Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghiên cứu thực nghiệm cắt qua da ròng rọc A1 trên xác bằng kim 18G ứng dụng trong điều trị ngón tay bật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.78 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CẮT QUA DA RÒNG RỌC A1  
TRÊN XÁC BẰNG KIM 18G ỨNG DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ NGÓN TAY BẬT 
Đỗ Phước Hùng*, Nguyễn Trung Hiếu*, Trang Mạnh Khôi**

TÓM TẮT 
Mục đích: Đánh giá hiệu quả, tính an toàn và các biến chứng khi giải phóng ngón tay bật qua da bằng 
kim 18G.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu cắt qua da ròng rọc A1 bằng kim 18G trên 
25 ngón tay của 3 xác tươi và 5 ngón tay của bàn tay đứt lìa. Sau đó, chúng tôi phẫu tích bàn tay quan sát ròng 
rọc A1, A2, các tổn thương gân gấp và bó mạch thần kinh gan ngón tay nếu có.
Kết quả: Trong số 30 ngón tay ngiên cứu, có 87% (26/30) cắt được hoàn toàn ròng rọc A1, 13% (4/30) cắt 
không hoàn toàn. Tổn thương gân gấp ở các mức độ khác nhau: từ rách nông trên bề mặt 87% (26/30), rách dọc 
nông 10% (3/30), rách dọc sâu 3% (1/30). Tuy nhiên, không có trường hợp nào bị đứt gân gấp nông hay sâu. Có 
1 (3%) trường hợp ở ngón tay 1 bị rách nông bao khớp trước của khớp bàn ngón tay. Không có trường hợp nào 
bị tổn thương ròng rọc A2 hay bó mạch thần kinh gan ngón tay. 
Kết luận: Kỹ thuật cắt ròng rọc A1 qua da bằng kim 18G trên xác bước đầu cho thấy là một kỹ thuật hiệu 
quả và an toàn. Tuy nhiên, phẫu thuật viên cần phải được luyện tập thành thạo trước khi áp dụng vào lâm sàng. 
Từ khóa: ngón tay lò xo, viêm hẹp bao gân gấp, cắt ròng rọc qua da. 

ABSTRACT 
PERCUTANEOUS RELEASE OF THE A1 PULLEY WITH 18G NEEDLE: A CADAVER STUDY  
FOR STENOSING TENOSYNOVITIS MANAGEMENT  
Do Phuoc Hung, Nguyen Trung Hieu, Trang Manh Khoi  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 444 ‐ 448 
Background: Stenosing tenosynovitis of the fingers is one of the most common problems treated by hand 
surgeons. When conservative treatments fail surgical release of A1 pulley may be required. Recently, there have 
been a number of reports on percutaneous release with a needle but the technique has been controversial. 


Purposes: To evaluate the effectiveness, the safety and complications of the technique when performing 
on cadaver.
Methods and materials: Case series report. The technique was applied  on  25  fingers  of  cadavers  and  5 
fingers of one severed hand. Then all fingers were dissected to observe A1, A2 pulleys, tendons, MP joints and 
digital neurovascular bundles. 
Results: 87% (26/30) of fingers were  completely  cut  A1  pulley,  13%  (4/30)  being  incompletely  cut.  The 
tendons were injuried with the various extents:scratching 87% (26/30),superficial tear 10% (3/30) and profound 
tear 3%(1/30) and no case of rupture. One case of the thumbs was found superficial tear of MPJ capsule. Neither 
A2 nor digital neurovascular bunbles were damaged. 
Conclusion: Percutaneous  release  of  the  A1  pulley  is  initially  effective  and  safe.  However  the  technique 
requires learning curve. 
Keywords: trigger finger, stenosing tenosynovitis, percutaneous release.
* Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Đỗ Phước Hùng   ĐT: 0909274971 

444

Email:  

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Viêm  hẹp  bao  gân  gấp  (stenosing 
tenosynovitis)  hay  ngón  tay  cò  súng  (trigger 
finger) là một bệnh lí thường gặp ở bàn tay, đặc 
biệt ở những người phải làm việc nhiều bằng tay 
với những cử động lặp đi lặp lại hay gắng sức. 
Giai đoạn đầu bệnh thường gây đau. Bệnh tiến 

triển dần đến giới hạn vận động ngón tay vì vậy 
ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và lao động 
của người bệnh. Việc điều trị tùy thuộc vào giai 
đoạn bệnh mà lựa chọn điều trị bảo tồn (mang 
nẹp ngón tay, uống NSAID, steroid, tiêm steroid 
tại chổ…) hay phẫu thuật (mổ kín hay hở). Cắt 
kín  ròng  rọc  A1  qua  da  bằng  kim  18G  giải 
phóng  nơi  viêm  hẹp  bao  gân  gấp  được  cho  là 
phương  pháp  ít  xâm  lấn  nhất  được  Lorthior 
thực hiện lần đầu tiên vào năm 1958. Từ đó, kỹ 
thuật này được áp dụng rộng rãi ở nhiều  nước 
trên  thế  giới  trong  đó  có  Việt  Nam.  Tuy  nhiên 
cho  đến  nay  vẫn  còn  không  ít  tranh  cãi  về  khả 
năng cắt đứt hoàn toàn ròng rọc A1 hay không, 
cũng  như  biến  chứng  tổn  thương  gân,  mạch 
máu,  thần  kinh  cùa  ngón  tay  do  còn  thiếu 
những bằng chứng khách quan về mặt giài phẫu 
đại thể. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này góp phần làm sáng tỏ tính an toàn, hiệu 
quả  của  phương  pháp  giải  phóng  ròng  rọc  A1 
qua qua bằng kim 18G. 

Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá hiệu quả, tính an toàn và các biến 
chứng khi giải phóng ngón tay bật qua da bằng 
kim 18G trên xác tươi. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên  cứu  mô  tả  tiền  cứu.  Đối  tượng 

nghiên cứu: 25 ngón tay của 3 xác tươi được bảo 
quản tại Bộ môn Giải Phẫu Học, Đại học Y Dược 

Chấn Thương Chỉnh Hình 

Nghiên cứu Y học

Tp. HCM và 5 ngón tay của 1 bàn tay đứt lìa ở 
Bệnh  viện  Nhân  Dân  Gia  Định.  Thời  gian 
nghiên cứu: từ tháng 07/2012 đến 07/2013.  

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Xác tươi người trưởng thành có bàn tay còn 
nguyên vẹn.  
Tiêu chuẩn loại trừ
Xác tươi có bàn tay biến dạng, sẹo cũ ở bàn ‐ 
ngón tay có liên quan tới vùng phẫu tích. 
Số liệu được xử lý bằng toán thống kê Stata 
10.0, Microsoft Office Excel 2007 
Nghiên  cứu  được  tiến  hành  qua  các  bước 
sau: 
Bước  một:  Xác  định  vị  trí  của  ròng  rọc  A1 
các ngón trên bề mặt da gan tay. 
Các ngón dài:  Khoảng  cách  từ  nếp  gấp  liên 
đốt gần của ngón 2,3,4,5 đến nếp gấp bàn ngón 
bằng khoảng cách từ nếp gấp bàn ngón đến bờ 
trên của ròng rọc A1, xác định được vị trí bờ trên 
của ròng rọc A1 trên bề mặt da gan tay của ngón 
2 đến 5. Bờ dưới của ròng rọc A1 (ngón 2 đến 5) 
trên  bề  mặt  da  gan  tay  cách  nếp  gấp  bàn  ngón 

tay  lên  trên  khoảng  5mm,  xác  định  được  chiều 
dài của ròng rọc A1 (ngón 2 đến 5) trên lòng bàn 
tay(3). 
Ngón cái: Bờ trên của ròng rọc A1 ngón cái ở 
gan tay đối xứng với đỉnh cao nhất phía sau trên 
của  chỏm  xương  bàn  1  ở  tư  thế  gấp  khớp  bàn 
đốt  ngón  cái  45  độ.  Chiều  dài  của  ròng  rọc  A1 
ngón cái là 5,3mm. (7). 
Bước  hai: Dùng cạnh bên của đầu kim 18G 
cắt kín qua da hoàn toàn ròng rọc A1 các ngón 1 
đến 5. 
Bơm 1cc nước muối sinh lí vào mô mềm mặt 
trước ròng rọc để tạo khoảng trống lỏng lẻo cho 
kim  hoạt  động  không  bị  cản  trở.  Dựa  vào  các 
mốc  đã  đánh  dấu  trên  gan  tay  xác  định  vị  trí 
đâm kim ngay phía trên của bờ trên ròng rọc A1, 
hướng  kim  vuông  góc  với  gan  tay.  Dùng  đầu 
kim”rà”  trên  bề  mặt  ròng  rọc  A1  để  xác  định 
ước lượng giới hạn. 
Di  chuyển  kim  lên  xuống  hướng  theo  trục 

445


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

dọc  gân,  dung  cạnh  bên  đầu  kim  cắt  ròng  rọc 
A1, hướng cắt đi về phía xa và không vượt qua 

nếp gấp bàn ngón tay. 
Bước  ba:  Phẫu  tích  bộc  lộ  ròng  rọc  A1,  A2, 
gân  gấp  nông,  sâu  và  bó  mạch  thần  kinh  gan 
ngón tay. 
Rạch da hình zig zag từ nếp liên đốt gần đến 
giữa lòng bàn tay theo chiều dọc của gân. 
Bộc  lộ  ròng  rọc  A1  xem  có  cắt  hoàn  toàn 
không, nếu không hoàn toàn thì phần còn lại là 
bao nhiêu. 
Bộc lộ ròng rọc A2 xem có bị cắt phạm tới 
không. 
Bộc  lộ  gân  gấp  nông  và  gân  gấp  sâu  đánh 
giá  mức  độ  tổn  thương  gân:  trầy  sướt  bề  mặt, 
rách dọc gân hoàn toàn, đứt gân. 
Kiểm  tra  sự  toàn  vẹn  của  bao  khớp  bàn 
ngón tay. 
Bộc lộ bó mạch thần kinh gan ngón bên trụ 
và bên quay xem có bị tổn thương không. 

Bước bốn: Tổng hợp và phân tích các số liệu 
*  Hiệu  quả:  được  xác  định  thông  qua  tỉ  lệ 
ròng  rọc  A1  được  cắt  hoàn  toàn(hiệu  quả,  hiệu 
quả một phần (ròng rọc được cắt >75% chiều dài 
nhưng  còn  1  phần  chưa  được  cắt),không  hiệu 
quả(ròng rọc được cắt ≤75%). 
* An toàn: được xác định thông qua tỉ lệ tổn 
thương  gân  gấp  và  mức  độ  tổn  thương  gân 
gấp(xướt  bề  mặt,  rách  nông  <30%  độ  dầy  của 
gân,  rách  sâu≥  30%  độ  dầy  của  gân  tại  vị  trí 
rách),tỉ  lệ  tổn  thương  bao  khớp  bàn  đốt  ngón 

tay,  tỉ  lệ  tổn  thương  bó  mạch  thần  kinh  gan 
ngón tay(xướt, thủng, rách). 
KẾT QUẢ 
Chúng tôi tiến hành cắt ngầm qua da ròng 
rọc A1 bằng kim 18G trên 25 ngón tay của 3 xác 
tươi được bảo quản tại Bộ môn Giải Phẫu Học, 
Đại học Y dược Tp. HCM và 5 ngón tay của bàn 
tay đứt lìa (1 nữ, 3 nam) với kết quả như sau: 

Bảng1: Ngón tay phẫu tích và các thương tổn giải phẫu 
Thương tổn
Ròng rọc A1
Ngón tay
Đứt 100% Đứt >75%
6 ngón 1
4
2
6 ngón 2
5
1
6 ngón 3
6
0
6 ngón 4
6
0
6 ngón 5
5
1


Ròng
Rọc A2
0
0
0
0
0

Gân gấp nông, sâu
Rách bao Thần
kinh
Bề mặt Rách dọc Đứt gân khớp
4
2
0
1
0
5
1
0
0
0
6
0
0
0
0
6
0
0

0
0
5
1
0
0
0

Tỉ lệ cắt được hoàn toàn ròng rọc A1 là: 26/30 
= 87%; 13% (4/30) cắt hiệu quả một phần, không 
có trường hợp nào cắt không hiệu quả. 
Không  có  trường  hợp  nào  bị  cắt  phạm  đến 
ròng rọc A2. 
Tổn  thương  gân  gấp  ở  các  mức  độ  khác 
nhau:  xước  nông  trên  bề  mặt  87%  (26/30),  rách 
dọc  nông  10%  (3/30),  3%  rách  dọc  sâu  (1/30%). 
Tuy nhiên, không có trường hợp nào bị đứt gân 
gấp nông hay sâu. 
Có 1 (3,3%) trường hợp ở ngón tay 1 gân bị 
rách dọc sâu và rách bề mặt bao khớp trước của 
khớp bàn ngón tay (không thông vào bao khớp). 
Không có trường hợp nào bị tổn thương bó 
mạch thần kinh gan ngón tay. 

446

Mạch
máu
0
0

0
0
0

BÀN LUẬN 
Khả năng cắt ròng rọc A1 qua da với kim 
Pope  và  Wolfe  (1995)  đã  tiến  hành  giải 
phóng  qua  da  cho  13  trường  hợp  ngón  tay  bật 
bằng kim 19G. Sau đó, tác giả tiến hành mổ hở 
để  quan  sát  ròng  rọc  A1  cho  thấy:  có  8  trường 
hợp (61,5%) cắt đứt hoàn toàn ròng rọc A1, còn 5 
trường hợp (38,5%) chỉ đứt bán phần. Cũng năm 
1995, Bain báo cáo có 20% trường hợp không cắt 
hoàn toàn ròng rọc A1, 12% giải phóng ròng rọc 
A1  thất  bại  khi  thực  hiện  nghiên  cứu  trên  xác. 
Michael  J.  Dunn  (1999)(2)  cũng  ghi  nhận  chỉ  có 
38%  (10/26)  trường  hợp  cắt  hoàn  toàn  ròng  rọc 
A1 bằng kim 19G. Một nghiên cứu khác của tác 
giả Slesarenco (2006) (8) ghi nhận: chỉ có 59 ngón 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
(59%)  cắt  được  hoàn  toàn  ròng  rọc  A1,  các 
trường hợp còn lại đều cắt không hoàn toàn đặc 
biệt  ở  các  ngón  1,  2  và  5.  Trong  nghiên  cứu 
chúng tôi, có 26 trường hợp (87%) cắt được hoàn 
toàn  ròng  rọc  A1,  4  trường  hợp  (13%)  cắt  hiệu 
quả một phần. Như vậy, kỹ thuật cắt kín qua da 

bằng kim có hiệu quả trong hầu hết các trường 
hợp. Các trường hợp cắt không hoàn toàn chiếm 
tỉ  lệ  nhỏ,  phần  ròng  rọc  còn  lại  chiếm  dưới  ¼ 
chiều dài ròng rọc. Nếu áp dụng trên lâm sàng tỉ 
lệ  hiệu  quả  rất  có  thể  sẽ  tăng  lên  do  có  thể  cắt 
thêm  lần  nữa  nếu  vẫn  còn  có  dấu  hiệu  “kẹt” 
(dấu bật ngón tay, cảm giác vướng khi gấp duỗi 
ngón tay, dấu “khựt” khi đặt tay lên vị trí ròng 
rọc trong lúc bệnh nhân gập duỗi các ngón…). 

Vấn đề cắt “quá” làm phạm ròng rọc A2 
Slesarenco (2006)(8): cắt kín qua da 100 ngón 
tay bằng kim 18G ghi nhận chỉ có 2 trường hợp 
cắt phạm vào ròng rọc A2 1mm (10% chiều dài 
ròng rọc). Còn trong nghiên cứu của  Michael  J. 
Dunn  (1999)(2)  trên  26  ngón  tay  và  Ron  Hazani 
(2008)(5)  trên  45  ngón  tay  thì  không  có  trường 
hợp  nào  cắt  phạm  vào  ròng  rọc  A2.  Chúng  tôi 
cũng có kết quả tương tự, trong số 30 ngón tay 
giải  phóng  ròng  rọc  A1  qua  da  bằng  kim  18G 
không có trường hợp nào cắt phạm vào ròng rọc 
A2.  Như  vậy,  thực  hiện  kỹ  thuật  dưới  hướng 
dẫn  của  các  mốc  giải  phẫu  bề  mặt  gan  tay  nói 
trên giúp bảo tồn được ròng rọc A2. 

Mức độ tổn thương gân gấp 
Trong  nghiên  cứu  của  Michael  J.  Dunn 
(1999)(2) ghi nhận: có 73% (19/26) trường hợp có 
tổn thương gân gấp từ mức độ nhẹ <5% bề dầy 
của gân (11 trường hợp) đến rách gân sâu > 30% 

bề  dầy  gân  (2  trường  hợp),  nhưng  không  có 
trường  hợp  nào  bị  đứt  gân.  Tương  tự,  nghiên 
cứu  của  Slesarenco  (2006)(8)  cũng  cho  thấy  có 
46% trường hợp tổn thương gân với sướt bề mặt 
(70%) hay rách sâu (30%)  chứ  không  có  trường 
hợp nào đứt gân. Các nghiên cứu khác trên xác 
hay  lâm  sàng  qua  đánh  giá  và  theo  dõi  bệnh 
nhân cũng cho kết quả tương tự  như: Lorithior 
(1958), Eastwood (1992), Oguz Cebesoy (2007)(1), 
Han  Koo  Ryu  (2009)(5)…  Trong  nghiên  cứu  của 

Chấn Thương Chỉnh Hình 

Nghiên cứu Y học

chúng  tôi,  tất  cả  30  trường  hợp  đều  có  tổn 
thương gân, trong đó 87% trầy sướt bề mặt, 10% 
rách  dọc  nông,  3%  rách  dọc  sâu  và  không  có 
trường hợp nào đút gân. Như vậy, với kỹ thuật 
cắt  ròng  rọc  A1  qua  da  bằng  kim  18G  thì  tổn 
thương  gân  gấp  là  không  thể  tránh  khỏi.  Tuy 
nhiên, mức độ tổn thương gân đa số là nhẹ và ít 
gây hậu quả nghiêm trọng.  

Tổn thương khớp bàn ngón tay 
Chúng  tôi  có  1  (3,3%)  trường  hợp  cắt  kim 
quá  sâu,  để  phạm  vào  bao  khớp  bàn  ngón  tay 
của ngón 1. Trường hợp này được thực hiện trên 
bàn tay đứt lìa và là lần đầu thực hiện kỹ thuật 
nên  chưa  có  cảm  giác  về  độ  sâu  của  kim,  cũng 

như  sự  hoàn  thiện  về  mặt  kỹ  thuật.  Ngoài  ra, 
việc  thực  hiện  cắt  kín  trên  bàn  tay  đứt  lìa,  các 
gân gấp bị mất cố định ở phần nguyên ủy cũng 
có  thể  là  nguyên  nhân  làm  giảm  cảm  giác  qua 
gân  khi  cắt.  Biến  chứng  này  không  được  ghi 
nhận  qua  nghiên  cứu  của  các  tác  giả  khác  khi 
thực hiện trên xác tươi. 

Tổn  tương  mạch  máu,  thần  kinh  gan 
ngón tay 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  không  có 
trường  hợp  nào  bị  tổn  thương  bó  mạch  thần 
kinh  gan  ngón  tay.  Kết  quả  này  cũng  tương  tự 
nghiên  cứu  của  các  tác  giả  khác  như:  Pope  và 
Wolfe  (1995),  Michael  J.  Dunn  (1999)(2), 
Slesarenco  (2006)(8)  và  Ron  Hazani  (2008)(6)… 
Như  vậy  kỹ  thuật  cắt  kín  qua  da  ròng  rọc  A1 
bằng kim 18G, nếu được thực hiện dựa trên gân 
gấp  và  hướng  dẫn  vị  trí  cắt  nhờ  các  mốc  giải 
phẫu trên mặt da gan tay thì có thể tránh được 
tổn thương bó mạch thần kinh gan ngón tay. 

Mặt hạn chế của đề tài 
Do kỹ thuật tiến hành trên xác nên thiếu các 
đối  chiếu  lâm  sàng  của  bệnh  nhân  trong  khi 
thực  hiện  kỹ  thuật  như:  dấu  hiệu  cò  súng  còn 
hay hết. 
Nốt  gân  trong  ngón  tay  cò  súng  có  thể  sờ 
thấy  trên  lâm  sàng  cũng  là  1  chỉ  điểm  để  xác 
định vị trí của ròng rọc A1. Do nghiên cứu trên 

xác không có chỉ điểm này nên có thể làm giảm 

447


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

tính hiệu quả của phương pháp.   

3.

KẾT LUẬN 
Mặc  dù  có  những  hạn  chế  về  cở  mẫu  cũng 
như các đối chiếu về lâm sàng, nghiên cứu thực 
nghiệm bước đầu cũng cho thấy tỉ lệ giải phóng 
được  hoàn  toàn  ròng  rọc  A1  khá  cao  (87%)  mà 
không có 1 biến chứng nghiêm trọng nào về mặt 
giải phẫu. Do đó, kỹ thuật cắt ròng rọc A1 qua 
da bằng kim 18G trên xác bước đầu cho thấy là 
một  kỹ  thuật  hiệu  quả  và  an  toàn.  Tuy  nhiên, 
phẫu thuật viên cần phải được luyện tập thành 
thạo trước khi áp dụng vào lâm sàng. 

4.

5.

6.


7.

8.

TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.

2.

Cebesoy O, Kose KC, Baltaci ET, Isik M (2007), “Percutaneous 
release of the trigger thumb: is it safe, cheap and effective?”, 
International Orthopaedics (SICOT), Vol.31(3), pp.345‐349. 
Dunn  MJ,  Pess  GM  (1999),“Percutaneous  Trigger  Finger 
Release:A Comparison of a New Push Knife and a 19‐Gauge 
Needle  in  a  Cadaveric  Model”,  The  Journal  of  Hand  Surgery, 
Vol 24A(4), pp. 860‐865. 

Fiorini  HJ,  Santos  JB,  Hirakawa  CK,  Sato  ES,  Faloppa  F, 
Albertoni  WM  (2011),  “Anatomical  Study  of  the  A1  Pulley: 
Length and Location by Means of Cutaneous Landmarks on 
the Palmar Surface”, JHS, Vol. 36A pp. 464‐468. 
Habbu  R,  Putnam  MD  (2012),  “Percutaneous  release  of  the 
A1 pulley: a cadaver study”, J Hand Surg Am, Vol. 37(11), pp. 
2273‐2277. 
Han  KR  (2009),  “Clinical  experience  of  the  percutaneous 
release  for  trigger  fingers”,  Korean  J  Anesthesiol,  Vol.  56(1), 
pp.60‐65. 
Hazani R, et al (2008), “Assessment of the Distal Extent of the 
A1  Pulley  Release:  A  New  Technique”,  Journal  of  plastic 

surgery, Vol. 8, pp.423‐427. 
Jongjirasiri Y (2009), “Length and Landmark of A1 Pulley in 
Hand:  An  Anatomical  Study”,  J  Med  Assoc  Thai,  Vol. 
92(1),pp.41‐46. 
Slesarenko  Y  A  (2006),  “Percutaneous  release  of  A1 
pulley”,  Techniques  in  Hand  and  Upper  Extremity  Surgery, 
Vol. 10(1), pp.54‐56. 

 
Ngày nhận bài báo:    

 

24/10/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:   24/10/2013 
Ngày bài báo được đăng:  

05/01/2014 

 
 

448

Chuyên Đề Ngoại Khoa 




×