Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hiệu quả khởi phát chuyển dạ với thông foley qua kênh cổ tử cung ở thai từ 37 tuần tại Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.32 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

HIỆU QUẢ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ VỚI THÔNG FOLEY  
QUA KÊNH CỔ TỬ CUNG Ở THAI TỪ 37 TUẦN  
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂY NINH  
Mai Thị Mỹ Duyên*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang* 

TÓM TẮT 
Mở  đầu:  Khởi  phát  chuyển  dạ  (KPCD)  ở  thai  đủ  trưởng  thành  có  nhiều  lý  do  khác  nhau  nhưng  có  xu 
hướng ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam các biện pháp khởi phát chuyển dạ khi cổ tử cung 
chưa thuận lợi (chín mùi)trong gia đoạn hiện nay chủ yếu là các biện pháp cơ học. 
Mục tiêu : Xác định tỷ lệ thành công trong KPCD của thông Foley, thời gian trung bình từ lúc đặt thông 
Foley đến khi KPCD thành công và khảo sát một số tác dụng không mong  của đặt thông Foley. 
Phương pháp: nghiên cứu báo cáo loạt ca (dọc tiền cứu) trên 105 thai phụ đơn thai, tuổi thai từ 37 tuần, có 
chỉ định khởi phát chuyển dạ từ 11/2012 đến 05/2013 tại khoa Sản bệnh viện Đa khoa Tây Ninh. Tất cả các thai 
phụ đều được KPCD với ống thông Foley 18 qua lỗ trong cổ tử cung, bơm 50 ml nước muối sinh lý, theo dõi 
trong 24 giờ. 
Kết quả: Tỷ lệ KPCD thành công là 85,7% với KTC 95% [78,5 – 92,9]. Tỷ lệ sinh ngả âm đạo là 64,8%, tỷ 
lệ sinh mổ là 35,2%. Thời gian trung bình từ lúc KPCD đạt đến CTC ≥ 7 điểm là 10,58 ± 6,34 giờ. Không có tác 
dụng ngoại ý nghiêm trọng. Đau khi đặt 51,4%, vỡ ối 8,5%, ra huyết khi đặt thông 4,7%, thay đổi ngôi thai và 
nhiễm khuẫn 0,9%. 
Kết luận: KPCD với thông Foley qua lỗ trong cổ tử cung bơm 50 ml an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên cần có 
những nghiên cứu rộng và chặt chẽ hơn trong tương lai. 

ABSTRACT 
EFFECTIVE INDUCTION OF LABOR USING FOLEY INTRACERVICAL IN PREGNANT WOMEN  
FROM 37 WEEKS GESTATIONAL AT TAY NINH GENERAL HOSPITAL 
Mai Thi My Duyen, Huynh Nguyen Khanh Trang  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 157 ‐ 162 


Background:  Induction  of  labor  at  term  maturity  may  be  many  different  reasons  but  growing  trend 
worldwide. In Vietnam the methods of labor induction when the cervix is unfavorable (ripe) in the current period 
mainly in the mechanical method.  
Objective: Determine the success rate of induction labor by using Foley catheter, determine the average time 
between the onset of labor at the cervical Bishop score was ≥ 7 points and survey some side‐effects of using Foley. 
Methods: Reported case series study (prospective longitudinal) of 105 women with singleton pregnancies, 
gestational  age  of  37  weeks,  have  been  indicated  induction  from  11/2012  to  05/2013  in  the  Department  of 
Obstetrics Hospital in Tay Ninh. All pregnant women were used with Foley catheter 18 Fr through the cervix 
hole, pumping 50 ml physiological saline and observed for 24 hours. 
Results: The rate of labor induction success is 85.7% with 95% confidence interval [78.5 to 92.9]. Vaginal 
birth rate is 64.8%, the rate of cesarean delivery was 35.2%. The average time between the onset of labor at the 
*Bộ môn Sản – Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang. ĐT: 0903882015 E‐mail:  

Sản Phụ Khoa

157


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

cervical Bishop score was ≥ 7 points was 10.58 ± 6.34 hours. No serious adverse events. Pain when placed 51.4%, 
8.5% rupture of membranes, bleeding when placing the 4.7%, thai house and change the infection 0.9%. 
Conclusion:  Induction  of  labor  with  a  Foley  catheter  through  the  cervix  hole  50  ml  pump  is  safe  and 
effective. However, there should be extensive research and more closely in the future. 
Keywords: Induction of labor, prospective longitudinal study, Foley balloon intracervical 
Kiên  Giang,  Lê  Nguyễn  Thy  Thy,  Huỳnh 
ĐẶT VẤN ĐỀ 

Nguyễn Khánh Trang(13) thực hiện KPCD trên 95 
Những  năm  gần  đây,  tỷ  lệ  mổ  sinh  ngày 
thai  phụ  thiểu  ối  ≥37  tuần  trong  thời  gian  từ 
một tăng cao. Tại Bệnh viện Đa Khoa (BVĐK) 
08/2011  đến  06/2012  ghi  nhận  tỷ  lệ  thai  phụ  có 
Tây  Ninh,  tổng  số  sinh  năm  2011  là  9171 
chỉ số Bishop ≤ 4 điểm trở nên ≥ 7 điểm sau 24 
trường  hợp,  năm  2012  là  10532,  sinh  mổ  lần 
giờ KPCD bằng ống thông Foley bóng bơm 50ml 
lượt  3728  và  4171,  chiếm  tỷ  lệ  40,6%  và 
đặt  kênh  CTC  kết  hợp  Oxytocin  truyền  tĩnh 
39,6%(2). Trong số các chỉ định mổ bắt con, chỉ 
mạch trên thai trưởng thành thiểu ối là 88,42%. 
định  mổ  có  liên  quan  ʺCTC  không  thuận  lợiʺ 
Tỷ lệ sinh ngả âm đạo là 69,47%. Thời gian trung 
cùng với ʺgiục sinh thất bạiʺ gần xấp xỉ với ʺvết 
bình từ lúc KPCD đến khi CTC thuận lợi là 4,89 
mổ cũʺ, chiếm khoảng 25% mỗi loại. 
± 3,32 giờ (ngắn nhất 1 giờ ‐ dài nhất 21 giờ), và 
Với một thai trưởng thành có chỉ định chấm 
đến lúc sinh ngả âm đạo là 9,97 ± 4,09 giờ (ngắn 
dứt thai kỳ nhưng CTC không thuận lợi, KPCD 
nhất là 4 giờ ‐ dài nhất là 24 giờ 20 phút). 
đơn thuần với Oxytocin thường đưa đến thất bại 
Vì  vậy  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  với 
với tỷ lệ khá cao, vì thế các bác sĩ thường chọn 
các mục tiêu như sau: 
phương án mổ bắt con. Như vậy, tại BVĐK Tây 
Mục tiêu nghiên cứu 
Ninh, do tình hình thực tế đã có một số trường 

Xác  định  tỷ  lệ  thành  công  trong  KPCD  của 
hợp  phải  mổ  bắt  con  thay  vì  KPCD  vẫn  có  thể 
thông  Foley  đặt  qua  kênh  CTC  bơm  thể  tích 
sinh được ngả âm đạo. 
50ml ở thai từ 37 tuần. 
Tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  BV  Hùng 
Vương mỗi năm có khoảng 3000 trường hợp cần 
KPCD. Con số này là 4204 vào năm 2010 và 7060 
năm  2011  tại  BV  Từ  Dũ(1).  Để  KPCD,  có  thể  có 
nhiều  phương  pháp,  trong  đó  ống  thông  Foley 
đặt qua kênh CTC là một phương pháp an toàn, 
ít  tốn  kém,  dễ  thực  hiện  và  hiệu  quả(12).  Đây  là 
phương  pháp  áp  dụng  nong  cơ  học,  đồng  thời 
kích hoạt nguồn Prostaglandin nội sinh để kích 
thích tạo cơn co TC(8,12). 
Năm 2011 Hồ Thái Phong và cộng sự(11) báo 
cáo  tại  BVĐK  An  Giang  khi  tiến  hành  nghiên 
cứu so sánh 60 thai phụ được chia làm hai nhóm 
KPCD  vớithông  Foley  và  tách  màng  ối(9).  Kết 
quả ghi nhận đặt thông Foley gây KPCD làm cải 
thiện  chỉ  số  Bishop  cao  hơn  nhóm  tách  ối  (5,37 
và 3,9; p=0,001), thời gian chuyển dạ ngắn hơn ở 
nhóm Foley (23 giờ và 30 giờ; p<0,001). Khác biệt 
không  có  ý  nghĩa  thống  kê  về  tỷ  lệ  phẫu  thuật 
lấy thai, nhiễm trùng mẹ và sơ sinh. Tại BVĐK 

158

Xác  định  thời  gian  trung  bình  từ  lúc  đặt 
thông Foley đến khi KPCD thành công. 

Khảo  sát  một  số  tác  dụng  không  mong 
muốn như: cảm giác đau, ra huyết, nhiễm trùng, 
vỡ ối, sa dây rốn, thay đổi ngôi thai. 

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
Thiết kế nghiên cứu  
Tiền cứu dọc, báo cáo loạt ca lâm sàng.  

Cỡ mẫu 
n =  Z

2 
1
2

  (1‐P)P / d 2  với độ tin cậy 95% nên 

Z 1 =  1,96.  Chọn  P  =  94%  tỷ  lệ  KPCD  thành 
2

công  mà  Embrey  và  cộng  sự  (1967)  [9]  báo  cáo 
khi  sử  dụng  ống  thông  Foley  bóng  bơm  50ml 
nong kênh CTC. Độ chính xác là:5% tức d = 0,05. 
Tính được N = 86,6. Vậy cần tối thiểu 87. Chúng 
tôi thu được 105 trường hợp. 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Chọn mẫu 
Các  thai  phụ  nhập  viện  tại  Khoa  sản  Bệnh 
Viện Đa Khoa Tây ninh có tuổi thai từ ≥ 37 tuần, 
có  chỉ  định  KPCD.  Thời  gian  từ  11/2012  đến 
05/2013. 

Tiêu chí nhận vào 
Tuổi  thai  ≥  37  tuần,  có  chỉ  định  khởi  phát 
chuyển  dạ.  Đơn  thai,  ngôi  đầu.Khung  chậu 
bình thường. Chỉ số Bishop ≤ 4 điểm. Thai phụ 
có khả năng sinh ngả âm đạo, đồng ý tham gia 
nghiên cứu. 
Tiêu chí loại trừ 
Ối rỉ hoặc vỡ. Nhau tiền đạo. Có sẹo mổ cũ 
trên cơ tử cung: mổ lấy thai, bóc nhân xơ, sẹo 
vá  tử  cung  bị  vỡ  trong  lần  mang  thai  trước. 
CTC  đã  từng  bị  tổn  thương  hoặc  can  thiệp 
trước  đó:  rách  cũ,  đốt  lạnh,  đốt  điện,  khoét 
chóp.  Các  bệnh  lý  nội:  tim,  phổi,  tiểu  đường, 
cường giáp, thiếu máu. 

Nghiên cứu Y học

(nồng độ 10mUI/ml), liều bắt đầu là 4 mUI/phút 
(VIII giọt/phút), tăng liều 4mUI mỗi 30 phút cho 
đến khi đạt được 3 cơn co tử cung trong 10 phút. 
Liều oxytocin tối đa là 36mUI/phút.  
Theo dõi tim thai bằng Monitor liên tục sau 
khi bắt đầu chỉnh cơn co tử cung bằng oxytocin. 
Sử  dụng  kháng  sinh  uống  ngay  sau  đặt  ống 

thông KPCD. 
KPCD  thành  công:  khi  CTC  trở  nên  thuận 
lợi  nghĩa  là  chỉ  số  Bishop  (2)  ≥  7  điểm  vào  lần 
khám gần nhất tính từ khi KPCD hoặc lúc rớt 
ống thông Foley hoặc khi rút ống thông Foley 
sau đặt 12 giờ. 

KPCD thất bại 
Khi không đạt được các tiêu chí KPCD thành 
công  hoặc  là  CTC  không  đáp  ứng  đối  với  việc 
dùng biện pháp KPCD sau KPCD 24 giờ.  
Kết quả xử lý với phần mềm thống kê SPSS 
16.0. 

Quy trình 

KẾT QUẢ 

Thai phụ nằm tư thế phụ khoa. Sát trùng âm 
hộ,  âm  đạo  bằng  dung  dịch  Povidin.  Dùng  mỏ 
vịt hoặc van âm đạo bộc lộ CTC, dùng kẹp Pozzi 
kẹp CTC vị trí 12 giờ. Đưa 1 ống thông Foley số 
18 (hãng Thompson‐Thailand, số lô 1203290289, 
hạn  dùng  đến  02/2017)  qua  khỏi  lỗ  CTC,  kẹp 
nhẹ ống thông Foley bằng kẹp hình tim, đầu kẹp 
ngay điểm tính đánh dấu bằng độ dài CTC‐ đo 
qua  siêu  âm  ngả  âm  đạo  trước  KPCD,  sau  đó 
đưa  ống  thông  qua  kênh  CTC  đến  chỗ  kẹp  sẽ 
dừng lại) sau đó tiến hành bơm 50ml nước muối 
sinh  lý  vào  nhánh  đường  bơm  vào  bóng  ống 

thông,  trong  lúc  bơm  bóng  chèn  theo  dõi  phản 
ứng  của  thai  phụ,  nếu  thai  phụ  đau  hay  khó 
chịu thì ngưng thủ thuật và xem lại kỹ thuật đặt. 
Khi đã bơm đủ 50ml dung dịch nước muối sinh 
lý vào bóng ống thông, kéo nhẹ ống thông kiểm 
tra.  Cố  định  ống  thông  vào  mặt  trong  đùi  của 
thai phụ. 

Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu 

Sau đặt ống thông Foley vào kênh CTC theo 
dõi sau 12 giờ, nếu cơn co chưa đủ sẽ chỉnh cơn 
co  tử  cung  bằng  oxytocin:  pha  1  ống  Oxytocin 
5UI  trong  500ml  dung  dịch  Natri  Clorua  0,9% 

Sản Phụ Khoa

Yếu tố
Tuổi trung bình (năm)
Chiều cao trung bình (cm)
BMI trung bình (kg/cm 2)
Chiều dài kênh CTC (mm)
Chỉ số Bishop CTC (điểm)
Thị xã
Nơi ở
Các huyện
Ngoài tỉnh
Công nhân viên
Nghề
Nội trợ

Làm ruộng
Buôn bán
Khác
Con so
Tiền thai
Con rạ
Thai quá ngày
Chỉ định
KPCD
Thiểu ối
Khác

Tần số (%)
26,7 ± 5,1
154,5± 7,6
22,6 ± 2,7
28,1 ± 6,1
2,7 ± 0,9
22 (20,9)
78 (74,3)
5 (4,8)
39 (46,6)
37 (35,2)
15 (4,3)
7 (6,7)
7 (6,7)
54 (51,4)
51 (48,6)
54 (51,4)
40 (38,1)

11 (10,5)

CTC= Cổ tử cung 
KPCD=Khởi phát chuyển dạ 
Tỷ lệ khởi phát chuyển dạ thành công sau 24 
giờ là 85,7%; KTC 95% [78,5 ‐ 92,9]. 

159


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Bảng 2. Tương quan thời gian từ khi đât thông Foley 
đến lúc CTC đạt Bishop ≥ 7 điểm trong 24 giờ  
Thời gian đạt Bishop ≥ 7
điểm
Tới 6 giớ
>6 – 12 giờ
>12-24 giờ
Không đạt 7 điểm
Thời gian trung bình đạt
Bishop ≥ 7 điểm

Tần số (%)

Cộng dồn

21 (20)

21 (20%)
50 (47,6)
71 (67,6)
19 (18,1)
90 (85,7)
15 (14,3)
105 (100)
10,58 ± 6,34 (giờ)

Nhận  xét:  Thời  gian  trung  bình  từ  lúc  đặt 
Foley  đến  khi  phát  hiện  chỉ  số  Bishop  đạt  ≥7 
điểm  là  10g58  ±  6g34.  Trung  vị  10  giờ  (6g37  ‐ 
12  giờ).  Trường  hợp  sớm  nhất  1g20,  muộn 
nhất 24 giờ. 
Bảng 3. Cách sinh 
Cách sinh
Sinh thường
Sinh giúp
Sinh mổ

N = 105
66
2
37

Trong nhiều thập kỷ qua, chỉ số Bishop(0) vẫn 
là  công  cụ  dùng  nhiều  trong  việc  đánh  giá  sự 
thuận lợi của CTC để từ đó tiên lượng khả năng 
thành công khi KPCD. Tuy nhiên chỉ số Bishop 
phụ  thuộc  đánh  giá  chủ  quan  của  mỗi  cá  nhân 

nên  kết  quả  sẽ  có  sai  sót.  Do  đó  gần  đây  việc 
dùng siêu âm đánh giá CTC vẫn là công cụ được 
chấp nhận rộng rãi vì giúp giảm tính chủ quan, 
giá thành thấp và ít xâm lấn(7,8,9,11,13). 

Tỷ lệ%
62,9
1,9
35,2

Bảng 4. Tác dụng ngoại ý khi đặt ống thông 
Loại hình
Nhau bong non
Sa dây rốn
Ra huyết khi đặt thông
Nhiễm khuẩn
Thay đổi ngôi thai
Vỡ ối
Đau
Tổng

N = 105 (%)
0 (0)
0 (0)
5/105 (4,7)
1/105 (0,9)
1/105 (0,9)
9/105(8,5)
38/105 (36,2)
54/105 (51,4)


Theo  tiêu  chuẩn  KPCD  thành  công  của 
chúng tôi là có sự thay đổi về chỉ số Bishop sao 
cho chỉ số Bishop ≥ 7 điểm thì tỷ lệ KPCD thành 
công  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  là  85,7% 
(90/105 trường hợp).  

BÀN LUẬN 
Các  thể  tích  bóng  bơm  để  KPCD  của  các 
nghiên  cứu  qua  y  văn  có  thể  là  30  ‐  50  ‐  60  ‐ 
80ml(8,9,11,13). Với thể tích nào thì hiệu quả tối ưu 
nhất  chưa  có  tài  liệu  nào  khẳng  định.  Trong 
thời  gian  trước  đây,  phương  pháp  Kovac’s 
dùng  túi  nước  với  bao  cao  su  và  ống  thông 
Nelaton  đặt  qua  lỗ  CTC  tương  tự  cho  các 
trường hợp KPCD ở thai kỳ trong 3 tháng giữa 
thai kỳ với thể tích nước bơm thay đổi từ 150 – 
300 ml cũng được thực hiện tại Việt Nam. Tuy 
nhiên  theo  các  nghiên  cứu  về  KPCD  ở  thai  3 
tháng cuối thai kỳ ghi nhận: khi thể tích bóng 
bơm càng lớn, tác dụng lóc màng ối vùng CTC 
sẽ càng cao, nhưng khả năng sa dây rốn, thay 
đổi  ngôi  thai  sẽ  càng  dễ  xuất  hiện.  Chúng  tôi 

160

đã thử bơm bóng vào ống Foley các kích cỡ và 
nhận  thấy  rằng  với  ống  số  18,  khi  bơm  50ml 
bóng  sẽ  có  dạng  hình  cầu  với  đường  kích 
khoảng  hơn  4cm  phù  hợp  với  đường  kính  lỗ 

CTC  khi  vào  chuyển  dạ  hoạt  động  và  ít  có 
nguy cơ vỡ bóng. Nếu thay đổi kích cỡ ống, có 
thể áp lực trong bong sẽ căng hơn dễ vỡ, hoặc 
bóng  sau  khi  bơm  sẽ  có  dạng  hình  bầu  dục, 
đường kích ngang của bóng sẽ nhỏ hơn trong 
khi  thể  tích  không  đổi  thì  các  nguy  cơ  sa  dây 
rốn  hay  thay  đổi  ngôi  thai  cũng  không  khác. 
Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã quyết 
định  chọn  ống  Foley  số  18  và  bơm  bóng  với 
thể tích 50ml. 

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thành 
công  giảm  dần  khi  chiều  dài  kênh  CTC  trước 
KPCD  tăng  lên.  Nhóm  thai  phụ  có  chiều  dài 
kênh CTC ≤25mm tỷ lệ thành công khi KPCD là 
100%,  trong  khi  nhóm  trên  40mm  không  có 
trường hợp nào thành công. Khi chiều dài kênh 
≤35mm,  khả  năng  thành  công  cao  hơn  gấp  4,3 
lần nếu kênh dài hơn. Kết quả này phù hợp với 
kết  quả  của  Lê  Nguyễn  Thy  Thy,  Huỳnh 
Nguyễn  Khánh  Trang(13),  Crane(7),  Gonen(9), 
Pandis(14),Trần  Thị  Lợi  và  Phan  Thị  Mai  Hoa(10). 
Thời gian trung vị từ lúc đặt Foley đến khi CTC 
mở ≥3cm xóa ≥50% trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 9 giờ (5g15 ‐ 12 giờ), gần tương đương với 
Caliskan(6),  Tabowei(15)  nhưng  ngắn  hơn  nghiên 
cứu của Dewan(8). Thời gian trung vị từ lúc đặt 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Foley  đến  khi  phát  hiện  chỉ  số  Bishop  ≥7  của 
chúng tôi là 10 giờ (6g37 ‐ 12 giờ), dài hơn hẵn 
khi so với Lê  Nguyễn  Thy  Thy  có  lẽ  do  tác  giả 
này  phối  hợp  với  Oxytocin  ngay  khi  vừa  đặt 
Foley nên rút ngắn thời gian chuyển dạ hơn(11). 
Khi đưa vào phân tích hồi qui đa biến, sau 
khi  có  tác  động  qua  lại  giữa  các  biến,  khử 
nhiễu, kết  quả  thu  được  chỉ  còn  hai  yếu  tố  có 
liên  quan  đến  tỷ  lệ  thành  công:  Khi  chỉ  số 
Bishop  tăng  thêm  1,2  điểm,  khả  năng  KPCD 
thành công tăng thêm 3,2 lần (KTC 95% =1,2 ‐ 
8,3) với p=0,016. Khi chiều dài kênh CTC trước 
KPCD dài thêm 0,2mm, khả năng KPCD thành 
công giảm còn bằng 0,8 lần trước đó (KTC 95% 
= 0,7 ‐ 0,97) p=0,021. 
Tỷ lệ các trường hợp cần dùng Oxytocin sau 
KPCD với thông Foley đơn thuần của chúng tôi 
là  60%,  thấp  hơn  Dewan,  nhưng  khác  biệt  này 
không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên khi so với 
Caliscan(6) và Tabowei(15). 
Cho dù tiêu chuẩn thành công của khởi phát 
chuyển dạ là gì đi nữa, mục đích cuối cùng của 
khởi  phát  chuyển  dạ  vẫn  là  sinh  ngả  âm  đạo. 
Lược qua kết quả các công trình nghiên cứu sử 
dụng ống thông Foley đã báo cáo trong nước, và 
các nghiên cứu sử dụng thể tích bơm bóng 50ml 
khi  dùng  Foley  để  KPCD  ở  các  nước  trên  thế 
giới, thống kê thời gian sinh ngả âm đạo từ thấp 

đến  cao  như  bảng  trên.  Với  105  trường  hợp 
trong khoảng thời gian hơn 6 tháng, nghiên cứu 
của chúng tôi sử dụng ống thông Foley với thể 
tích  50ml  bơm  qua  kênh  CTC  để  KPCD,  tỷ  lệ 
sinh ngả âm đạo có được là 64,8%. 
Tính  trên  số  trường  hợp  tác  dụng  ngoại  ý 
cả nhẹ lẫn nặng có tất cả 55 ghi nhận, xảy đến 
trên 45 thai phụ. Tuy nhiên số tác dụng ngoại 
ý  có  ảnh  hưởng  đến  chất  lượng  điều  trị  bao 
gồm  4  trường  hợp  đau  nhiều  khi  đặt  Foley,  1 
trường  hợp  thay  đổi  ngôi  và  1  trường  hợp 
nhiễm trùng, chỉ chiếm 5,7% các thai phụ tham 
gia nghiên cứu. 

HẠN CHẾ 
Nghiên  cứu  được  thiết  kế  theo  loại  hình 
nghiên  cứu  quan  sát  nên  kết  quả  thu  được  có 
giới hạn trên phương  diện  bằng  chứng  y  khoa. 
Do  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  là  báo  cáo  hàng 
loạt ca, là loại nghiên cứu được xem là chưa đủ 
mạnh  khi  khảo  sát  các  mối  liên  quan  giữa  các 
biến số. 
Do  vậy  các  kết  quả  thu  được  dù  có  ảnh 
hưởng  đến  thực  hành  lâm  sàng  tại  cơ  sở 
nhưng  mức  độ  cũng  có  giới  hạn  nhất  định. 
Đánh giá chỉ số Bishop là một đánh giá mang 
tính  chủ  quan.  Chúng  tôi  đã  cố  gắng  thống 
nhất  với  nhau  về  cách  khám  và  đánh  giá,  tuy 
nhiên  dù  sao  cũng  không  phải  là  một  người 
khám  suốt  nên  sai  sót  vẫn  không  thể  tránh 

khỏi.  Đo  độ  dài  kênh  CTC  trên  siêu  âm  trước 
KPCD  do  4  người  tham  gia,  dù  có  bàn  bạc 
thống nhất nhưng kết quả thu được về độ dài 
kênh cũng không tránh khỏi sai số. 

KẾT LUẬN 
Qua nghiên tại khoa sản bệnh viện đa khoa 
Tây  Ninh  chúng  tôi  đạt  được  những  kết  quả 
như sau: 
Tỷ lệ thai phụ có chỉ số Bishop ≤ 4 điểm trở 
nên  ≥  7  điểm  sau  24  giờ  KPCD  là  85,7%;  KTC 
95% [78,5 ‐ 92,9]. 
 Thời  gian  trung  bình  từ  lúc  đặt  Foley  đến 
khi phát hiện chỉ số Bishop đạt ≥7 điểm là 10g58 
± 6g34. 
Không  có  tác  dụng  ngoại  ý  nghiêm  trọng. 
Đau  khi  đặt  51,4%,  vỡ  ối  8,5%,  ra  huyết  khi  đặt 
thông  4,7%,  thay  đổi  ngôi  thai  và  nhiễm  khuẫn 
0,9%. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.
3.
4.

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học


Bệnh viện Từ Dũ (2011) Báo cáo tổng kết cuối năm., Phòng kế 
hoạch tổng hợp, TP HCM 
Bệnh  viện  Đa  khoa  Tây  Ninh  (2012)  Báo  cáo  tổng  kết  cuối 
năm, Phòng kế hoạch tổng hợp. 
Bishop  E.  H.  (1964),  ʺPelvic  scoring  for  elective  inductionʺ, 
Obstetrics and Gynecology, 24,  266 (level III)  
Bộ Y tế (2009) Thai quá ngày sinh. Tài liệu hướng dẫn quốc 
gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Nhà xuất bản 
y học Hà Nội, tr. 121. 

161


Nghiên cứu Y học 
5.

6.

7.
8.

9.

10.

11.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Bộ  Y  tế  (2009)  Các  phương  pháp  gây  chuyển  dạ.  Tài  liệu 

hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh 
sản. Nhà xuất bản y học Hà Nội, tr. 160‐162. 
Caliskan E, Dili S, Gelisen O, Dibaz B, Ozturk N, Haberal A 
(2004)  ʺUnsuscessfuk  labour  induction  in  women  with 
unfavourable  cervical  scor:  Predictors  and  managementʺ. 
Australian  and  zealand  of  journal  of  Obstetric  and 
Gynaeclogy, 44 (6), pp. 562‐ 567. 
Crane JM (2006) ʺFactors predicting labor induction success: a 
critical analysisʺ. Clin Obstet Gynecol, 49 (3), 573‐84. 
Dewan F, Ara AM, Begum A (2001) ʺFoley’s catheter versus 
prostaglandin  for  induction  of  labourʺ.  Singapore  Journal  of 
Obstetrics and Gynaecology, 32 (3), 56‐63. 
Embrey MP, Mollison BC (1967), ʺThe unfavourable cervix 
and  the  induction  using  a  cervical  balloonʺ,  Journal  of 
Obstetrics and Gynaecology of the British Commonwealth, 
74 ‐78. 
Gonen  R,  Degani  S,  Ron  A  (1998)  ʺPrediction  of  successful 
induction  of  labor:  comparison  of  transvaginal 
ultrasonography and the Bishop  scoreʺ.  European  journal  of 
ultrasound:  official  journal  of  the  European  Federation  of 
Societies for Ultrasound in Medicine and Biology, 7 (3), 183‐7. 
Hồ Thái Phong, Trần Thị Phương Loan, Nguyễn Văn Thắng, 
Phạm Thị Thu Hồng, Huỳnh Trinh Thức (2011) ʺSo sánh hiệu 
quả của tách màng ối và đặt sonde Foley qua cổ tử cung trong 
khởi phát chuyển dạ ở thai quá ngàyʺ. Kỷ yếu Hội nghị Khoa 
học bệnh viện An Giang, Tháng 10 ‐ 2011, tr. 79 ‐ 84. 

12.

13.


14.

15.

16.

Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2011) ʺKhởi phát chuyển dạʺ, 
Thực hành sản phụ khoa, Bộ môn phụ sản đại học y dược tp 
HCM, Nhà xuất bản y học Tp HCM, tr.74‐84. 
Lê  Nguyễn  Thy  Thy,  Huỳnh  Nguyễn  Khánh  Trang  (2013) 
ʺHiệu quả khởi phát chuyển dạ bằng ống thông Foley kết hợp 
oxytocin truyền tĩnh mạch ở thai trưởng thành thiểu ốiʺ. Tạp 
chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, phụ bản tập 17 (1), tr. 55 ‐ 
60 
Pandis GK, Papageorghiou AT, Ramanathan VG, Thompson 
MO,  Nicolaides  KH  (2001)  ʺPreinduction  sonographic 
measurement of cervical length in the prediction of successful 
induction  of  laborʺ.  Ultrasound  in  obstetrics  &  gynecology: 
the official journal of the International Society of Ultrasound 
in Obstetrics and Gynecology, 18 (6), 623‐8. 
Tabowei  TO,  Oboro  VO  (2003),  ʺLow  dose  intravaginal 
misoprostol  versus  intracervical  balloon  catheter  for 
preinduction cervical ripeningʺ, East African medical journal, 
80, (2) 91‐94. 
Trần Thị Lợi, Phan Thị Mai Hoa (2010) ʺVai trò của siêu âm 
ngã âm đạo đo chiều dài cổ tử cung so với chỉ số Bishop trong 
tiên lượng khởi phát chuyển dạʺ. Tạp chí Y học thành phố Hồ 
Chí Minh, tập 14, tr. 222‐225. 


Ngày nhận bài:  

 

 

30/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:   02/12/2013 
Ngày bài báo được đăng:  

 

05/01/2014 

 

162

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 



×