Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bước đầu đánh giá áp dụng cắt đốt qua catheter bằng sóng cao tần điều trị cuồng nhĩ thể điển hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.26 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ ÁP DỤNG CẮT ĐỐT QUA CATHETER
BẰNG SÓNG CAO TẦN ĐIỀU TRỊ CUỒNG NHĨ THỂ ĐIỂN HÌNH
Đoàn Thái*, Bùi Thế Dũng**

TÓM TẮT
Muc tiêu: Khảo sát tính an toàn và hiệu quả của việc điều trị rối loạn nhịp cuồng nhĩ bằng cắt đốt qua
catheter bằng sóng cao tần.
Dẫn nhập: Trên thế giới việc cắt đốt cuồng nhĩ qua catheter bằng sóng cao tần đã được khuyến cáo xem
như điều trị hàng đầu đối với cuồng nhĩ điển hình, thậm chí ngay với cơn cuồng nhĩ đầu tiên. Tại Việt Nam cho
tới nay vẫn chưa có báo cáo về điều trị cắt đốt đối với cuồng nhĩ.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu khảo sát loạt ca 6 bệnh nhân (5 nam 1 nữ) bị cuồng nhĩ thể điển hình
(type I), tuổi từ 34-77. Tất cả các bệnh nhân đều được tiến hành thăm dò và cắt đốt điện sinh lý tim qua catheter
bằng sóng cao tần nhằm tạo ra một đường nghẽn dẫn truyền hai chiều qua eo nằm giữa tĩnh mạch chủ dưới và
van 3 lá (eo Cavo-Tricuspid = eo CT).
Kết quả: Tỉ lệ thành công là 5/6 trường hợp (83,3%) tạo được đường nghẽn hai chiều trên eo CT và không
thể kích thích tạo được cơn cuồng nhĩ sau thủ thuật. Số nhát đốt trung bình là 6,2 (4-10 nhát). Thời gian soi tia
X quang trung bình là 16,6 phút. Thời gian thủ thuật trung bình là 113,3 phút. Không có biến chứng nào xảy ra
trong và sau thủ thuật. Thời gian theo dõi trung bình 16,4 tháng sau điều trị. Chưa ghi nhận tái phát cuồng nhĩ
sau thủ thuật. 3 trường hợp có cơn rung nhĩ và cuồng nhĩ ghi nhận trước thủ thuật, trong đó 1 trường hợp
không tái phát rung nhĩ, 2 trường hợp vẫn còn tái phát rung nhĩ cơn nhưng số lần lên cơn thưa hơn.
Kết luận: Cắt đốt bằng sóng cao tần cuồng nhĩ thể điển hình (chiếm hơn 90% các trường hợp cuồng nhĩ) có
thể được thực hiện tại Việt Nam môt cách an toàn và hiệu quả bằng phương pháp dùng catheter cổ điển đơn
thuần. Do có thể thực hiện với các trang bị hiện tại của hầu hết các phòng can thiệp điện sinh lý tại Việt Nam nên
việc áp dụng kỹ thuật cắt đốt cuồng nhĩ qua catheter cần được mở rộng hơn nữa trong tương lai.
Từ khóa: Cuồng nhĩ thể điển hình, cắt đốt bằng sóng cao tần qua catheter.

ABSTRACT


PRELIMINARY EVALUATION OF TYPICAL ATRIAL FLUTTER TREATMENT BY
RADIOFREQUENCY CATHETER ABLATION
Doan Thai, Bui The Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 200 – 204
Objective: We studied the safety and efficacy of typical atrial flutter treatment using catheter ablation by
radiofrequency.
Background: Catheter ablation for typical atrial flutter has been recommended as first line therapy by
current guidelines, even with first episode of atrial flutter. But there is no report about atrial flutter catheter
ablation so far in Vietnam.
Method: Case series of 6 consecutive patients (5 male, age 34 - 77 years of age) with type I atrial flutter. All
patients underwent EP studies and catheter ablation. End points were bidirectional isthmus block and no
inducible atrial flutter after procedure.
 Khoa Tim mạch, Bệnh viện Pháp Việt
Tác giả liên lạc: ThS. Đoàn Thái

200

 Khoa Tim mạch, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
ĐT: 0903860830
Email:

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

Result: Successful ablation was achieved in 5 patients (83.3%). Mean RF applications is 6.2 (4-10). Mean X
ray exposure is 16.6 minutes. Mean procedure time is 113.3 minutes. No complication during and post precedure
noted. Mean followed-up time post proceduer is 16.4 months. No recurrence found.

Conclusion: Radiofrequency ablation of typical atrial flutter (> 90% of all types of atrial flutter) can be done
in Vietnam safely and effectively by using conventional catheter equipment. Almost electrophysiology cathlabs
currently can perform this kind of procedure, so that this kind of treatment should be developed in the near future.
Key words: Typical atrial flutter, radiofrequency catheter ablation.
Thể điển hình chiếm hơn 90% có cơ chế
DẪN NHẬP
vòng vào lại đi qua eo nằm giữa vòng van 3 lá
Cuồng nhĩ là một rối loạn nhịp nhanh có
và lỗ tĩnh mạch chủ dưới (eo cavo-tricuspid =
nhiều đặc điểm giống với rung nhĩ (ví dụ bệnh
CT), còn gọi là cuồng nhĩ type I hay cuồng
nền, các yếu tố thúc đẩy, các biến chứng, cách
nhĩ lệ thuộc eo CT.
điều trị nội khoa…). Tuy nhiên trong khi rung
Thể không điển hình là các cuồng nhĩ khác
nhĩ hiện tại vẫn đang là một thách thức lớn
(type II) không lê thuộc eo CT.
trong việc điều trị cho ngành nhịp học, thì
Mục tiêu của kỹ thuật cắt đốt qua catheter
cuồng nhĩ do có cơ chế bệnh lý đặc thù lại là
trong cuồng nhĩ thể điển hình là tạo ra 1 đường
một loại rối loạn nhịp có thể điều trị rất thành
bloc dẫn truyền hai chiều ở vùng eo CT này, bởi
công một cách triệt để bằng kỹ thuật cắt đốt điện
vì đây chính là nơi đi qua của vòng vào lại trong
sinh lý qua catheter. Trên thế giới việc cắt đốt
cuồng nhĩ thể điển hình (type I).
cuồng nhĩ qua catheter bằng sóng cao tần đã
được khuyến cáo xem như điều trị hàng đầu đối
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

với cuồng nhĩ điển hình, thậm chí ngay với cơn
Nghiên cứu tiền cứu khảo sát loạt ca 6 bệnh
cuồng nhĩ đầu tiên(1). Tuy nhiên tại Việt nam cho
nhân (BN) gồm 5 nam 1 nữ bị cuồng nhĩ thể
tới nay vẫn chưa có báo cáo về điều trị cắt đốt
điển hình (type I), tuổi từ 34 – 77.
điện sinh lý đối với cuồng nhĩ.
Cuồng nhĩ thường được chia thành 2 loại:

Hình 1: Hình X quang KT thăm dò và cắt đốt cuồng nhĩ

Chuyên Đề Nội Khoa I

201


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Tất cả các BN đều được tiến hành thăm dò
điện sinh lý tim xác nhận cơn cuồng nhĩ thể
điển hình và sau đó được cắt đốt điện sinh lý
tim qua catheter với sóng cao tần nhằm tạo ra
một đường nghẽn dẫn truyền hai chiều qua eo
CT. Chúng tôi sử dụng 2 catheter (KT) đưa vào
qua tĩnh mạch đùi: 1 KT 24 cực 6F đưa vào
xoang vành kéo dài qua vùng eo CT và thành
trước bên nhĩ phải (Hình 1) và 1 KT cắt đốt 7F có
độ dài đầu điện cực là 8 mm (8 mm tip).


Các nhát đốt đều được cài đặt chế độ kiểm
soát nhiệt độ 700C, cường độ 70 W trong 60 giây
mỗi nhát với máy đốt HAT 300 – OSYPKA. Khởi
đầu các nhát đốt thường từ mặt thất của eo CT
kéo lùi dần từng nhát một về mặt nhĩ đến tĩnh
mạch chủ dưới. BN được cắt đốt trong lúc nhịp
xoang (5 BN) hoặc trong cơn cuồng nhĩ (1 BN).
Cắt đốt thành công khi chứng minh được có
nghẽn dẫn truyền hai chiều trên eo CTI (hình 2),
đồng thời không tạo được cơn cuồng nhĩ khi
kích thích nhĩ chương trình.

Hình 2: Nghẽn dẫn truyền tại eo CT(KT HALO 11-12) sau cắt đốt
tháo đường (ĐTĐ) type 2, 1 bệnh phổi tắc nghẽn
Kết thúc thủ thuật khi không còn tái phát
mạn tính (COPD), 1 thông liên nhĩ đã mổ, 1 BN
cuồng nhĩ sau nhát đốt cuối 30 phút.
đã được đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn do nghẽn
Tất cả các bệnh nhân đều được theo dõi triệu
nhĩ thất độ III (AVB III) (Bảng 1).
chứng, ECG 24 giờ sau cắt đốt, 30 ngày sau cắt
đốt, sau đó mỗi 6 tháng.

KẾT QUẢ
Có tổng cộng 6 bệnh nhân chẩn đoán cuồng
nhĩ thể điển hình được khảo sát trong nghiên
cứu. Tỉ lệ nam/ nữ là 5/1, tuổi trung bình là 56
±15,9 (34 – 77 tuổi).
Các bệnh cấu trúc tim hoặc bệnh nội khoa

khác đi kèm: 4 tăng HA, 1 dãn tâm nhĩ trái, 3
dày thất trái, 1 nhồi máu cơ tim (NMCT), 1 đái

202

Trên siêu âm tim 100% BN có phân suất tống
máu thất trái đều tốt (> 55%).
Thời gian bị loạn nhịp trung bình là 25,3 ±
24,8 tháng (từ 1 – 48 tháng).
Các thuốc chống loạn nhịp đã được dùng:
83,3% dùng thuốc (5 BN), 16,7% (1 BN) chưa
dùng thuốc. Thuốc chống loạn nhịp đã dùng
chủ yếu là Amiodarone, Flecainide, ức chế beta).
Có 3/6 BN có rung nhĩ kèm theo cuồng nhĩ.

Chuyên Đề Nội Khoa I


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

100% BN là cuồng nhĩ thể điển hình với
vòng vào lại ngược chiều kim đồng hồ đi ngang
qua eo CT.

loạn nhịp hơn so với trước khi cắt đốt cuồng
nhĩ. 1 trường hợp còn lại chưa thấy tái phát loạn
nhịp.


5 BN được cắt đốt trong lúc nhịp xoang. 1
BN được cắt đốt trong cơn cuồng nhĩ.

BÀN LUẬN

Kết quả cắt đốt: có 5 trường hợp cắt đốt
thành công 83,3%, tạo được đường nghẽn hai
chiều trên eo CT và không thể kich thích tạo cơn
cuồng nhĩ sau thủ thuật. 1 trường hợp thất bại
không chứng minh được bloc trên eo CT và vẫn
còn cơn cuồng nhĩ.
Thời gian thủ thuật trung bình 113 phút, soi
X quang trung bình 16,6 phút.
Số nhát đốt trung bình là 6,2 ± 2,6 (4 – 10
nhát), mỗi nhát đốt là 60 giây. Năng lượng trung
bình các nhát đốt # 35 W, nhiệt độ cài đặt là 700
C và nhiệt độ thực tế đạt được trung bình là 550
C.
Cả 6 BN đều có khoảng AH không thay đổi
trước và sau thủ thuật.
Thời gian theo dõi trung bình sau thủ thuật:
16,4 ± 7,7 tháng (từ 4 – 23 tháng).
Bảng 1: Các bệnh kèm theo
Tăng ĐTĐ COPD AVB 1
Dãn
huyết type 2
III ASD nhĩ
áp
trái
4

1
1
1
1

Dày
thất
trái
3

NMCT

1

Bảng 2: Đặc điểm BN và thời gian thủ thuật
Đặc điểm Tuổi(nă Giới Tần số nhĩ TG tia X TGTT
BN và
m)
(l/p)
(p)
(p)
TGTT 56 ± 15 Nam/nữ= 295 ± 35
16,6
113
5/1
±12,6
±15

Bảng 3: Kết quả cắt đốt
Số trường hợp

6

Thành công
5 (83,3%)

Thất bại
1(16,7%)

Kết quả lâu dài sau cắt đốt: Cả 6 BN đều
không có biến chứng trong và sau thủ thuật.
5 BN cắt đốt thành công sau thời gian theo
dõi chưa thấy bằng chứng tái phát cuồng nhĩ.
3 BN có cuồng nhĩ kèm theo rung nhĩ trước
thủ thuật, sau đó 2 trường hợp ghi nhận đều có
xuất hiện cơn rung nhĩ sau thủ thuật, nhưng tần
suất xuất hiện cơn thấp hơn (cảm nhận chủ
quan của BN) và đáp ứng tốt với thuốc chống

Chuyên Đề Nội Khoa I

Các kết quả nghiên cứu cho thấy cắt đốt qua
catheter bằng sóng cao tần đối với cuồng nhĩ thể
điển hình là rất hiệu quả và an toàn.
Tỉ lệ thành công, các thông số kỹ thuật như
thời gian thủ thuật, thời gian soi tia X, số nhát
đốt là tương đương với các nghiên cứu khác của
nước ngoài đã từng báo cáo(4,5,6,8,10).
Việc điều trị cắt đốt cuồng nhĩ qua catheter
bắt đầu được thực hiện và báo cáo từ năm 1992
(Feld et al)(3) và ngày nay đã trở thành chỉ định

điều trị hàng đầu (first line therapy) cho bệnh lý
này. Báo cáo ban đầu của NASPE năm 1998 cho
thấy tỉ lệ thành công của cắt đốt cuồng nhĩ là
khoảng 85.8% và tỉ lệ tái phát là 14,7%(9). Với kỹ
thuật ngày càng tiến bộ, tỉ lệ thành công của thủ
thuật đạt đến > 90% (thất bại từ 7 – 10%), tỉ lệ tái
phát 10 – 15%, và tỉ lệ biến chứng thấp # 2%(8).
Trong cuồng nhĩ chiều dài đầu catheter đốt
và năng lượng đốt thường đòi hỏi cao hơn so
với các cắt đốt những cơn nhịp nhanh kịch phát
trên thất khác. Việc sử dụng catheter cắt đốt
chiều dài đầu điện cực 8 mm cũng giúp tạo
được đường nghẽn dẫn truyền trên eo thuận lợi
hơn dùng catheter có chiều dài đầu điện cực
4mm như các loại cơn nhịp nhanh kịch phát trên
thất khác. Tuy nhiên mặc dù sử dụng catheter có
chiều dài đầu điện cực 8mm và năng lượng nhát
đốt cao 70W, (so với catheter cắt đốt thông
thường của nhịp nhanh kịch phát trên thất có
chiều dài đầu điện cực là 4mm và năng lượng
nhát đốt 60W) nhưng nghiên cứu không ghi
nhận tai biến gì xảy ra trong và sau thủ thuật,
điều này cũng phù hợp với báo cáo về tính an
toàn của catheter có chiều dài đầu điện cực 8mm
với năng lượng 70W đang được áp dụng rộng
rãi hiện nay trên thế giới(5,8).
Cắt đốt cuồng nhĩ thể điển hình (chiếm hơn
90% các trường hợp cuồng nhĩ) có thể được thực
hiện bằng phương pháp dùng catheter cổ điển
đơn thuần, có thể không cần phải dựa vào kỹ


203


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

thuật định vị không gian 3 chiều nên có thể thực
hiện với các trang bị hiện tại của hầu hết các
phòng can thiệp điện sinh lý tại Việt Nam.

mới được phát hiện cơn cuồng nhĩ kể cả cơn
đầu tiên theo như khuyến cáo điều trị của các
hướng dẫn quốc tế hiện nay(2).

Điều trị cắt đốt cuồng nhĩ là một phương
pháp điều trị triệt để tận gốc, nhờ đó sẽ cải thiện
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, không
phải lệ thuộc vào điều trị thuốc chống loạn nhịp
sau đó. Đối với các trường hợp vừa có rung nhĩ
vừa có cuồng nhĩ, việc cắt đốt cuồng nhĩ cũng
giúp làm giảm tần suất các cơn rung nhĩ (33%)(10),
giúp bệnh nhân đáp ứng với thuốc chống loạn
nhịp để phòng rung nhĩ hiệu quả hơn, giảm tỉ lệ
bệnh cơ tim do nhịp(7).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Hạn chế của nghiên cứu: Nghiên cứu thực

hiện chỉ với mẫu nhỏ nên khó đại diện cho cộng
đồng lớn, tuy nhiên bước đầu khảo sát hiệu quả
điều trị bằng cắt đốt qua catheter hy vọng đưa
ra phương pháp điều trị nhiều hứa hẹn, hiệu
quả và an toàn cho các bệnh nhân bị cuồng nhĩ
thể điển hình.

3.

KẾT LUẬN
Cắt đốt qua catheter bằng sóng cao tần đối
với cuồng nhĩ thể điển hình (chiếm hơn 90% các
trường hợp cuồng nhĩ) có tỉ lệ thành công cao
(trên 80%) và rất an toàn cho bệnh nhân. Từ
nghiên cứu này chúng ta có thể hy vọng một
phương pháp khả thi và hiệu quả trong điều trị
một loại rối loạn nhịp tương đối thường gặp là
cuồng nhĩ thể điển hình.
Do có thể thực hiện với các trang bị hiện tại
của hầu hết các phòng can thiệp điện sinh lý tại
Việt Nam nên việc áp dụng kỹ thuật cắt đốt
cuồng nhĩ qua catheter cần được mở rộng hơn
nữa trong tương lai cho tất cả các bệnh nhân

204

1.

2.


4.

5.

6.

7.

8.

9.
10.

Da Costa, A., et al. (2006), "Results From the LADIP Trial on
Atrial Flutter, a Multicentric Prospective Randomized Study
Comparing Amiodarone and Radiofrequency Ablation After the
First Episode of Symptomatic Atrial Flutter". Circulation, 114(16),
1676-1681.
Blomstrom-Lundqvist C, Scheinman MM, Aliot EM, et al. (2003)
ACC/AHA/ESC guidelines for the management of patients with
supraventricular arrhythmias - executive summary: a report of
the American College of Cardiology/American Heart
Association Task Force on Practice Guidelines and the European
Society of Cardiology Committee for Practice Guidelines.
Circulation.108:1871-1909.
Feld GK, Fleck RP, Chen PS, et al (1992). Radiofrequency
catheter ablation for the treatment of human type 1 atrial flutter:
identification of a critical zone in the re-entrant circuit by
endocardial mapping techniques. Circulation, 86: 1233–1240.
Fischer B, Jaı¨s P, Shah D, et al (1996). Radiofrequency catheter

ablation of common atrial flutter in 200 patients. J Cardiovasc
Electrophysiol, 7: 1225–1233.
Kasai A, Anselme F, Teo WS, et al (2000). Comparison of
effectiveness of an 8-mm versus a 4-mm tip electrode catheter
for radiofrequency ablation of typical atrial flutter. Am J Cardiol,
86: 1029–32.
Lee, K. W., Yang, Y., Scheinman, M. M. (2005), "Atrial flutter: a
review of its history, mechanisms, clinical features, and current
therapy". Curr Probl Cardiol, 30(3), 121-167.
Lee SH, Tai CT, Yu WC, et al (1999). Effects of radiofrequency
catheter ablation on quality of life in patients with atrial flutter.
Am J Cardiol, 84: 278–283.
Rodriguez LM, Nabor A, Timmermans C, et al (2000).
Comparison of results of an 8-mm split-tip versus a 4-mm tip
ablation catheter to perform radiofrequency ablation of type 1
atrial flutter. Am J Cardiol, 85: 109–12.
Scheinman MM, Huang S (2000). The 1998 NASPE prospective
catheter ablation registry. PACE, 23: 1020–1028.
Schmieder, S., Ndrepepa, G., Dong, J., Zrenner, B., Schreieck, J.,
Schneider, M. A., et al. (2003), "Acute and long-term results of
radiofrequency ablation of common atrial flutter and the
influence of the right atrial isthmus ablation on the occurrence of
atrial fibrillation". Eur Heart J, 24(10), 956-962.

Chuyên Đề Nội Khoa I



×