Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG
TỐI THIỂU ĐẶT THÔNG TENCKHOFF
Trần Ngọc Sinh*, Nguyễn Đức Khoang**, Chu Văn Nhuận**, Dương Quang Vũ**, Thái Minh Sâm**,
Ngô Xuân Thái*, Hoàng Minh Hùng**, Châu Quí Thuận**, Dư Thị Ngọc Thu**, Hoàng Khắc Chuẩn**,
Trần Trọng Trí**, Đỗ Quang Minh**, Nguyễn Thị Thái Hà**, Nguyễn Vĩnh Bình*, Nguyễn Minh
Quang**, Nguyễn Trọng Hiền**, Vũ Đức Huy**, Thái kinh Luân*, Nguyễn Duy Điền**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng tối thiểu (PTNSOBTT) đặt thông
Tenckhoff, xây dựng quy trình PTNSOBTT đặt thông Tenckhoff thẩm phân phúc mạc.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng: Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối có chỉ định
điều trị thay thế thận bằng thẩm phân phúc mạc liên tục (TPPM) từ tháng 03 năm 2010 đến tháng 3 năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả hàng loạt trường hợp lâm sàng.
Kết quả: tổng cộng có 124 TH. Tuổi trung bình 43,37±13,3. Giới: nam 67/124 TH(54%), nữ: 57/124
TH(46%). Phương pháp vô cảm: tê tại chổ 116/124 TH (93,5%). Tạo khoang bằng dung dung dịch 119/124 TH
(96%). Thời gian mổ 52,1±13,69 phút. Chảy máu sau mổ 2/124 TH (1,6%), viêm phúc mạc sau mổ 6/124 TH
(4,8%), tắc ống thông 6/124 TH (4,8%), rò dịch 3/124 TH (2,4%), thông hoạt động tốt không xảy ra biến chứng
gì 110/124 TH (88,7%).
Kết luận: PTNSOBTT chỉ cần gây tê tại chỗ, có thể cắt một phần mạc nối lớn khi cần thiết, quan sát được ổ
bụng, tránh tổn thương các tạng trong ổ bụng, ít tốn kém và có thể sử dụng thông thẩm phân phúc mạc sớm khi
cần thiết.
Từ khóa: phẫu thuật nội soi ổ bụng tối thiểu, thông tenckhoff
ABSTRACT
STUDYING THE EFFECT OF MINILAPAROSCOPIC INSERTION TENCKHOFF CATHETER
Tran Ngoc Sinh, Nguyen Duc Khoan, Chu Van Nhuan, Duong Quang Vu, Thai Minh Sam,
Ngo Xuan Thai, Hoang Minh Hung, Chau Qui Thuan, Du Thi Ngoc Thu, Hoang Khac Chuan,
Tran Trong Tri, Đỗ Quang Minh, Nguyen Thi Thai Ha, Nguyen Vinh Binh, Nguyen Minh Quang,
Nguyen Trong Hien, Vu Duc Huy, Thai Kinh Luan, Nguyen Duy Dien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 119 ‐ 130
Introduction and objective: To study the results of minilaparoscopic placement of tenckhoff catheter and
build up the protocol on this procedure.
Materials and methods: case study. The end stage renal disease patients receiving chronic ambulatory
peritoneal dialysis from Mar 2010 to Mar 2012 were enrolled.
Results: 124 patients, the mean age was 43.37±13.3; male 67/124 cases (54%), female: 57/124 cases (46%),
local anesthesia 116/124 cases (93.5%), operation time 52.1±13,.69 minutes, partial omentectomy 69/124 cases
(55.6%). The technique’s complications were peritoneal bleeding 2/124 cases (1.6%), early peritonitis 6/124 cases
(4,8%), catheter obstruction 6/124 cases (4.8%), dialysate leakage 3/124 cases (2.4%). The number of catheter
* Trường Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Bệnh Viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Trọng Hiền ĐT: 0937570090
Email:
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
119
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
without complications and good at functionality was 110/124 cases (88.7%).
Conclusion: the technique has a significant decline in the complications and improvement on the outcome of
chronic peritoneal catheter. It was not only able to perform under local anesthesia, but partial omentectomy also,
bringing a better view inside peritoneal cavity.
Keywords: minilaparoscopic, tenckhoff catheter
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy thận mạn trên thế giới có khuynh hướng
ngày càng tăng, tỷ lệ bệnh suy thận mạn giai
đoạn cuối (STMGĐC) mới mắc hàng năm tăng
theo tuổi, lên đến 1300 bệnh nhân trong một
triệu dân ở người trên 65 tuổi(13). Tại Việt Nam,
theo số liệu thống kê năm 2007, cứ mỗi một triệu
dân có khoảng 120 người bị suy thận mạn, trong
đó khoảng 10.000 bệnh nhân cần điều trị thay
thế thận(21). Có ba phương pháp điều trị thay thế
thận: ghép thận, lọc máu định kỳ và thẩm phân
phúc mạc. Ghép thận là phương pháp điều trị
thay thế hiệu quả nhất, giúp bệnh nhân có cuộc
sống gần như bình thường và tái hội nhập xã hội
cao. Tuy nhiên, với tình hình hiện tại, nguồn
tạng hiến không đủ đáp ứng được nhu cầu. Đối
với lọc máu định kỳ, người bệnh phải phụ thuộc
vào máy móc và thời gian cũng như cơ sở y tế có
đơn vị thận nhân tạo, khả năng lây nhiễm chéo
cao(20). TPPM là một phương pháp điều trị đơn
giản, hiệu quả, an toàn, tránh lây nhiễm chéo, có
thể tự thực hiện tại nhà, với chi phí
thấp(19,20,24,39,40,) thuận tiện hơn cho những bệnh
nhân sống ở vùng sâu, vùng xa, nơi chưa có
trung tâm thận nhân tạo, người bệnh có thể tự
sắp xếp thời gian thẩm phân sao cho không ảnh
hưởng đến quá trình lao động, học tập, công tác
tại cơ quan (24,19) và những trường hợp mà thẩm
phân phúc mạc là sự lựa chọn cuối cùng (không
có chỉ định ghép thận hoặc không còn tiếp cận
được mạch máu để chạy thận nhân tạo định kỳ).
Về kỹ thuật đặt thông Tenckhoff trong thẩm
phân phúc mạc, trước đây áp dụng mổ mở, gần
đây các tác giả trên thế giới áp dụng kỹ thuật nội
soi ổ bụng, với những ưu điểm như: đơn giản,
hiệu quả, và ít biến chứng (8). Ngoài ra, kỹ thuật
nội soi ổ bụng có thể kết hợp giải quyết một số
tình huống như: bóc tách các dây dính, cắt mạc
nối lớn khi cần(16,29,35)… Nhưng, kỹ thuật này vẫn
120
còn một số hạn chế: gây mê, sử dụng nhiều
trocar. Trong khi đó tại Việt Nam bệnh nhân suy
thận mạn thường nhập viện trong giai đoạn trể
đã có những biến chứng: rối loạn thăng bằng
kiềm toan, thừa nước, tăng huyết áp khó kiểm
soát hoặc phù phổi cấp cần phải lọc máu cấp
cứu và đa số có nhiều bệnh lý mạn tính đi kèm.
Do đó, việc thực hiên đặt thông bằng phương
pháp ít xâm hại, có hiệu quả và phù hợp với đối
tượng là bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối
là yêu cầu bức thiết.
Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là:
‐ Đánh giá kết quả PTNSOBTT đặt thông
Tenckhoff.
‐ Xây dựng quy trình PTNSOBTT đặt thông
Tenckhoff thẩm phân phúc mạc.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối có
chỉ định điều trị thay thế thận bằng thẩm phân
phúc mạc liên tục.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân
‐ Là người Việt Nam.
‐ Bị bệnh suy thận mạn, có chỉ định điều trị
thay thế thận.
‐ Được phẫu thuật nội soi ổ bụng tối thiểu
đặt thông Tenchkoff tại bệnh viện Chợ Rẫy.
‐ Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
‐ Có hồ sơ ghi chép đầy đủ số liệu nghiên
cứu.
‐ Theo dõi sau mổ và tái khám định kỳ tại
bệnh viện Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có chống chỉ định của phẫu
thuật.
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
Bệnh nhân không theo dõi được.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 3
năm 2012.
Địa điểm: bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp lâm
sàng.
Nội dung nghiên cứu
Thăm khám lâm sàng ghi nhận
Họ và tên, tuổi, giới, nghề nghiệp, địa chỉ, số
nhập viện, ngày mổ, ngày ra viện, chiều cao, cân
nặng, các tiền căn bệnh nội khoa (như bệnh tim
mạch, đái tháo đường,…), và tiền căn ngoại
khoa (phẫu thuật vùng bụng), vấn đề lọc máu,
kết quả xét nghiệm máu lúc nhập viện:
hematocrite, BUN, creatinine, kali.
Trong quá trình phẫu thuật ghi nhận: phương
pháp mổ, phương pháp vô cảm, thuốc giảm đau
sử dụng trong lúc mổ, cắt mạc nối lớn, chạm
thương các tạng trong ổ bụng, thời gian mổ.
Sau mổ
Các biến chứng: chảy máu ổ bụng, rỉ dịch,
thông kém chức năng, viêm phúc mạc sau mổ,
nhiễm trùng vết mổ…và các nguyên nhân, và
thời điểm rút bỏ thông.
Kỹ thuật PTNSOBTT
Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ
Bệnh nhân được giải thích về các bước tiến
hành và những nguy cơ. Yêu cầu đi tiểu trước
khi được đưa vào phòng mổ.
Kháng sinh dự phòng được cho ít nhất 60
phút trước mổ.
Thuốc an thần có thể được sử dụng khi bệnh
nhân quá lo lắng hoặc sợ.
Chuẩn bị dụng cụ khi phẫu thuật nội soi ổ
bụng tối thiểu.
Hình 1. Dụng cụ phẫu thuật
Hệ thống máy bơm và khí CO2 hoặc dung
dịch nước muối sinh lý hoặc dung dịch thẩm
phân.
Thông Tenckhoff cổ thẳng với hai nút chặn
(double – cuff).
Nòng dẫn bằng kim loại. Trocar với đường
kính 8 mm (hai nút chặn của thông Tenchkoff đi
qua dễ dàng), chiều dài 21,5 cm (mục đích làm
đường dẫn đến cùng đồ Douglas). Tại bệnh viện
Chợ Rẫy chúng tôi sử dụng vỏ máy cắt đốt nội
soi cùng van tự tạo (thường dùng găng tay) đưa
vào ổ bụng nhằm mục đích quan sát ổ bụng và
hướng dẫn đưa thông Tenckhoff xuống cùng đồ
Douglas.
Cây tạo đường hầm dưới da.
Các bước tiến hành
Bước 1: xác định vị trí rạch da ‐ bờ dưới đầu
cong thông Tenckhoff nằm dưới khớp mu 2 cm,
vị trí nút chặn trong chính là vị trí gây tê và rạch
da.
Bước 2: gây tê ‐ gây tê tại chỗ bằng lidocain
2% 20ml tại vị trí đã chọn (thường từ T8 đến T10).
Bước 3: rạch da ‐ rạch da tại vị trí đã chọn
đường bên cách đường trắng giữa 2 – 3 cm, qua
da đến cân cơ thẳng bụng, xẻ cân cơ thẳng bụng
theo chiều dọc, vén cơ, xẻ lá sau cân cơ thẳng
bụng, mở mạc ngang cùng phúc mạc.
Bước 4: cắt mạc nối lớn ‐ nếu mạc nối lớn
che phẫu trường tiến hành kéo ra qua lỗ mở
phúc mạc cắt và cột bằng Silk 3.0.
Bước 5: khâu mũi túi phúc mạc ‐ khâu mũi
túi phúc mạc cùng mạc ngang bằng vicryl 3.0.
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
121
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Bước 6: đặt trocar ‐ trocar là vỏ máy cắt đốt
nội soi với chiều dài 21,5 cm và đường kính 0,8
cm, được đặt vào ổ bụng hướng về cùng đồ
Douglas và cột tạm mũi khâu túi.
Bước 7: tạo khoang ‐ tiến hành tạo khoang
bằng dung dịch thẩm phân.
Bước 8: đặt máy soi ‐ đưa máy soi vào lòng
trocar và quan sát ổ bụng, khi thấy rõ cùng đồ
Douglas thì trượt trocar xuống theo hướng dẫn
của máy soi đến cùng đồ Douglas.
Bước 9: rút thị kính máy soi ‐ khi trocar đến
cùng đồ, máy soi được lấy ra ngoài.
Bước 10: đặt thông Tenckhoff ‐ thông
Tenckhoff với nòng dẫn được đặt vào trong lòng
trocar và đưa xuống cho đến khi vướng thì lui
dần trocar và lấy ra, sau đó vừa rút nòng dẫn
vừa đẩy thông Teckhoff đến khi nút chặn trong
chạm mạc ngang ‐ phúc mạc.
Bước 11: cột mũi khâu túi phúc mạc ‐ mũi
khâu túi được cột sát nút chặn trong và khâu lên
nút chặn này đồng thời cột cố định đúng trục
của thông.
Bước 12: kiểm tra thông (test nước) ‐ nếu tạo
khoang bằng khí CO2, thì bơm vào ổ bụng
khoảng 50 – 100 ml dịch nước muối đẳng
trương, để dịch chảy ra tự do (không dùng bơm
tiêm rút dịch). Trường hợp tạo khoang bằng
dung dịch, không cần bơm dịch, chỉ quan sát
dòng chảy của dịch tạo khoang qua thông
Tenckhoff.
Bước 13: tạo đường hầm dưới da và chọn lỗ
thoát đúng vị trí: cách và dưới vết mổ 5 cm, cách
nút chặn ngoài ít nhất 2 cm và tạo đường hầm
dưới da.
Bước 14: khâu cân cơ và da ‐ khâu cân bằng
Vicryl 3.0, khâu da bằng nylon 3.0.
Xử lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS for Window 16.0.
Biến số định lượng được trình bày dưới dạng
trung bình (± độ lệch chuẩn). Biến số định tính
được trình bày dưới dạng trị số, tỉ lệ phần
trăm (N, %).
122
Phân loại kết quả PTNSOBTT đặt thông
Tenckhoff
Tốt: dịch lọc ra vào tốt. Không có các biến
chứng ngoại khoa trong mổ, ngay sau mổ và sau
khi ra viện, trong thời gian nghiên cứu (trung
bình 13,8±7,38 tháng.
Trung bình: dịch lọc ra vào tốt. Có một số
biến chứng ngoại khoa nhưng khắc phục được.
Kém: dịch lọc ra vào kém cần can thiệp
hoặc có các biến chứng ngoại khoa cần phải
rút bỏ thông.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 3 năm
2012, chúng tôi thực hiện PTNSOBTT đặt
thông Tenckhoff để thẩm phân phúc mạc cho
124 bệnh nhân. Nam giới là 67/124 trường hợp,
chiếm 54%. Nữ giới là 57/124 trường hợp, chiếm
46%. Tuổi trung bình: 43,37±13,3, nhỏ nhất 16
tuổi, lớn nhất 76 tuổi, trong đó nhóm tuổi 40 –
49 chiếm tỷ lệ cao nhất với 28,2%, nhóm tuổi
dưới 20 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất với 1,6%.
Chỉ số BMI trung bình là 22,93±1,87, thấp nhất
là 19,05, cao nhất là 28,54.
Bệnh nhân ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông
Cửu Long là nhiều nhất với 48,4% (60/124
trường hợp), kế đến là các tỉnh Miền Đông Nam
Bộ với 29% (36/124 trường hợp), Tây Nguyên
với 12,9% (16/124 trường hợp), và sau cùng
chiếm tỷ lệ thấp nhất là các tỉnh Miền Nam
Trung Bộ 11/124 trường hợp và khu vực khác là
1/124 trường hợp.
Tiền căn mổ bắt con có 3 trường hợp trong
đó:1 trường hợp sẹo mổ da đường dọc giữa, 2
trường hợp sẹo mổ da đường ngang trên xương
vệ. Tăng huyết áp là bệnh lý đi kèm chiếm tỷ lệ
cao nhất với 86,3% (107/124 trường hợp), kế đến
là viêm gan siêu vi 14,5% (viêm gan siêu vi B:
11/124 truờng hợp, viêm gan siêu vi C 7/124
truờng hợp), sau đó là đái tháo đường type 2 với
12,1% (15/124 trường hợp), ít nhất là suy tim với
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Tắc thông
Cộng
7,3% (9/124 trường hợp). Lọc máu định kỳ chiếm
tỷ lệ cao nhất với 37,9% (47/124 trường hợp), kế
đến là lọc máu hỗ trợ trước mổ với 37,9% (47/124
Thông kém chức năng
Di lệch
Fibrin
Mạc nối bám
Cộng
viện với 15,3% (19/124 trường hợp) và thấp nhất
là không cần chạy thận với 8,9% (11/124 trường
hợp).
Điều trị
Nội khoa
Mổ cầm máu
Cộng
Bảng 1. Chỉ số sinh hóa và huyết học lúc nhập viện
Trung bình 25,04±4,73
BUN
24
165
72,4±
26,97
Creatinine
3,5
20
Kali
3,2
7,2
đặt
Điều trị
Nội khoa
Rút thông
Cộng
thông
Phương pháp vô cảm
Tê tại chỗ thành công trong 116/124 TH
(93,5%), chuyển mê nội khí quản 1/124 TH
(0,8%).
Đường bên cách rốn 2 ‐3 cm, bên trái trong
124/124 TH.
Tạo khoang bằng dung dịch 119/124 TH
(96%), bằng khí CO2 5/124 TH (4%).
Thời gian mổ trung bình 52,1±13,69, ngắn
nhất 30 phút, dài nhất 90 phút.
Cắt một phần mạc nối lớn 69/124 TH
(55,6%).
Số trường hợp
(n = 124)
0
4
2
6
Tỷ lệ
%
0
3,2
1,6
4,8
Số trường hợp (n = 124)
2
0
2
Tỷ lệ %
1,6
0
1,6
Bảng 5. Xử trí viêm phúc mạc sau mổ
8,28±2,75 5,74±0,88
Kỹ thuật PTNSOBTT
TENCKHOFF
Bảng 4. xử trí chảy máu
cao nhất 18,58 ml/phút.
Hematocrite
16,4
45
4,8
13,6
VPMSM: viêm phúc mạc sau mổ
Độ thanh thải creatinine trung bình là
Thấp nhất
Cao nhất
6
17
Bảng 3. biến chứng tắc thông
trường hợp), sau đó là lọc máu cấp cứu lúc nhập
8,73±2,79 ml/phút, thấp nhất là 3,2 ml/phút,
Nghiên cứu Y học
Số trường hợp (n = 124)
6
0
6
Tỷ lệ %
4,8
0
4,8
Bảng 6. PTNSOB cứu thông
Nội soi ổ bụng
Thành công
Số trường hợp (n = 124)
3
Tỷ lệ %
2,4
Thất bại*
Cộng
3
6
2,4
4,8
*
: Phẫu thuật nội soi ổ bụng cứu thông thất bại rút bỏ
thông, bệnh nhân quay lại lọc máu.
Bảng 7. Số lần mổ
Số lần mổ
1 lần
2 lần
Số trường hợp (n = 12)
5
1
Tỷ lệ %
4
8
Cộng
6
4,8
PTNSOB: phẫu thuật nội soi ổ bụng
Tỷ lệ phần trăm thông tồn tại theo thời gian
Kết quả PTNSOBTT đặt thông Tenckhoff
Thời gian theo dõi 13,8 ± 7,38 tháng.
Kết quả tốt 110/124 TH (88,7%), trung bình
11/124 TH (8,9%) và xấu 3/124 TH (2,4%).
Biến chứng kỹ thuật đặt thông Tenckhoff và
xử trí biến chứng.
Bảng 2. Biến chứng sau mổ
Các biến chứng
Chảy máu
Rò dịch
VPMSM
Số trường hợp (n = 124) Tỷ lệ %
2
1,6
3
2,4
6
4,8
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
123
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
Sửa thất bại*
Viêm phúc mạc**
3
3
42,9%
42,9%
*: Phẫu thuật nội soi ổ bụng sửa thông Tenckhoff
**
: Viêm phúc mạc không đáp ứng điều trị
Tử vong do những nguyên nhân không
liên quan đến thẩm phân phúc mạc chiếm tỷ lệ
nhiều hơn và không có trường hợp nào tử vong
do kỹ thuật PTNSOBTT đặt thông Tenckhoff.
Ba trường hợp sửa thông thất bại do ổ bụng
dây dính nhiều.
BÀN LUẬN
Kết quả PTNSOBTT đặt thông tenckhoff
Về đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 10. so sánh đặc điểm bệnh nhân với những tác
giả khác
Nghiên Trương
Yang
Eklund B. Gadallah
cứu
P.J
. H.
(9)
(12)
M. F
(36)
(41)
hiện tại Minh
Việt
Việt
Đài
Quốc gia
Finland
USA
Nam
Nam
Loan
Năm
2012
2012
1998
1999
2009
Phương Mô tả Mô tả
Đoàn hệ
Đoàn hệ Hồi
hàng
hàng
pháp
hồi cứu
tiến cứu cứu
nghiên cứu loạt ca loạt ca
Nội
Loại phẫu Nội soi
Nội Mổ Nội Mổ soi
Mổ mở
thuật
tối thiểu
soi mở soi mở tối
thiểu
Số bệnh
124
84
65
42 76
72 218
nhân
Bệnh nhân
Biến
Biểu đồ 1. Tỷ lệ phần trăm thông và bệnh nhân tồn
tại theo thời gian
Tại thời điểm 12 tháng sau mổ, 95% thông
tồn tại, 99% bệnh nhân tồn tại.
Tại thời điểm 24 tháng sau mổ, 90% thông
tồn tại, 94% bệnh nhân tồn tại.
Bệnh nhân tiếp tục thẩm phân phúc mạc
hiệu quả cho đến kết thúc nghiên cứu 114/124
TH (91,9%), chuyển sang lọc máu 6/124 TH
(4,8%), tử vong chiếm 3/124 TH (2,4%) và
chuyển sang ghép thận 1/124 TH (0,8%).
Bảng 8. nguyên nhân tử vong
Choáng nhiễm trùng*
Viêm phổi cộng đồng
Không rõ nguyên nhân
Nội soi (n = 3)
1
33,3%
1
33,3%
1
33,3%
*
: từ đường tiêu hóa do viêm ruột hoại tử
Bảng 9. nguyên nhân rút thông
Ghép thận
124
Nộisoi (n = 7)
1
14,2%
Tuổi
43,37
53,2
Nam
54%
Nữ
46%
BMI
22,93
---
TCPTVB
2,4%
---
50,4 52,6
45
47,2
54
48,8 39,4 46,3
%
%
%
51,3 60,6 53,6
48,2% 44% 48%
%
%
%
61,3% 56% 52%
23,7 23,1
---
---
---
---
22,9
--
---
16,5
%
TCPTVB: tiền căn phẫu thuật vùng bụng
Về tình trạng bệnh nhân lúc nhập viện
Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu này
nhập viện trong tình trạng nặng: suy thận mạn
giai đoạn cuối với độ thanh thải creatinine huyết
thanh trung bình là 8,73 ± 2,79 ml/phút, thấp
nhất 3,2 ml/phút, cao nhất 18,58 ml/phút. Chỉ số
BUN trung bình 72,4 ± 26,97mg%, creatinine
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
huyết thanh 8,28 ± 2,75 mg%, hematocrit
25,04±4,73% và tình trạng bệnh lý kèm theo: suy
tim là 7,3%, đái tháo đường type 2 là 12,1%.
Thêm vào đó là tỷ lệ bệnh nhân cần phải lọc
máu là 91,1%. Vì vậy việc lựa chọn phương
pháp can thiệp nhẹ nhàng, ít xâm lấn nhất với
mục đích không làm trầm trọng thêm tình trạng
của bệnh nhân rất quan trọng(7).
Vết mổ cũ vùng bụng
Trong loạt nghiên cứu này chúng tối có 3
bệnh nhân có tiền căn mổ bắt con. Trong đó 2
trường hợp, mổ đường ngang trên xương vệ,
và 1 trường hợp đường mổ giữa dưới rốn
khoảng 10 cm. Cả 3 bệnh nhân này chúng tôi
áp dụng kỹ thuật nội soi ổ bụng tối thiểu, quan
sát ổ bụng. Những trường hợp này, mạc nối
bám vào vết mổ. Chúng tôi đưa máy soi cùng
trocar đi cạnh bên vị trí mạc nối dính này và
xuống đến cùng đồ Douglas, đặt thông đúng
vị trí. Cả 3 trường hợp này cho đến hiện tại
thông vẫn hoạt động tốt.
Carbtree(6) tiên căn phẫu thuật vùng bụng
không làm tăng đáng kể tần suất biến chứng sau
mổ. Rosa Palomar(26), bệnh nhân nên được chọn
lựa thẩm phân phúc mạc vì tình trạng bệnh lý
tim mạch đi kèm chứ không loại vì tiền căn
phẫu thuật vùng bụng.
Về phương pháp vô cảm
Theo Crabtree(7) gây mê trên bệnh nhân suy
thận mạn giai đoạn cuối do có nhiều bệnh lý đi
kèm nên sẽ tăng nguy cơ của gây mê. Chúng tôi
tê tại chỗ thành công trong 93,5% trường hợp
với Lidocain 2% 20ml tiêm dưới da tại vị trí đã
chọn, và có thể phối hợp thêm các loại thuốc
giảm đau khác như: Paracetamol, Tramadol,
Fentanyl, Sufantanyl. Trường hợp bệnh nhân lo
lắng nhiều, chúng tôi sử dụng thêm Midazolam
1mg tiêm bắp. Đa số tác giả chọn phương pháp
vô cảm là tê tại chỗ như:
Bảng 11. so sánh phương pháp vô cảm với những tác
giả khác
Tác giả
Kỹ thuật mổ
Số bệnh
nhân
Phương
pháp vô cảm
Eklund B
Nội soi
65
Tê tại chỗ
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
Nghiên cứu Y học
Tác giả
Kỹ thuật mổ
Số bệnh
nhân
Phương
pháp vô cảm
1998(9)
Mổ mở
42
Tê tại chỗ
Gadallah MF
1999(12)
Nội soi
76
Mê
Mổ mở
72
Tê tại chỗ
T H Minh,
2012(36)
Mổ mở
84
Tê tại chỗ
Yang PJ,
2009(41)
Nội soi tối
thiểu
218
Tê tại chỗ
Nghiên cứu
hiện tại
Nội soi tối
thiểu
124
Tê tại chỗ
Về đường mổ và lỗ thoát ra da
Đường mổ bên phải hay trái tùy vào sự
thuận tay của bệnh nhân. Theo Trần Ngoc
Sinh(37), đường mổ giữa dễ thưc hiện, phù hợp
cho người mới làm, nhưng tỷ lệ rò dịch lọc sau
mổ cao. Theo Bak Leong(3) nếu đầu thông nằm
bên hố chậu trái làm giảm nguy cơ thất bại hơn.
Theo tác giả Stegmayr(31), và đa số những tác giả
khác đường mổ bên làm giảm nguy cơ rỉ dịch
lọc sau mổ do ở vị trí này nằm trong hoặc dưới
cơ thẳng bụng, giúp mô mọc quanh nút chặn
trong tốt hơn và vị trí bên giúp cố định thông tốt
hơn, nên giúp giảm nguy cơ rỉ dịch(Error! Reference
source not found.,14). Xuất độ viêm phúc mạc, nhiễm
trùng lỗ thoát hay nhiễm trùng đường hầm
cũng ít hơn với đương mổ bên(32).
Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn
đường mổ dọc, bên trái cách rốn 2 ‐ 3 cm trong
124/124 trường hợp, chiếm tỷ lệ 100%. Và vị trí
lỗ thoát ra da sẽ bên trái với tiêu chuẩn cách và
dưới vết mổ 5 cm, cách nút chặn ngoài ít nhất 2
cm. Theo Lo(17), nếu nút chặn ngoài cách lỗ thoát
dưới 2 cm, tỷ lệ trồi nút chặn ngoài sẽ tăng lên,
dẫn đến nhiễm trùng và thất bại của thông.
Vấn đề cắt mạc nối lớn
Tỷ lệ cắt một phần mạc nối lớn trong nghiên
cứu này là 55,6%. Những trường hợp, khi mở
phúc mạc có hiện diện mạc nối lớn, thì chúng tôi
tiến hành kéo mạc nối lớn ra ngoài lỗ mở phúc
mạc và cột cắt một cách hệ thống.
Chúng tôi không chủ trương cắt mạc nối lớn
thường qui mà chỉ cắt một phần trong những
trường hợp mạc nối lớn dài, bởi vì: theo
Siamak(28), mạc nối lớn trong khoang phúc mạc
125
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
có vai trò như một ngưới “cảnh sát” giữ vai trò
chủ đạo trong cơ chế tự vệ của khoang phúc
mạc, có khả năng kết dính cũng như hỗ trợ quá
trình lành của những sang thương của ống tiêu
hóa bằng khả năng thúc đẩy quá trình tân sinh
mạch máu. Đặc biệt trong quá trình viêm phúc
mạc, mạc nối lớn giúp hấp thu, tẩy sạch vi
khuẩn trong khoang phúc mạc bằng những đại
thực bào tại chỗ trên bề mặt mạc nối lớn, cung
cấp bạch cầu để bảo vệ khoang phúc mạc và cô
lập ổ nhiễm trùng bằng một lớp fibrin. Ngoài ra
mạc nối lớn còn có nhiều ứng dụng trong phẫu
thuật tạo hình…Trước đây chúng tôi áp dụng kỹ
thuật mổ mở không cắt mạc nối lớn, tỷ lệ thông
kém chức năng do mạc nối lớn bám làm tắc
thông hoặc kéo thông lên cao là 14,47% (n = 304)
(37), tất cà những trường hợp này đều được nội
soi ổ bụng sửa thông, với tỷ lệ thành công cao.
Thêm vào đó, bệnh nhân thường nhập viện
trong tình trạng suy thận mạn giai đoạn cuối, có
nhiều bệnh đi kèm: độ thanh thải creatinine
huyết thanh trung bình là 8,73±2,79 ml/phút, đái
tháo đường 12,1%, suy tim 8,9%...
Trương Hoàng Minh tỷ lệ cắt mạc nối là
57,1%(36). Phạm Văn Bùi, cắt mạc nối lớn thường
quy. Reissman(25) cắt mạc nối lớn thường quy.
hóa dẫn đến loạn nhịp tim. Nhưng thời gian
bơm khí CO2 vào ổ bụng không lâu nên tăng
thán khí không phải là vấn đề đáng ngại.
Nhưng khó khăn về mặt kỹ thuật là phải có một
hệ thống kín, điều này khó đạt được với van tự
tạo. Những ca về sau chúng tôi tạo khoang bằng
dung dịch normalsaline, và kế đến là dung dịch
thẩm phân. Chúng tôi nhận thấy với kỹ thuật
tạo khoang bằng dung dịch có những lợi điểm là
bệnh nhân ít đau hơn, và với van tự tạo không
cần tuyệt đối kín như trường hợp tạo khoang
bằng khí. Tuy nhiên, việc tiếp cận cùng đồ
Douglas có khó khăn hơn, nhưng có thể khắc
phục bằng cách cho bệnh nhân nằm tư thế đầu
thấp, chân cao khoảng 150 đến 200.
Với mục đích tìm ra những kỹ thuật tạo
khoang ít gây đau, có thể kết hợp với gây tê tại
chỗ. Tác giả Crabtree(7), tạo khoang bằng khí
Helium, bởi vì Helium tránh được biến chứng
toan hóa, và ít kích thích phúc mạc hơn.
Nhưng Helium có thể là chống chỉ định khi
tạo khoang ngoài phúc mạc vì làm tăng nguy
cơ tràn khí khoang màng phổi. Amir(2), tạo
khoang với khí N2O.
Trần Ngọc Sinh(37), cắt mạc nối lớn thương
quy là một phẫu thuật nặng, gây đau, cần có tay
nghề. Nếu cần cắt thường quy thì áp dụng nội
soi ổ bụng nhưng phải gây mê. Lo (17) nhận định
cắt mạc nối lớn thường qui không phải là chỉ
định của đa số trung tâm.
Về kỹ thuật nội soi ổ bụng tối thiểu
Kỹ thuật đặt thông lý tưởng vẫn còn là một
vấn đề đang tranh cải. Đa số các tác giả chọn kỹ
thuật mổ mở tối thiểu (minilaparotomy)(4,15),
những tác giả khác áp dụng kỹ thuật đặt mù
(blind approach) với một trocar hay kỹ thuật
Seldinger cải biên, và kỹ thuật mổ nội soi ổ
bụng.
Về phương pháp tạo khoang
Đối với nhóm phẫu thuật nội soi ổ bụng tối
thiểu, thời gian đầu, chúng tôi tạo khoang bằng
khí CO2, và cố gắng giữ áp lực khoảng 8 mmHg.
Ưu điểm của phương pháp tạo khoang này là
thành bụng được nâng lên từ từ, nhưng nhược
điểm đòi hỏi một hệ thống kín và gây đau cũng
như kích thích khó chịu cho bệnh nhân. Thêm
vào đó theo Crabtree(7) CO2 khi được bơm vào
khoang phúc mạc tạo thành acid carbonic (CO2 +
H2O → H2 CO2) kích thích phúc mạc. Thêm vào
đó khí CO2 được hấp thụ làm tăng thán khí, toan
Trước đây, chúng tôi áp dụng kỹ thuật mổ
mở không cắt mạc nối, với tỷ lệ thông kém chức
năng cần can thiệp là 11,5% (n = 304)(34), theo tác
giả Tiong, tỷ lệ này là 12,2% (n = 139)(33). Nên
chúng tôi cải tiến kỹ thuật với mục đích làm
giảm biến chứng cũng như thông sử dụng hiệu
quả và lâu dài hơn. Xuất phát từ vấn đề bệnh
nhân thường nhập viện trong tình trạng suy
thận giai đoạn cuối (cần lọc máu với tỷ lệ cao),
nhiều bệnh lý mạn tính khác đi kèm. Nên, mặc
dù nội soi ổ bụng có kết quả rất tốt về kết quả
thông cũng như các biến chứng(1,27,41), nhưng đi
126
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
kèm với phương pháp này là phải gây mê. Gây
mê trên đối tượng này nguy cơ rất cao theo
Crabtree (7). Để tránh gây mê nhưng vẫn khảo
sát được ổ bụng, hiện nay chúng ta có thể sử
dụng kỹ thuật Y‐Tec. Kỹ thuật này đắt tiền,
không phù hợp với phần lớn bệnh nhân suy
thận.
Vì vậy chúng tôi sử dụng chiếc vỏ máy cắt
đốt nội soi tiền liệt tuyến, với chiều dài 21,5 cm,
đường kính 0,8 cm (phù hợp với 2 mục tiêu: đủ
chiều dài đến cùng đồ Douglas, và vừa để hai
nút chặn của thông Tenckhoff đi qua). Với kỹ
thuật này, chúng tôi:vẫn cắt được một phần mạc
nối lớn khi cần (điều này không thể thực hiện
với kỹ thuật Y‐Tec), vẫn quan sát được ổ bụng,
tránh tổn thương các quai ruột, xác định đúng
Nghiên cứu Y học
cùng đồ Douglas, đặt thông đúng vị trí, chỉ gây
tê tại chỗ, khâu được mũi túi phúc mạc, nên có
thể sử dụng thông thẩm phân sớm khi cần thiết,
và phổ biến kỹ thuật rộng rãi.
Về thời gian mổ
Bảng 12. so sánh thời gian mổ với những tác giả
khác
Tác giả
Kỹ thuật mổ
Số bệnh
nhân
Phút
Trần Hữu Vinh
2010(38)
Nội soi
37
37,5
Mổ mở
50
47,5
Mổ mở
84
64,11
Nội soi tối
thiểu
24
32,3
Poole GH, 2000(22)
Nội soi
53
23
Nghiên cứu hiện tại
Nội soi tối
thiểu
124
52,1
(36)
T H Minh, 2012
Mohamed IS, 2007(18)
Về biến chứng
‐ Biến chứng thông kém chức năng
Bảng 13. so sánh tỷ lệ biến chứng với những tác giả khác
NCHT 2012
(36)
TH Minh 2012
Eklund B 1998(9)
Gadallah M 1999(12)
Yang PJ 2009(41)
NSTT
Mổ mở
Nội soi
Mổ mở
Nội soi
Mổ mở
NSTT
124 TH
84 TH
65 TH
42 TH
76 TH
72 TH
218 TH
CMOB
1,6
0
---
---
---
---
---
Tắc thông
6,5
7,1
11,7
6,9
15,8
19,4
3,9
Rò dịch
2,4
1,2
15
2,3
1,3
11,1
---
VPM
4,8
---
---
---
2,6
12,5
7,9
NTĐH
0
2,4
---
---
---
---
11,8
NCHT: nghiên cứu hiện tại; CMOB: chảy máu ô bụng; VPM: viêm phúc mạc; NTĐH: nhiễm trùng đường hầm.
Tỷ lệ biến chứng này của chúng tôi là
6/124, chiếm (4,8%), phải can thiệp ngoại khoa
để xử lý hiện tượng kém chức năng này sau
khi đã cho bệnh nhân thay đổi tư thế khi cho
dịch thẩm phân vào ‐ ra nhiều lần thất bại.
Hoặc chụp X‐quang xác định vị trí của thông
nằm ở phía trên ổ bụng. Những trường hợp
này chúng tôi tiến hành PTNSOB gỡ dính, cắt
mạc nối nếu cần, kéo thông ra ngoài bơm rữa
dưới áp lực và đặt lại thông vào túi cùng
Douglas. Tỷ lệ thành công lần đầu là 3/6
trường hợp, có 3/6 trường hợp chúng tôi
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
không thể tạo khoang được, hoặc tạo khoang
rất khó khăn, và khoang phúc mạc dính rất
nặng nên không thể cứu thông được mà phải
rút thông chuyển bệnh nhân sang lọc máu. Cả
ba trường hợp này trước đó có viêm phúc mạc
từ 2 – 4 lần, nhưng đáp ứng điều trị nội khoa.
Một trường hơp tắc thông tái lại do fibrin,
được can thiệp nội soi ổ bụng sửa thông lần 2,
với kết quả tốt. Phẫu thuật nội soi ổ bụng cứu
thông là một giải pháp tốt, cũng như nhận
định của Stefano Santarelli(30) áp dụng nội soi ổ
bụng để can thiệp cho những trường hợp tắc
127
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
thông nhằm kéo dài sự lọc màng bụng là một
giải pháp hữu ích. Sau mổ bệnh nhân lại được
tiếp tục thẩm phân phúc mạc.
Biến chứng viêm phúc mạc sau mổ
Theo Trần Hữu Vinh (2010)(38), viêm phúc
mạc là một biến chứng nặng nề nhất đối với
những bệnh nhân được điều trị bằng phương
pháp thẩm phân phúc mạc, và là mối lo ngại của
các nhà thận học khi điều trị bệnh nhân suy thận
mạn tính giai đoạn cuối bằng phương pháp này.
Nguyên nhân nhiễm nấm hoặc vi khuẩn do
thông Tenckhoff thông nối giữa ổ bụng với môi
trường bên ngoài, mà nguyên nhân chủ yếu là
bệnh nhân không tuân thủ chế độ đảm bảo vô
khuẩn khi thực hiện quá trình lọc. Còn nếu quá
trình phẫu thuật tuân thủ nghiêm ngặt vô khuẩn
thì viêm phúc mạc ngay sau mổ ít xảy ra.
Bảng 15. so sánh tỷ lệ viêm phúc mạc sau mổ với
những tác giả khác
Tác giả
Gadallah MF 1999(12)
Kỹ thuật
mổ
Số
bệnh
nhân
Nội soi
76
2,6%
Mổ mở
72
12,5%
Tỷ lệ %
Trần Hữu Vinh, 2010(38)
Mổ mở
84
10,25%
Trần Ngọc Sinh, 2010(37)
Mổ mở
304
1,64%
Phạm Văn Bùi, 2005(23)
Mổ mở
47
23,5%*
Nghiên cứu hiện tại
Nội soi tối
thiểu
124
4,8% (6
TH)
* trong đó 10,6% điều trị bảo tồn thất bại phải rút bỏ
thông.
Biến chứng rò dịch quanh thông thẩm phân
phúc mạc
Rò dịch quanh thông thẩm phân có khuynh
hướng xảy ra sớm sau mổ, thường liên quan với
thể tích dịch lọc nhiều, trên cơ địa thành bụng
yếu (như tiền căn phẫu thuật vùng bụng hoặc
mang thai nhiều lần)(11), và xảy ra nhiều hơn khi
thực hiện thẩm phân trong tư thế đứng (áp lực
trong khoang phúc mạc cao nhất). Tần suất rỉ
dịch quanh chân thông thẩm phân dao động từ
1% đến 40% tùy thuộc vào kỹ thuật đặt: mổ mở,
soi ổ bụng, đặt mù, hay nội soi ổ bụng(5)...
128
Trong nghiên cứu này của chúng tôi áp
dụng kỹ thuật khâu mũi túi phúc mạc. Tỷ lệ rò
dịch quanh thông là 3/124 trường hợp, chiếm
2,4%. Ba trường hợp này, tình trạng rò dịch cải
thiện dần sau 2 tuần, bệnh nhân được cho thực
hiện thẩm phân trong tư thế nằm. Sau 1 tháng
tái khám, không còn ghi nhận tình trạng rò dịch.
Bảng 16. so sánh tỷ lệ rò dịch quanh thông với
những tác giả khác
Tác giả
Eklund B 1998 (9)
Kỹ thuật
mổ
Số
bệnh
nhân
Tỷ lệ %
Nội soi
65
15%
Mổ mở
42
2,3%
Nội soi
76
15,8%
Mổ mở
72
19,4%
Mổ mở
84
1,2% *
Francis DMA, 1984(10)
Mổ mở
122
11,5% **
Nghiên cứu hiện tại
Nội soi tối
thiểu
124
2,4%
(3 TH)
Gadallah MF 1999(12)
T H Minh, 2012(36)
*: Trương Hoàng Minh với kỹ thuật khâu mũi túi phúc
mạc.
**: Francis DMA rò dịch sau mổ 14/122 trường hợp, trong
đó 12 trường hợp cải thiện và ngưng hẳn, 2 trường hợp rỉ
dịch tiến triển phải tiến hành phẫu thuật đặt lại thông mới.
Biến chứng chảy máu sau mổ
Chảy máu trong phúc mạc dịch thẩm phân
có màu hồng, máu cục sẽ làm tắc thông, nhưng
ít khi phải mổ cầm máu. Chảy máu vết mổ
thường do cầm máu kém và băng ép tại chỗ là
đủ(37).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không ghi
nhận chảy máu vết mổ. Tỷ lệ chảy máu trong ổ
bụng là 2/124, chiếm 1,6%. Hai trường hợp này
được điều trị nội khoa thành công. Không có
trường hợp phải can thiệp ngoại khoa.
Bảng 17: so sánh tỷ lệ chảy máu sau mổ với những
tác giả khác
Tác giả, năm
Trần Ngọc Sinh, 2010(37)
(41)
Youmbissi TJ, 2001
Kỹ thuật
mổ
Số bệnh
nhân
Tỷ lệ
%
Mổ mở
304
6,58%
Mổ mở
18
11%
Lo WK, 1992(17)
Mổ mở
65
16%
Nghiên cứu hiện tại
Nội soi tối
thiểu
124
1,6%
(2 TH)
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Phẫu thuật thành công cao: 114/124 trường
hợp, chiếm 91,9%, bệnh nhân làm CAPD có hiệu
quả trong thời gian nghiên cứu là 13,8 ± 7,4
tháng, chỉ cần gây tê tại chỗ, có thể cắt một phần
mạc nối lớn khi cần thiết, quan sát được ổ bụng,
xác định đúng cùng đồ Douglas, tránh tổn
thương các tạng trong ổ bụng, ít tốn kém và có
thể sử dụng thông thẩm phân phúc mạc sớm khi
cần thiết.
Có thể phổ biến kỹ thuật nội soi ổ bụng tối
thiểu đặt thông Tenckhoff rộng rãi tại các cơ sở y
tế, với điều kiện có trang bị phòng mổ tối thiểu
với một máy nội soi bàng quang.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
Allon M, Soucie J, Macon E et al (1978). Continuous
ambulatory peritoneal dialysis. Ann Intern Med, 88, 449‐456.
Amir K, Iraj N, Mihan J, Masud Y (2007). Laparoscopic
peritoneal dialysis catheter implantation using a Tenckhoff
trocar under local anasthesia with nitrous oxide gas
insufflation. The American journal of surgery, 197, 8 – 13.
Bak Leong Goh, Ganeshasha Yudisthra M., Teck Onn Lim,
(2009). Establishing learning curve for Tenckhoff catheter
insertion by interventional Nephrologist using CUSUM
analysis: How many procedures and in which situation?.
Seminar in Dialysis, vol 22, No 2 (March‐April), 199‐203
Bullmaster J. R., Miller S. F.,Linley Jr. R. K.,Jones L. M. (1985).
Surgical aspects of the Tenckhoff peritoneal dialysis catheter:
a 7 year experience. American journal of surgery, 149, 339 –
342.
Copley J. B, Lindberg J. S, Back S. N, Tapia N. P.(1996)
Peritoneoscopic placement of Swan neck peritoneal dialysis
catheters. Perit Dial Int, 16 Suppl 1, 330.
Crabtree J. (2008). Previous abdominal surgery is not
necessarily a contraindication for peritoneal dialysis. Nature
Clinical Practice Nephrology, Vol 8, No 1, 16 – 17.
Crabtree J., Fishman A. (1999). Videoscopic surgery under
local and regional anesthesia with helium abdominal
insufflation. Surgical Endoscopy, 13, 1035‐1039.
Crabtree J., Fishman A. (2000). A laparoscopic approach
under local anesthesia for peritoneal dialysis access.
Peritoneal Dialysis Int, 20, 757‐765.
Eklund B., Groop P. H., Leena Halme, Eero Honkanen, and
Aino‐Riitta Kala (1998). Peritoneal Dialysis Access: A
Comparison of Peritoneoscopic and Surgical Insertion
Techniques. Scand J Urol Nephrol, 32, 405 – 408.
Fracis D. M. A., Donneylly P. K., Veitch P. S., Proud G., Taylor
R. M. R., Ramos J. M., and et (1984). Surgical aspects of
continuous ambulatory peritoneal dialysis ‐ 3 years
experience. British journal of surgery, 71, 225 – 229.
Fleisher A. G., Kimmelstiel F. M., Lattes C. G., Miller R.
E.(1985) Surgical complications of peritoneal dialysis
catheters. Am J Surg, 149, 726.
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
Nghiên cứu Y học
Gadallah M. F., Pervez A., El‐Shahawy M. A., Sorrels D., et al
(1999). Peritoneoscopic versus surgical placement of
peritoneal dialysis catheters: a prospective randomized study
on outcome. Am J Kidney Dis, 33, 118‐122.
Gokal R. (2005). Peritoneal dialysis and complications of
technique, In: Davidson A, Cameron S, Ritz E et al. Oxford
textbook of clinical Nephrology, 3th ed, Oxford University
Press.
Gokal R., Alexander S., Ash S., et al (1998). Peritoneal
catheters and exit‐site practices towardoptimumperitoneal
access: 1998 update. (Official report from the International
Society for Peritoneal Dialysis). Perit Dial Int, 18, 11–33.
Hwang T. L., Chen M. F., Wu C. H., Leu M. O., Huang C. C.
(1995). Comparison four techniques of catheter insertion in
patients undergoing continuous ambulatory peritoneal
dialysis. Eur Journal Surg, 161, 401 – 404.
Lessin M., Luks F., Brem A. and et al (1999). Primary
laparoscopic placement of peritoneal dialysis catheter in
children and young aldults, Surg Endoscopy, 13, 1165‐1167.
Lo W. K., Cheung W. C., Chan T. M., Lo C. Y., Lui S. L. and
Cheng I. K. P. (1992). Result of lower paramedian insertion of
Tenckhoff catheter.Journal of the Hong Kong Medical
Association,Vol. 44, No. 3, 159 ‐163.
Mohamed I. S., Ahmed M. A.(2007). Mini‐laparoscopic
placement of peritoneal dialysis catheter: New technique.
Surgical Practice, 11, 36–40
Nguyễn Thu Hương, Trần Đình Long (2009). Đánh giá hiệu
quả của thẩm phân phúc mạc chu kỳ (CAPD) ở trẻ em suy
thận mạn giai đoạn cuối tại bệnh viện Nhi Trung Ương. Tạp
chí Y Học Việt Nam, số đặc biệt, 43‐50.
Nguyễn Cao Luận, Nguyễn Nguyên Khôi, Hồ Lưu Châu và
cộng sự (2005). Tình trang lây nhiễm virus viêm gan C và
biện pháp đề phòng lây chéo tại khoa thận nhân tạo bệnh
viện Bạch Mai 2001‐2002. Tạp chí Y Học Việt Nam, số đặc biệt
(chuyên đề Tiết Niệu‐Thận Học), 348‐358.
Pham V. B. (2008). How peritoneal dialysis has developed in
Vietnam, Peritoneal Dialysis International, Vol. 28,
Supplement 3, 63‐66.
Poole G. H., Tervit P. (2000). Laparoscopic tenckhoff catheter
insertion: a prospective study of a new technique. N.Z. J.
Surg, 70, 371–373
Phạm Văn Bùi (2005). Khảo sát các biến chứng của thẩm phân
phúc mạc liên tục lưu động trong điều trị bệnh suy thận mạn
giai đoạn cuối. Tạp chí Y Học Việt Nam, số đặc biệt (chuyên
đề Tiết Niệu‐Thận Học), 451‐462.
Phạm Văn Bùi (2008). Ưu điểm của thẩm phân phúc mạc so
với thận nhân tạo trong điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối.
Tạp chí Y Học Thực Hành‐chuyên đề thận học và Tiết Niệu
Học 2006‐2007, số 631+632, 248‐253.
Reissman P., Lyass S., Shiloni E., Rivkind A.and Berlatzky Y.
(1998). Placement of a Peritoneal Dialysis Catheter With
Routine Omentectomy—Does it Prevent Obstruction of the
Catheter? European journal of surgery, 164, 703 – 707.
Rosa P., Victoria G., and et at (2007). Is abdominal surgery still
a contraindication for peritoneal dialysis? Nephrol Dial
Transplant, 22, 2360–2361.
Ruben R., Lewis A., Hassad E. (1961). The use of peritoneal
dialysis in a patient with chronic renal insufficiency,
(Unpublished report).
Siamak S. (2008). Greater Omentum: the Surgeons Friend, no
Longer a Forgotten Organ. Iranian journal of veterinary
surgery, 2, 39 – 47.
129
Nghiên cứu Y học
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Skipper K., Dickerman R., Dunn E. (1999). Laparoscopic
placement and revision of peritoneal dialysis catheters, J Soc
Laparoscopic Surgeons, 3, 63‐65.
Stefano S., Matthias Z. (2006). Vidieolaparoscopy as rescue
therapy and placement of peritoneal dialysis catheters: a
thirty‐two case single centre experience, Nephrology Dialysis
Transplantation, Vol 21, No 5, 1348‐1354.
Stegmayr B. G. (1993). Paramedian insertion of Tenckhoff
catheters with three purse‐string sutures reduces the risk of
leakage, Peritoneal Dialysis Int, vol 13, suppl 2, 124‐126
Strippoli G. F, Tong A., Johnson D., et al.(2004) Catheter‐
related interventions to prevent peritonitis in peritoneal
dialysis: a systematic review of randomized, controlled trials.
J Am Soc Nephrol, 15, 2735.
Tiong HY, Poh J, Sunderaraj K, et al (2006). Surgical
complications of Tenckhoff catheters used in continuous
ambulatory peritoneal dialysis, Singapore Medical Journal,
vol 40 (8), 707‐711.
Tran Tr. Tr., Chu V.Nh., Duong Q. V., et al (2009).
Laparoscopic Repair of Tenckhoff Catheter Obstruction,
Urology, vol 74, issue 4, supplement 1, 222.
Tsimoyiannis E., Siakas P., Glantzounis G., et al (2000).
Laparoscopic placement of the Tenckhoff catheter for
peritoneal dialysis, Surg Laparoscopy, Endoscopy
Percutaneous Techniques, 10, 218‐221.
Trương Hoàng Minh, Lê Hoàng Thịnh, Lê Thị Nghĩa (2012).
Đánh giá vai trò của cắt mạc nối trong phẫu thuật đặt catheter
thẩm phân phúc mạc tại bệnh viện Nhân Dân 115. Tập chí Y
học TP.HCM, phụ bản của tập 16, số 3, 472‐476.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
Trần Ngọc Sinh, Trần Trọng Trí, Phạm Thị Chải, Dương
Quang Vũ, Châu Qúy Thuận, Hoàng Khắc Chuẩn, Nguyễn
Thị Thái Hà (2010). Kết quả phẫu thuật nội soi ổ bụng cứu
thông Tenckhoff nghẹt. Tạp chí Y Học TP.HCM, 14, phụ bản
số 2, 143‐146.
Trần Hữu Vinh (2010). Kỹ thuật đặt catheter ổ bụng để thẩm
phân phúc mạc trong điều trị bệnh nhân suy thận mạn. Đề tài
cấp cơ sở, bệnh viện Bạch Mai.
Võ Thi Kim Hoàng và cộng sự (2004). Thẩm phân phúc mạc
liên tục (CAPD) điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối: kinh
nghiệm ban đầu qua 20 trương hợp tại bệnh viện Nguyễn Tri
Phương. Tạp chí Y Học TPHCM, tập 8 (phụ bản 2), 216‐218.
Võ Thị Kim Hoàn g (2007). Đánh giá hiệu quả thẩm phân
phúc mạc liên tục ngoại trú trong điều trị suy thận mạn giai
đoạn cuối. Luận văn chuyên khoa cấp II, Học viện Quân Y,
TP.Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Yang P. J., Lee C. Y., Yeh C. C. and et al (2009). Mini‐
laparoscopy implantation of peritoneal dialysis catheters:
outcome and rescue. Peritoneal Dialysis International, vol. 30,
513‐518.
Youmbissi T. J., Amir A., Malik Q. T., Joaeb A., Kbursany A.
L., Ghacha R., and et (2001). Simplified surgical placement of
Tenckhoff catheter under local anesthesia: the Dammam
central hospital experience. Saudi journal of kidney diseases
and transplantation, 12 (2), 175 – 178.
Ngày nhận bài báo
16‐09‐2012
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23‐03‐2013
Ngày bài báo được đăng:
15–07‐2013
130
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu