  aqueductal  stenosis  is  the  good  candidate  for  endoscopic  third  ventriculostomy 
combined  with  choroid  plexus  cauterization.  Choroid  plexus  cauterization  improves  the  outcome  in  patients 
younger than 1 year. 
Key words: congenital aqueductal stenosis, endoscopic third ventriculostomy combined with choroid plexus 
cauterization. 
* Khoa Ngoại Thần Kinh, Bệnh viện Nhi Đồng 2  
Tác giả liên lạc: BS.Nguyễn Duy Khải;   ĐT: 0919121426,   Email:  

Bệnh Lý Sọ Não 

139


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đầu nước (não úng thủy) là tình trạng bệnh 
lý  nguy  hiểm,  đe  dọa  tính  mạng  và  làm  giảm 
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (BN). Đây 

là  bệnh  ngoại  thần  kinh  nhi  thường  gặp  nhất, 
ước tính khoảng 40 – 50% các lượt khám và điều 
trị hàng năm tại các trung tâm Ngoại Thần Kinh 
Nhi(1).  Đầu  nước  (ĐN)  hiện  nay  được  điều  trị 
chủ  yếu  bằng  hệ  thống  ống  dẫn  (shunt)  có  van 
kiểm soát áp lực một chiều. Tuy nhiên, thất bại 
của shunt năm đầu lên đến 30 – 40% và 1% số trẻ 
ĐN đã đặt shunt tử vong mỗi năm tiếp theo(1).  
Để hạn chế biến chứng shunt, phẫu thuật nội 
soi  mở  thông  sàn  não  thất  ba  (PTNSMTSNTB) 
đang  được  nghiên  cứu  nhiều  để  điều  trị  ĐN 
thay  thế  shunt(1,11).  PTNSMTSNTB  thành  công 
hơn 75% với trẻ đầu nước tắc cống não bẩm sinh 
(ĐNTCNBS), nhưng kém hiệu quả ở trẻ nhỏ hơn 
1  tuổi  (1,4,11).  Warf  đề  nghị  PTNSMTSNTB  kèm 
đốt  đám  rối  mạch  mạc  não  thất  bên 
(ĐĐRMMNTB) để làm tăng hiệu quả điều trị ở 
trẻ nhỏ hơn 1 tuổi(13).  
 Hiện nay, chưa có báo cáo về hiệu quả của 
PTNSMTSNTB kèm ĐĐRMMNTB trong điều trị 
ĐNTCNBS tại Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này trong nỗ lực chung nhằm 
hạn chế phụ thuộc shunt ở bệnh ĐN trẻ em. 

Mục tiêu nghiên cứu 
 Nghiên cứu hiệu quả điều trị của phẫu thuật 
nội soi mở thông sàn não thất ba kèm đốt đám 
rối  mạch  mạc  não  thất  bên  ở  trẻ  đầu  nước  tắc 
cống não bẩm sinh. 


ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất  cả  bệnh  nhân  ĐNTCNBS  nhập  viện  và 
điều  trị  tại  khoa  Ngoại  Thần  Kinh,  bệnh  viện 
Nhi Đồng 2 TP. Hồ Chí Minh từ 01/05/2013 đến 
30/06/2014. 
Đầu nước do TCNBS gặp ở nhiều lứa tuổi, 
đa phần ở trẻ đầu nước tắc cống não nhỏ hơn 1 
tuổi,  nam  gặp  nhiều  hơn  nữ.  Biểu  hiện  lâm 
sàng thay đổi theo tuổi. Ở trẻ dưới 1 tuổi, triệu 

140

chứng thường diễn tiến nhanh hơn trẻ lớn với 
vòng  đầu  to  nhanh  và  chậm  phát  triển  tâm 
thần  vận  động.  40%  trẻ  >  1  tuổi  có  biểu  hiện 
tăng  áp  lực  nội  sọ  cấp  tính.  Cộng  hưởng  từ 
(CHT)  cần  thiết  để  hỗ  trợ  chẩn  đoán  và  điều 
trị.  Trên  CHT  có  thể  khảo  sát  tốt  nhất  tình 
trạng cống não ở mặt phẳng dọc giữa và có thể 
đánh  giá  các  cấu  trúc  giải  phẫu  liên  quan  có 
thể tiên lượng cho phẫu thuật. 

Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả can thiệp tiến cứu 

Phương pháp và kỹ thuật mổ 
Bệnh  nhân  nằm  ngửa,  mê  nội  khí  quản,  tư 
thế đầu cao 30o. Rạch da vùng trán, khoan sọ 1 lỗ 

và mở màng cứng. Đưa trocar và scope vào sừng 
trán não thất cùng bên để vào não thất ba. Dùng 
Lactate Ringer để bơm vào hệ thống não thất. Vị 
trí mở thông là trọng tâm của tam giác giới hạn 
bởi mỏm phễu tuyến yên và 2 thể núm vú. Dùng 
kềm sinh thiết mở 1 lỗ trên sàn não thất ba, nong 
rộng bằng bóng Fogarty, phải mở thông cả màng 
Liliequist.  Nếu  sàn  não  thất  đong  đưa  là  có  sự 
thông  thương  của  dịch  não  tủy.  Nếu  có  chảy 
máu, bơm rửa bằng Lactate Ringer ngay tại vị trí 
chảy máu hay dùng bóng Fogarty ép vào (mép 
lỗ mở). Rút nhẹ scope và ống Bugby với nguồn 
điện  đơn  cực  có  cường  độ  thấp  nhất  để 
ĐĐRMMNTB từ lỗ gian não thất đến sừng thái 
dương  của  não  thất  bên.  Sau  khi  đốt  xong,  rút 
scope,  đặt  miếng  Gelfoam  ở  vị  trí  vào  trên  vỏ 
não, cầm máu bên ngoài đường vào và đóng vết 
mổ. Thực hiện tương tự ở bên còn lại. 

Đánh giá kết quả điều trị 
Đánh giá BN trong thời gian nằm hậu phẫu; 
sau mổ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm và mỗi 
năm  tiếp  theo.  Phẫu  thuật  thành  công:  bệnh 
nhân cải thiện các triệu chứng của ĐN mà không 
cần  can  thiệp  thêm  về  phẫu  thuật.  Phẫu  thuật 
thất bại: các triệu chứng ĐN không cải thiện hay 
diễn biến nặng hơn và phải cần can thiệp thêm 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
phẫu thuật mới có thể kiểm soát được tình trạng 
ĐN; hoặc bệnh nhân tử vong do phẫu thuật. 

thành công ở nhóm < 1 tuổi là 81,8% và nhóm > 1 
tuổi là 80%. 

KẾT QUẢ 

Trong các BN thất bại, 4 BN đặt shunt ở các 
ngày  hậu  phẫu  thứ  3,  5,  8,  11  vì  dò  dịch  não 
tủy  không  đáp  ứng  sau  khi  khâu  lại  vết 
thương và các triệu chứng ĐN không cải thiện. 
1  BN  đặt  shunt  sau  mổ  1  tháng  vì  các  triệu 
chứng ĐN tái phát. 

Điều trị phẫu thuật 
Sàn não thất mỏng, quan sát được các cấu 
trúc mạch máu và thần kinh bên dưới ở 21 BN 
(78%),  dày  ở  6  BN  (22%).  Vị  trí  mở  lỗ  thông: 
trung  tâm  sàn  não  thất  trong  24  BN  (88,9%), 
lệch  sang  bên  và  ra  trước  ở  3  BN  (11,1%). 
Màng Liliequist quan sát được ở 20 BN (74%), 
không  quan  sát  được  ở  7  BN  (26%).  Sàn  não 
thất  đong  đưa  sau  khi  mở  thông  ở  100%  BN. 

Đốt  đám  rối  mạch  mạc  não  thất  bên:  không 
hoàn  toàn  (<  90%)  ở  24  BN  (88,9%)  và  hoàn 
toàn (≥ 90%) ở 3 BN (11,1%). 
Thời gian phẫu thuật trung bình là 83 ± 5.1 
phút,  ngắn  nhất  là  60  phút  và  dài  nhất  là  120 
phút. 
Biến  chứng  trong  lúc  phẫu  thuật:  4  BN 
(14,8%) bao gồm: chảy máu ít (14,8%) và 2 BN 
(7,4%)  chảy máu  vừa.  Xuất  huyết  trong  mổ  là 
chảy máu ít (các tia máu từ mép sàn não thất), 
vừa (chảy máu thành vòi rỉ rả từ các tĩnh mạch 
trên đường đi) và nhiều (cần phải truyền máu 
trong mổ). 
Biến  chứng  sau  phẫu  thuật:  xuất  huyết  não 
thất  gặp  ở  2  trường  hợp  chảy  máu  lượng  vừa 
(7,4%), sốt 3 BN (11,1%) tập trung ở các trường 
hợp chảy máu trong mổ và thời gian mổ lâu, vã 
mồ hôi sau mổ ở 2 BN thực hiện phẫu thuật lâu 
nhất (7,4%), chảy dịch não tủy qua vết mổ 5 BN 
(18,5%),  tụ  máu  dưới  màng  cứng  mạn  tính  ở  1 
BN  (3,7%). Các  biến  chứng sau  mổ  gặp  ở 8  BN 
(29,6%). 
Thời gian nằm hậu phẫu trung bình là 8 ± 2,1 
ngày, ngắn nhất 4 ngày, dài nhất là 20 ngày. 

Kết quả điều trị phẫu thuật 
27  BN  được  phẫu  thuật,  22  BN  thành  công 
(81,5%). Thời gian theo dõi trung bình là 8,1 ± 0,6 
tháng, ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 15 tháng. 
Trong 5 BN cần đặt shunt có 4 bệnh nhân < 1 

tuổi  và  1  bệnh  nhân  >  1  tuổi  (18  tháng).  Tỉ  lệ 

Bệnh Lý Sọ Não 

BÀN LUẬN 
Phẫu thuật 
Đặc tính sàn não thất 
Sàn  não  thất  mỏng  (21  BN)  có  1  BN  chảy 
máu  ít  (4,8%)  trong  lúc  mổ,  trong  khi  sàn  não 
thất dày (6 BN) có 3 BN chảy máu ít (50%) và 2 
BN chảy máu vừa (33,3%). Sự khác biệt về biến 
chứng  chảy  máu  ở  nhóm  sàn  não  thất  dày  và 
mỏng là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả 
tương tự với(12). 

Vị trí mở lỗ thông trên sàn não thất 
Mở  lỗ  thông  ở  trung  tâm  sàn  não  thất  (24 
BN) có 3 BN chảy máu ít (12,5%) trong lúc mổ, 
trong khi mở lỗ thông lệch trung tâm (3 BN) có 1 
BN chảy máu ít (33,3%) và 2 BN chảy máu vừa 
(66,7%).  Sự  khác  biệt  về  biến  chứng  chảy  máu 
trong  mở  lỗ  thông  ở trung tâm sàn não  thất  và 
lệch sang bên có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết 
quả này tương đồng với Schoroeder HWS(11). 

Màng Liliequist 
Quan  sát  được  ở  20  bệnh  nhân  (74%).  Theo 
Froelich và cộng sự(5), đây là cấu trúc rất thay đổi 
theo từng bệnh nhân và làm giảm hiệu quả của 
phẫu  thuật.  Thường  màng  này  có  2  lớp:  lớp 

trung  não  và  lớp  gian  não.  Nếu  mở  lỗ  thông 
ngay  giữa  sàn  não  thất  sẽ  gặp  lớp  gian  não 
hướng  vuông  góc  với  động  mạch  thân  nền. 
Trong  trường  hợp  mở  lỗ  thông  ra trước  hơn sẽ 
gặp  lớp  trung  não,  lớp  này  thông  với  bể  giao 
thoa. Nếu mở trên lớp trung não không đủ rộng 
sẽ làm hạn chế sự thông thương giữa não thất ba 
và bể trước cầu não, phẫu thuật sẽ dễ thất bại.  

141


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
Đốt đám rối mạch mạc não thất bên 
5 BN thất bại đều ĐĐRMMNTB không hoàn 
toàn. Thao bằng ống soi cứng làm khó tiếp cận 
hết đám rối mạch mạc, đặc biệt là khu vực sừng 
thái dương của não thất bên. Kết quả phẫu thuật 
ở nhóm ĐĐRMMNTB hoàn toàn và không hoàn 
toàn có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê (p < 
0,05). Điều này tương đồng với Kulkarni(8). 

Thời gian phẫu thuật 
Từ  60  đến  120  phút,  trung  bình  là  83  ±  5,1 
phút, tương đồng với Kulkarni(7). 


Các biến chứng của phẫu thuật 
Không có xuất huyết nặng hay tử vong (0%). 
Các biến chứng nhẹ thoáng qua gồm: xuất huyết 
não  thất  7,4%,  sốt  11,1%,  chảy  dịch  não  tủy 
18,5%,  vã  mồ  hôi  7,4%,  tụ  máu  mạn  tính  3,7%. 
Như  vậy,  mẫu  nghiên  cứu  không  có  các  biến 
chứng nặng gây tử vong hay di chứng thần kinh 
vĩnh  viễn,  các  biến  chứng  nhẹ  thoáng  qua  xuất 
hiện ở 8 bệnh nhân (29,6%). Kết quả này tương 
đồng với(2,7,10). 

Kết quả phẫu thuật 
Bảng 1: Kết quả điều trị so với các nghiên cứu khác  
Tỉ lệ (%)
Warf(13)
Phạm(10)
Kulkarni(8)
Mẫu nghiên
cứu

Thành < 1 tuổi, < 1 tuổi, > 1 tuổi, > 1 tuổi,
công
đốt (+) đốt (-) đốt (+) đốt (-)
chung
81,9
48,6
79,6
53,8
88,4
70,7

65,8
80,5
81,5
81,8
80

Khi so sánh kết quả của mẫu nghiên cứu với 
tỉ  lệ  dự  đoán theo  công thức  của  Kulkarni thấy 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Mẫu 
nghiên cứu của chúng tôi chỉ khác biệt so với dự 
đoán  là  có  thêm  ĐĐRMMNTB.  Như  vậy, 
ĐĐRMMNTB  đã  làm  tăng  tỉ  lệ  thành  công  của 
mẫu nghiên cứu. 
Các  ca  thất  bại  của  chúng  tôi  xảy  ra  trong 
vòng 1 tháng. Thất bại sớm thường là do cơ chế 
hấp thu dịch não tủy kém, muộn là do tắc lại lỗ 
mở trên sàn não thất(4,5). 

142

Trước đây, PTNSMTSNTB đơn thuần cho tỉ 
lệ thành công thấp ở nhóm trẻ < 1 tuổi(1,4,11). 
Theo  Nishiyama(9)  khả  năng  hấp  thu  của 
khoang  dưới  nhện  cải  thiện  sau  mổ  vài  tháng. 
Gallo  và  cộng  sự(6)  cho  rằng  2  tháng  đầu  đời  là 
mốc thời gian quan trọng để các hạt màng nhện 
trưởng  thành  và  khoang  dưới  nhện  phát  triển 
đáng  kể  khả  năng  hấp  thu.  Theo  Fritsch(4)  có  2 
nguyên nhân chính làm PTNSMTSNTB hay thất 
bại  ở  nhóm  trẻ  <  1  tuổi:  tăng  áp  lực  nội  sọ  hay 

làm  rộng  các  khớp  sọ  dễ  hơn  là  tạo  áp  lực  ép 
dịch  não  tủy  qua  lỗ  thông  sàn  não  thất  và  tình 
trạng rối loạn hấp thu DNT ở các trẻ có tiền sử 
viêm  màng  não  hay  xuất  huyết.  Kulkarni(8)  cho 
rằng  tuổi  là  yếu  tố  quan  trọng  nhất  quyết  định 
hiệu quả của phẫu thuật. 
Khi  so  sánh  kết  quả  ở  trẻ  <  1  tuổi  của  mẫu 
nghiên cứu với tỉ lệ dự đoán theo công thức của 
Kulkarni thấy sự  khác  biệt  có  ý nghĩa thống  kê 
(p < 0,01), trong khi không có sự khác biệt mang 
ý nghĩa thống kê với kết quả của Warf (p < 0,05). 
Như  vậy,  ĐĐRMMNTB  cải  thiện  hiệu  quả  của 
PTNSMTSNTB ở nhóm trẻ < 1 tuổi.  
Không có sự khác biệt mang ý nghĩa thông 
kê  giữa  mẫu  nghiên  cứu  với  dự  đoán  theo 
Kulkarni và Phạm Anh Tuấn (p < 0,05) ở nhóm 
trẻ > 1 tuổi. Như vậy, ĐĐRMMNTB không cải 
thiện kết quả ở bệnh nhân > 1 tuổi. 

KẾT LUẬN 
Đầu nước tắc cống não bẩm sinh được điều 
trị  bằng  phẫu  thuật  nội  soi  mở  thông  sàn  não 
thất ba kèm đốt đám rối mạch mạc não thất bên 
có tỉ lệ thành công khá cao là 81,5%. Phẫu thuật 
có tính an toàn, không có bệnh nhân tử vong hay 
di  chứng  nặng  về  thần  kinh.  Biến  chứng  nhẹ 
thoáng qua chiếm tỉ lệ 29,6%. Đốt đám rối mạch 
mạc  não  thất  bên  cải  thiện  rõ  rệt  hiệu  quả  của 
phẫu  thuật  nội  soi  mở  thông  sàn  não  thất  ba  ở 
trẻ tắc cống não bẩm sinh < 1 tuổi. 


Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
fluid disorders, 1st edition, pp 526‐527. Informa Healthcare USA, 
Inc, New York.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Anderson  CER,  Walker  LM  (2008).  Neuroendoscopy.  In: 
Albright  AL,  Pollack  IF,  Aldelson  PH  (eds).  Principles  and 
practice  of  pediatric  neurosurgery,  Vol.  1,  2nd  edition,  pp  131‐
144. Thieme Medical Publishers, Inc, New York.  

2.

Bouras  T  et  al  (2011).  Complications  of  endoscopic  third 
ventriculostomy. J Neurosurg Pediatrics, 7: 643‐649.  

3.

Cinalli G, Spennato P, Aliberti F, Cianciulli E (2010). Aqueductal 
stenosis.  In:  Mallucci  C,  Sgouros  S  (eds).  Cerebrospinal  fluid 
disorders, 1st edition, pp 154‐188. Informa Healthcare USA, Inc, 

New York.  

9.

Nishiyama  K  et  al,  1998.  Changes  in  cerebrospinal  fluid 
hydrodynamics  following  third  ventriculostomy  for  shunt‐
dependent noncommunicating hydrocephalus. J Neurosurg, 98: 
1027–1031.  

10. Phạm Anh Tuấn (2008). Điều trị đầu nước tắc nghẽn bằng phẫu 
thuật nội soi mở thông sàn não thất III. Luận văn tốt nghiệp thạc 
sỹ y học, tr 1‐69. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam.  
11. Schoroeder HWS et al (2002). Complications of endoscopic third 
ventriculostomy. J Neurosurg, 96:1032–1040.  
12. Sufianov  AA  et al  (2010).  Endoscopic  third  ventriculostomy in 
patients  younger  than  2  years:  outcome  analysis  of  41 
hydrocephalus cases. J Neurosurg Pediatrics, 5: 392–401.  

4.

Fritsch MJ et al (2002). Endoscopic intraventricular surgery for 
treatment of hydrocephalus and loculated CSF space in children 
less than one year of age. Pediatr Neurosurg, 36:183‐188.  

5.

Froelich S.C et al, 2008. Microsurgical and endoscopic anatomy 
of  Liliequist’s  membrane:  a  complex  and  variable  structure  of 
the basal cisterns. Neurosurgery, 63 ONS Suppl: 1–9.  


13. Warf  B  et  al  (2012).  Long‐term  outcome  for  endoscopic  third 
ventriculostomy  alone  or  in  combination  with  choroid  plexus 
cauterization  for  congenital  aqueductal  stenosis  in  African 
infants. J Neurosurg Pediatrics, 10: 108–111.  

6.

Gallo  P  et  al,  2010.  Endoscopic  third  ventriculostomy  in 
obstructive infantile hydrocephalus: remarks about the so‐called 
‘unsuccessful cases’. Pediatr Neurosurg, 46: 435–441.  

 

7.

Kulkarni AV et al (2014). Endoscopic third ventriculostomy and 
choroid  plexus  cauterization  in  infans  with  hydrocephalus:  a 
retrospective Hydrocephalus Clinical Research Network Study. 
J Neurosurg Pediatrics, 13:31‐71.  

8.

Ngày nhận bài báo  

 

 

12/10/2014 


Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

27/10/2014 

Ngày bài báo được đăng: 

5/12/2014 

 

 

Kulkarni AV (2010). Predicting success of ETV in children with 
hydrocephalus.  In:  Mallucci  C,  Sgouros  S  (eds). Cerebrospinal 
 

Bệnh Lý Sọ Não 

143



×