Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Khảo sát các yếu tố dự đoán nguy cơ chảy máu tái phát ở bệnh nhân loét dạ dày tá tràng xuất huyết sau nội soi cầm máu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.41 KB, 5 trang )

ng phần nhiều gặp ở tuổi trên 
40 và tỉ lệ này tăng dần theo tuổi, có lẽ liên quan 
đến nhu cầu sử dụng NSAIDs và aspirin ở người 
lớn tuổi (do có bệnh lý tim mạch và bệnh khớp).  
Tỉ lệ nam/nữ =2,9/1, nhiều tác giả cho rằng 
do  nam  giới  tiếp  xúc  với  các  yếu  tố  nguy  cơ 
nhiều  hơn  nữ  giới  (thuốc  lá,  rượu  bia,  stress, 
H. pylori,...).  
Tỉ lệ chảy máu tái phát trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 19,8%. Qua các nghiên cứu từ 1990 
đến nay  tỉ  lệ  chảy  máu tái  phát  thay  đổi  từ  10‐
20%  tùy  thuộc  vào  phương  cách  điều  trị  trong 
từng nghiên cứu(4,8,6). 
Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  nhóm  bệnh 
nhân  có  trị  số  HATTh  <  90  mmHg  có  nguy  cơ 
chảy máu tái phát cao hơn nhóm BN có HATTh 
>100mmHg  (khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê 
p=0,025).  Mặc  dù  chỉ  số  huyết  áp  đơn  thuần 
không phải là chỉ điểm đáng tin cậy để đánh giá 
mức  độ  xuất  huyết  hoặc  sốc,  huyết  áp  có  thể 

Ổ loét đang phun máu có nguy cơ chảy máu 
tái phát cao hơn gấp 15 lần đối với ổ loét có cục 
máu  đông,  đối  với  những  BN  có  ổ  loét  đang  rỉ 
máu sẽ có nguy cơ chảy máu tái phát cao hơn 7,2 
lần so với ổ loét có cục máu đông, sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Như vậy có nhận 
định giống nhau giữa các tác giả về yếu tố đang 
chảy máu của ổ loét (máu phun hay rỉ) có giá trị 
quan trọng và ý nghĩa trong tiên đoán chảy máu 
tái phát sau nội soi cầm máu(2,9).  


Qua phân tích hồi quy đơn biến thì ổ loét có 
kích thước > 2cm và kích thước 1 ‐ 2 cm có nguy 
cơ  chảy  máu  tái  phát  cao  hơn  ổ  loét  có  kích 
thước  <  1cm,  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê 
với p <0,05. Với kích thước ổ loét lớn tổn thương 
nhiều  mạch  máu,  nội  soi  cầm  máu  trên  diện 
thương tổn rộng cho kết quả hạn chế nên nguy 
cơ chảy máu tái phát cao. 
Yếu  tố  ổ  loét  ở  mặt  sau  HTT  (hành  tá 
tràng)  liên  quan  có  ý  nghĩa  đến  chảy  máu  tái 
phát.  Mặc  dù  có  những  nhận  định  khác  nhau 
nhưng  phần  lớn  nghiên  cứu  bao  gồm  của 
chúng tôi đều cho rằng vị trí mặt sau hành tá 
tràng  có  ý  nghĩa  quan  trọng  trong  tiên  đoán 
chảy máu tái phát. Nơi có động mạch vị tá với 
kích thước lớn, là vị trí mù rất khó tiếp cận, và 
không  thể  trực  diện  tiến  hành  những  phương 
pháp cầm máu trong khi nội soi. Vị trí mặt sau 
hành  tá  tràng  trong  kết  quả  nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  là  một  yếu  tố  tiên  đoán  cho  tình 
trạng chảy máu tái phát sau nội soi cầm máu. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  chọn  điểm 
cắt  của  HST  (huyết  sắt  tố)  là  100  g/l  qua  phân 
tích hồi quy đơn biến cho kết quả HST <100 g/l 
cũng  là  một  yếu  tố  độc  lập  có  giá  trị  tiên  đoán 
cho chảy máu tái phát sau nội soi cầm máu đáng 
tin cậy. 

115



Nghiên cứu Y học 
Khi  phân  tích  tương  tự  cho  việc  sử  dụng 
thuốc ức chế bơm proton cho kết quả sử dụng 
thuốc  ức  chế  bơm  proton  liều  thấp  là  yếu  tố 
tiên  đoán  cho  chảy  máu  tái  phát  sau  nội  soi 
cầm máu.  
Trong phân tích hồi qui đơn biến, các yếu tố 
tiên  đoán  nguy  cơ  CMTP  liên  quan  có  ý  nghĩa 
trong  bệnh  loét  dạ  dày  tá  tràng  xuất  huyết  tái 
phát  bao  gồm:  HATTh  (huyết  áp  tâm  thu)  < 90 
mmHg,  vị  trí  ổ  loét  ở  mặt  sau  hành  tá  tràng,  ổ 
loét  đang  chảy  máu  hoặc  rỉ  máu,  kích  thước  ổ 
loét 1‐2 cm, kích thước ổ loét > 2cm, giá trị HST< 
100  g/l,  sử  dụng  thuốc  ức  chế  bơm  proton  liều 
thấp.  Những  biến  này  được  đưa  vào  phân  tích 
bằng  mô  hình  hồi  qui  logistics  đa  biến  để  tiên 
đoán tình trạng CMTP cho kết quả HATTh < 90 
mmHg với OR=1,83 KTC (0,59 ‐ 5,62), vị trí ổ loét 
ở mặt sau hành tá tràng với OR = 4,72 KTC (1,13 
‐ 19,6), ổ loét Forrest Ia với OR = 5,55 KTC (1,65 ‐ 
18,63), ổ loét Forrest Ib với OR = 3,79 KTC (1,49 ‐ 
9,65), kích thước ổ loét ≥ 1cm với OR = 3,11 (1,17‐ 
8,26),  ổ  loét  >  2cm  với  OR  =  18,38  KTC  (5,78  ‐ 
58,48),  giá  trị  HST  <100  g/lvới  OR  =  7,11  KTC 
(0,86 ‐ 58,56). Tuy nhiên chỉ vị trí ổ loét ở mặt sau 
hành  tá  tràng,  ổ  loét  đang  phun  máu,  ổ  loét  rỉ 
máu,  ổ  loét  >  2cm,  sử  dụng  thuốc  ức  chế  bơm 
proton  liều  thấp  liên  quan  có  ý  nghĩa  với  chảy 
máu tái phát sau nội soi cầm máu với p < 0,05.  

Các yếu tố tiên đoán chảy máu tái phát sau 
nội soi cầm máu trong nghiên cứu của chúng tôi 
cũng tương tự như nhiều tác giả khác, điển hình 
trong  một  phân  tích  gộp  của  Garcia  L  và  cs 
(2011)(5).  Đôi  khi  các  yếu  tố  có  thay  đổi  trong 
từng  nghiên  cứu  do  khác  nhau  về  cỡ  mẫu, 
phương  pháp  can  thiệp…nhưng  nhìn  chung 
không có sự khác biệt lớn.  

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
‐  Ổ  loét  được  phân  loại  Forrest  Ia,  ổ  loét 
được  phân  loại  Forrest  Ib,  vị  trí  ổ  loét  ở  mặt 
sau hành tá tràng, kích thước ổ loét > 2cm, sử 
dụng  thuốc  ức  chế  bơm  proton  liều  thấp  là 
những  yếu  tố  độc  lập  tiên  đoán  chảy  máu  tái 
phát sau nội soi cầm máu. 
‐  Nhằm  cải  thiện  tỉ  lệ  tử  vong  ở  bệnh  nhân 
loét dạ dày tá tràng xuất huyết cần theo dõi sát 
tình trạng xuất huyết sau nội soi cầm máu và xử 
trí tích cực khi có các yếu tố tiên đoán chảy máu 
tái phát. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.


5.

6.

7.

8.

9.

KẾT LUẬN  
‐  Tuổi  xuất  hiện  loét  dạ  dày  tá  tràng  xuất 
huyết  là  50  ±  18,11  và  tỉ  lệ  xuất  hiện  bệnh  này 
tăng dần theo tuổi. 
‐ Tỉ lệ chảy máu tái phát sau nội soi cầm máu 
là 19,8%. 

116

Adler  DG,  Leighton  JA,  Davila  RE,  et  al.  (2004),  “ASGE 
guideline: the role of endoscopy in acute non‐variceal upper‐
GI hemorrhage”. Gastrointest Endosc; 60 (4) : pp.497‐504. 
Brullet E, Calvet X, Campo R, et al. (1996), “Factors predicting 
failure  of  endoscopic injection  therapy  in  bleeding duodenal 
ulcer”. Gastrointest Endosc; 43: pp.111 – 6.  
Button  LA,  Roberts  SE,  Evans  PA,  Goldacre  MJ,  et  al.(2011), 
“Hospitalized  incidence  and  case  fatality  for  upper 
gastrointestinal bleeding from 1999 to 2007”. Gastroenterology; 
141(1): pp. 62‐70.  

Daneshmed  TK,  Hawkey  CT,  Langman  MT  (1992), 
“Omeprazole versus placebo for acute upper gastro intestinal 
bleeding:  randomised  double  blind  controlled  trial”.  Bristish 
Medical Journal; 304(6820): pp. 143‐147. 
Garcia L, Villoria A, et al (2011), “Meta‐analysis: predictors of 
rebleeding  after  endoscopic  treatment  for  bleeding  peptic 
ulcer”. Aliment Pharmacol Ther ;34: pp. 888‐900. 
Hearnshaw SA, Logan RF, et al (2010), “Outcomes following 
early red blood cell transfusion in acute upper gastrointestinal 
bleeding”. Alimentary Pharmacol Ther ; 32: pp. 215‐224. 
Hearnshaw SA, Logan RF, Lowe D, Travis SP (2001), “Acute 
upper  gastrointestinal  bleeding  in  the  UK:  patient 
characteristics,  diagnoses  and  outcomes  in  the  2007  UK 
audit”. Gut; 60(10): pp. 1327‐35. 
Lê Thành Lý và cs (2007), “ Đánh giá hiệu quả ban đầu điều 
trị  bằng  tiêm  truyền  tĩnh  mạch  thuốc  esomeprazole  trong 
phòng ngừa chảy máu tái phát sau nội soi điều trị xuất huyết 
do loét dạ dày tá tràng”. Tạp chí khoa học tiêu hóa Việt Nam; 3(9), 
tr. 525‐27. 
Wang CH, et al.(2010) “ High‐Dose vs Non‐High‐Dose proton 
Pump Inhibitors After Endoscopic Treatment in Patients with 
bleeding  Peptic  Ulcer:  A  systematic  Review  and  Meta‐
analysis  of  Randomized  Controll  Trials”.  Arch  Intern  Med; 
170(9):751‐758. 

 
Ngày nhận bài báo: 

 


 

03/06/2014 

Ngày phản biện đánh giá bài báo: 

09/08/2014 

Ngày bài báo được đăng: 

30/08/2014 

 



×