Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tình trạng sức khỏe răng miệng và mối liên quan với chất lượng cuộc sống của sinh viên Đại học Sài Gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.86 KB, 9 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE RĂNG MIỆNG VÀ MỐI LIÊN QUAN
VỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Trịnh Thị Tố Quyên*, Ngô Thị Quỳnh Lan**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tình trạng sức khỏe răng miệng và mối liên quan giữa tình trạng này với cảm nhận đối
với chất lượng cuộc sống của sinh viên Đại học Sài Gòn năm 2011.
Phương pháp: nghiên cứu dịch tễ sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang, mẫu nghiên cứu gồm toàn bộ sinh viên
năm thứ nhất năm học 2010-2011 trường Đại học Sài Gòn, tuổi từ 17 đến 26 tuổi (n=3575). Tất cả sinh viên
được khám lâm sàng răng để xác định trung bình SMT-R và tình trạng nha chu. Bảng câu hỏi “Tác động của sức
khỏe răng miệng lên cuốc sống hàng ngày” (OIDP) phiên bản tiếng Việt được sử dụng để đánh giá tác động của
bệnh răng miệng đến sinh hoạt hàng ngày của sinh viên và được thu thập bằng phương pháp tự điền. Test chi
bình phương dùng đánh giá mối liên quan tình trạng sức khỏe răng miệng và chỉ số OIDP; phương pháp hồi qui
đơn biến và đa biến được sử dụng để xây dựng mô hình các yếu tố tiên đoán chỉ số OIDP.
Kết quả: Tình trạng sâu răng của đối tượng sinh viên Đại học Sài Gòn ở mức độ trung bình theo phân loại
của WHO (71,9%). Vấn đề vôi răng và chảy máu nướu là vấn đề nha chu phổ biến nhất ở sinh viên lứa tuổi này.
Các kết quả cũng cho thấy rằng yếu tố lâm sàng (mất răng và vấn đề về mô nha chu) và cảm nhận của sinh viên
(sự hài lòng vẻ bề ngoài của hàm răng và cảm nhận về SKRM) là các yếu tố dự báo về tác động đến 8 sinh hoạt
hàng ngày của sinh viên theo trình tự là ăn nhai, giao tiếp xã hội, vệ sinh răng miệng, tinh thần, cười thoải mái,
nói chuyện (phát âm), học tập hay làm việc và nghỉ ngơi.
Kết luận: Yếu tố mất răng và nha chu là 2 yếu tố có ý nghĩa kết hợp đến CLCS của sinh viên, vì thế các
chương trình can thiệp nên hướng đến dự phòng và điều trị bảo tồn răng.
Từ khóa : Sức khỏe răng miệng, chất lượng cuộc sống, sinh viên Đại Học Sài Gòn

ABSTRACT
ORAL HEALTH STATUS AND RELATIONSHIP BETWEEN THIS STATUS AND
PERCEPTIONS ON QUALITY OF LIFE OF STUDENTS OF THE UNIVERSITY OF SAIGON


Trinh Thi To Quyen, Ngo Thi Quynh Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 24-32

Objective: The study is to examine oral health status and relationship between this status and
perceptions on quality of life among students of the University of Saigon.
Methods: A cross-sectional study was carried out in 2011 among the first year students of the university of
Sài Gòn, aged from 17 to 26 (n=3575). All students were examinated clinically to identify the mean of DMFT and
periodontal status. The Vietnamese version of oral impacts on daily performance (OIDP) inventory was used to
assess impacts of odonto health status on daily living activities among students using self- administrative method.
Descriptive statistics was used to describe oral health status and the relationship between this status and the Oral
Impacts on Daily Performances (OIDP) index indice was tested using chi-squared test (p<0,05). In addition,
univariate multivariate logistics was also used for modelling predictors of OIDP indice.
* Đại Học Sài Gòn ** Khoa RHM, Đại Học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: PGS. Ngô Thị Quỳnh Lan ĐT: 0903125864
Email:

24

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Nghiên cứu Y học

Results: Oral health status among students of the University of Saigon was moderate level based on the
classification of WHO (71.9%). Bleeding and calculus are popular problems among students. Findings also
showed that clinical factors (satisfaction with dental appearance and odonto-oral health status) were predictors
about impacts on 8 daily living activities of students including chewing, social communication, oral hygiene,
mood, smiling, speaking (pronunciation), studying or working and relaxing.

Conclusion: Because loss of teeth and periodontal problems are two significant predictors associated with
quality of life among students, intervention programs should be oriented to prevention and dental conservation.
Key words: Oral health, quality of life, students of the University of Saigon
giữa tình trạng sức khỏe răng miệng và cảm
MỞ ĐẦU
nhận đối với chất lượng cuộc sống của sinh viên
Mặc dù những vấn đề về sức khoẻ răng
Đại học Sài Gòn năm 2011.

miệng (SKRM) của người dân trên toàn cầu
đã có nhiều cải thiện trong vài thập kỷ qua,
nhưng bệnh răng miệng vẫn còn phổ biến ở
nhiều cộng đồng trên thế giới - đặc biệt trong
dân số có thu nhập thấp ở các nước phát
triển và đang phát triển. Các vấn đề SKRM
không được xem là nghiêm trọng so với các
bệnh khác nhưng rất liên quan đến tâm lý, kinh
tế, xã hội, và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống (CLCS) của bệnh nhân. Các bệnh răng
miệng có thể gây đau đớn, khó chịu, ăn uống
khó khăn, ăn mất ngon, ảnh hưởng tới sức khỏe
chung, làm giảm khả năng học tập, năng suất lao
động, giảm tự tin khi giao tiếp và CLCS cũng bị
suy giảm. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện nay về
SKRM liên quan đến CLCS cho mỗi lứa tuổi rất
hạn chế, hầu như chưa có số liệu đầy đủ về tình
trạng SKRM của lứa tuổi thanh niên, đặc biệt là

nhóm đối tượng sinh viên các trường cao
đẳng, đại học tại Việt Nam.Kết quả khám

SKRM cho sinh viên năm thứ nhất năm học
2009-2010 cho thấy 25% sinh viên có sức nhai
thấp hơn 90%(8), còn những yếu tố quan trọng
khác của SKRM chưa được đánh giá. Trong khi
đó, những vấn đề về răng miệng có thể ảnh
hưởng đến sức khỏe chung cũng như khả năng
học tập, làm việc hàng ngày và CLCS của sinh
viên. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là: (1)
Xác định tỉ lệ hiện mắc và số trung bình Sâu Mất
Trám về tình trạng bệnh sâu răng, (2) Xác định tỉ
lệ hiện mắc và số trung bình sextant có vấn đề về
nha chu theo CPI và (3) Xác định mối liên quan

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Nghiên cứu được tiến hành trên toàn bộ
sinh viên năm thứ nhất năm học 2010-2011
trường Đại học Sài Gòn (N=3.575), tuổi từ 17
đến 26 tuổi. Các sinh viên tham gia nghiên
cứu đều ký tên vào phiếu chấp thuận tham gia
nghiên cứu. Để đánh giá tình trạng bệnh sâu
răng: Xác định tỉ lệ hiện mắc và số trung bình
Sâu Mất Trám. Để đánh giá vấn đề về nha chu:
Xác định tỉ lệ hiện mắc và số trung bình
sextant theo CPI. Chỉ số đo lường tác động
răng miệng lên các sinh hoạt hàng ngày (chỉ số
OIDP) được sử dụng là một trong những chỉ
số mới về đo lường SKRM xã hội. Chỉ số OIDP
là chỉ số đo lường SKRM liên quan CLCS

được sử dụng phổ biến để đánh giá tác động
của bệnh răng miệng đến sinh hoạt hàng ngày
và trong sử dụng đánh giá kết quả kế hoạch
điều trị trong cộng đồng. Bản câu hỏi phỏng
vấn tự điền về tác động răng miệng lên các
sinh hoạt hàng ngày được chuyển ngữ từ bản
gốc tiếng Anh với tham vấn ý kiến nhà chuyên
môn và chỉnh sửa. Bản câu hỏi được điều tra
thăm dò trên mẫu thuận tiện, gồm 20 sinh
viên đang học tại trường Đại học Sài Gòn, sau
đó sửa đổi bảng câu hỏi cho dễ hiểu hơn. Bảng
câu hỏi gồm 8 hoạt động (ăn, nhai, nói, vệ sinh
răng miệng, nghỉ ngơi, sự thoải mái về tinh
thần, cười thoải mái, làm việc và tiếp xúc với
mọi người) để đánh giá tác động của SKRM
trong sinh hoạt hàng ngày trong 6 tháng vừa
qua tính đến thời điểm phỏng vấn. Nếu người

25


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

tham gia có bị tác động đến sinh hoạt hàng
ngày thì được tính điểm: (A) Tần suất tác
động của mỗi hoạt động được đánh giá từ 0
đến 3 điểm: (0) không bao giờ, (1) tác động 1
hoặc 2 lần/ tháng, (2) nếu tác động 1-2 lần/

tuần, (3) 3-4 lần / tuần. (B) Mức độ trầm trọng
của tác động được đánh giá từ 0 đến 3 điểm:
(0) không trầm trọng, (1) ít trầm trọng, (2)
trầm trọng, (3) rất trầm trọng và cuối cùng,
người tham gia được hỏi tình trạng răng
miệng nào gây tác động ở từng hoạt động
như: đau răng, mất răng, hôi miệng hoặc hơi
thở hôi, chảy máu nướu, sưng nướu và vấn đề
khác. Điểm tác động cho từng hoạt động được
tính bằng cách nhân điểm tần số tác động (0-3)
với điểm mức độ trầm trọng (0-3). Phạm vi tác
động là số hoạt động hàng ngày bị tác động
của từng đối tượng (0-8). Điểm OIDP là tổng
điểm tác động của 8 hoạt động, chia cho 72 và
nhân với 100(15).
Phân tích hồi qui logistic đơn biến và đa
biến được sử dụng để khảo sát mối quan hệ
giữa các biến độc lập (giới tính, nơi cư ngụ, chỉ
số sâu mất trám, CPI, mất răng, sâu răng, cảm
nhận về SKRM và sự hài lòng về vẻ bề ngoài
hàm răng của sinh viên) và biến phụ thuộc
(OIDP). Mức độ kết hợp tỉ số chênh (OR) được
báo cáo cùng với 95% khoảng tin cậy (KTC),
những biến có kết quả p<0,05 được xem là kết
hợp có ý nghĩa thống kê.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Có 3.575 sinh viên tham gia nghiên cứu được
khám răng miệng và tự điền vào bản câu hỏi
OIDP, tuổi từ 17 đến 26 tuổi, tuổi trung bình 18,3

(± 0,8) và 74,5% là nữ. Dân tộc Kinh chiếm
97,63%; sinh viên có nơi cư trú ở các tỉnh thành
trước khi nhập học chiếm 66,49%.

Tình trạng SKRM
Tỉ lệ toàn bộ bệnh sâu răng của mẫu nghiên
cứu là 71,9% (95% KTC 70,47%- 73,42%). Kết quả
này thấp hơn so với điều tra SKRM toàn quốc
của Bộ Y tế năm 2002 ở nhóm dân số 18- 34 tuổi
(75,2 %)(28) và cao hơn kết quả nghiên cứu trên

26

sinh viên Đại học Y Thái Bình năm 2008
(70,4%)(16). Theo phân loại của WHO, tình trạng
bệnh sâu răng của nhóm nghiên cứu ở mức độ
trung bình. Trung bình SMT-R của mẫu nghiên
cứu là 2,90; thấp hơn kết quả điều tra SKRM toàn
quốc của Bộ y tế năm 2002 ở dân số 18- 34 tuổi
(3,29)(28) nhưng lại cao nghiên cứu sinh viên Đại
học Y Thái Bình (2,28)(16). Sự khác biệt có thể do
hiệu quả của chương trình thêm Fluoride vào
nước máy(12), chương trình nha học đường, các
phương tiện truyền thông đại chúng về SKRM
phát triển, nhiều cải thiện về tình trạng dinh
dưỡng và vệ sinh răng miệng. Giáo dục nha
khoa có thể đóng vai trò lớn việc thay đổi thái độ
SKRM của lứa tuổi sinh viên(1). Khi so sánh kết
quả này với các nước cho thấy chỉ số này cũng
tương tự như kết quả nghiên cứu trên đối tượng

18 tuổi ở các nước đang phát triển như Indonesia
(2,7), Niger (2,5) và thấp hơn các nước phát triển
như Cộng hòa Séc (6,2), Belarus (6,8), Áo (5,5) và
Na-Uy (6,9), ngoại trừ Singapore (2,7)(29). Sở dĩ có
sự khác biệt này có thể là do khác biệt về tình
trạng kinh tế xã hội và các chương trình quốc gia
về chăm sóc SKRM.
Tỉ lệ sinh viên có mô nha chu lành mạnh là
8,81%, với chảy máu nướu là 11,36% và vôi răng
là 83,66% (bảng 1). Kết quả này cũng có tương
đồng với kết quả phân tích mê-ta của tác giả
Nguyễn Cẩn và Ngô Đồng Khanh ghi nhận
(2007) là 78-96%(20). Tuy nhiên, kết quả này khá
cao so với nghiên cứu của tác giả Sharda năm
2009 ở sinh viên Ấn Độ lần lượt là 36,8%, 19,4%
và 43,8%(23) ở Iran 15–19 tuổi lần lượt là 14,5%,
33,7% và 48,7%(22), ở Jordan ở lứa tuổi 20-29 tuổi
có vôi răng là (58,9%)(14). Số trung bình sextants
lành mạnh ở nhóm nghiên cứu là 1,2 (± 1,9). Kết
quả này cho thấy số sextants lành mạnh rất thấp
so với các nghiên cứu tại các nước trên cùng đối
tượng là sinh viên Ấn Độ (3,81± 2,21)(23), thanh
thiếu niên Iran là 2,622). Điều này không những
nói lên mức độ bệnh trầm trọng của mô nha chu
của nhóm nghiên cứu mà còn cho thấy hạn chế
trong thực hành vệ sinh răng miệng của mẫu
nghiên cứu. Mặc dù kiến thức không là yếu tố

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
liên hệ chặt chẽ đến hành vi này, nhưng việc
giáo dục để hình thành thái độ và hành vi phù
hợp đối với chăm sóc răng miệng cần được quan
tâm hơn(23).
Bảng 1: Phân bố tần số và tỉ lệ người lành mạnh và
có bệnh nha chu theo nhóm tuổi, giới và nơi cư trú.
Tần số và tỉ lệ (%) người có mã số
0 (Lành
1 (Chảy
3 (Túi
2 (Vôi răng)
mạnh) máu nướu)
nông)
n(%)
n (%)
n (%)
n (%)
Toàn bộ 315 (8,81) 406 (11,36) 2.991 (83,66) 2 (0,06)
Tuổi
17 – 18 250 (8,99) 319 (11,47) 2.314 (83,24) 2 (0,07)
18 – 26
65 (8,18) 87 (10,94) 677 (85,16) 0 (0,00)
Giới
Nam
66 (7,25) 117 (12,86) 767 (84,29) 1 (0,11)
Nữ
249 (9,35) 288 (10,82) 2.222 (83,47) 1 (0,04)
Nơi cư trú

TP. HCM 117(9,77) 162 (13,52) 968 (80,80) 0 (0,00)
Tỉnh thành
198 (8,33) 244 (10,27)* 2023 (85,11)** 2 (0,08)
khác

* Test chi bình phương χ2= 8,3962; p=0,004 ** χ2= 10,8061;
p=0,001

Mối liên quan tình trạng sức khỏe răng
miệng đến chất lượng cuộc sống
Trong nghiên cứu này, tần suất tác động của
tình trạng SKRM lên 8 hoạt động hàng ngày thật
“khiêm tốn”, chỉ có 25,93% sinh viên báo cáo có
một hoặc nhiều tác động trong 6 tháng trước. So
với các dữ liệu từ các các nghiên cứu trước đây ở
Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Khanh ở

Nghiên cứu Y học

học sinh 11 tuổi (62,1%)(21), tác giả Điền Hòa Anh
Vũ ở thanh niên cai nghiện ma túy 63%(13) và trên
thế giới ở lứa tuổi thanh niên như Uganda
(62%)(5), Albania (60,9%)(27), Tanzania 51%(21),
người lớn tuổi ở Hy Lạp (39,1)(25), Thái Lan
(52,8%)(24) thì tần suất tác động của SKRM ảnh
hưởng đến sinh hoạt hàng ngày ít hơn đáng kể,
nhưng lại cao hơn so với Na-uy (17,5%)(6), người
lớn tuổi ở Anh (12,3%)(25). Sự khác nhau có thể do
cách chọn mẫu, nhận thức về SKRM của đối
tượng nghiên cứu và tùy thuộc vào sự khác biệt

kinh tế - xã hội, văn hóa và yếu tố tâm lý giữa các
nước(4). Việc ăn nhai bị tác động nhiều nhất
(37,06%), tiếp theo là việc giao tiếp với mọi người
(16,25%) và việc vệ sinh răng miệng (16,11%).
Vấn đề ăn nhai là bị ảnh hưởng nhiều nhất,
tương tự như những nghiên cứu trước đây của
tác giả Nguyễn Thị Ngọc Khanh(21), tác giả Điền
Hòa Anh Vũ(13), cũng tương tự các nghiên cứu
trên thế giới ở các lứa tuổi khác nhau như
Albania(27), Na-Uy(7), Tanzania(18), Uganda(5), Hy
lạp, Anh(25), Thái Lan(15), Pháp(26). Giao tiếp với
mọi người cũng là khía cạnh quan trọng đối với
sinh viên, ảnh hưởng đến16,25% sinh viên. Điều
này hợp lý vì với sự phát triển của xã hội đòi hỏi
người sinh viên phải năng động, tham gia nhiều
hoạt động nên việc tiếp xúc mọi người rất quan
trọng (bảng 2).

Bảng 2: Phân bố tỉ lệ %, mức độ và phạm vi tác động của ảnh hưởng của răng miệng trên từng sinh hoạt hàng
ngày của mẫu nghiên cứu (N=3575).

Tỉ lệ % bị tác ñộng
Phạm vi ñiểm
Trung bình (ðLC)
Rất nhẹ
Nhẹ
Trung bình
Nặng
Rất nặng
Số hoạt ñộng bị tác ñộng

%

Các hoạt ñộng hàng ngày bị tác ñộng
Tinh
Giao
Toàn bộ Ăn nhai Nói chuyện VSRM Nghỉ ngơi Cười
Học tập
thần
tiếp
25,93
26,71
11,13
16,11
10,66
12,50 14,60
10,97
16,25
ðiểm OIDP
(0-62)
(0-9)
(0-9)
(0-9)
(0-9)
(0-9)
(0-9)
(0-9)
(0-9)
1,5 (4,3) 0,2 (0,6) 0,0 (0,4) 0,1 (0,5) 0,2 (0,7) 0.1 (0,4) 0,1 (0,5) 0,1 (0,5) 0,2 (0,7)
Mức ñộ (%) bị tác ñộng
32,74

13,40
4,00
6,08
5,26
5,43
7,47
6,07
7,52
16,09
2,24
1,03
1,26
0,90
1,71
1,15
0,87
1,85
12,07
0,56
0,11
0,45
0,22
0,67
0,45
0,31
0,73
21,01
0,25
0,14
0,31

0,06
0,34
0,11
0,08
0,45
17,10
0,06
0,06
0,03
0,03
0,17
0,03
0,06
0,11
Phạm vi tác ñộng
0
1
2
3
4
5
6
7
8
62,02
12,36
7,36
5,01
3,80
2,63

1,96
1,76
3,05

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

27


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

Xem xét về mức độ tác động SKRM lên sinh
hoạt hàng ngày, trong nghiên cứu này, mức độ
từ nặng đến rất nặng chiếm 39,11 % sinh viên,
một giá trị khá cao so với báo cáo trên trẻ em
Thái lan (21,3%)(15), Pe-ru (25%)(9). Sự khác biệt
này có thể do khác nhau ở mẫu nghiên cứu, về
tuổi, văn hóa và điều kiện xã hội. Tuy nhiên cần
có thêm nhiều nghiên cứu về đối tượng sinh
viên tại Việt Nam để khẳng định về vấn đề này.
Mặc dù, việc ăn nhai chiếm tỉ lệ tần suất tác động
cao nhưng mức độ trầm trọng lại thấp. Vì thế,
điều thú vị được ghi nhận là các sinh hoạt như
cười, giao tiếp xã hội ít bị tác động thường
xuyên, nhưng mức độ tác động trầm trọng lại
cao hơn các sinh hoạt khác (bảng 2). Điều này
làm nổi bật tầm quan trọng của khía cạnh về xã
hội và tâm lý trong cuộc sống của sinh viên và

chỉ ra rằng mức độ tác động của SKRM trên cả
hai khía cạnh nói trên nhiều hơn khía cạnh về
thể chất.
Xem xét về phạm vi tác động, có nghĩa là
khảo sát số sinh hoạt trong ngày bị tác động do
SKRM trên một sinh viên. Có 19,69% sinh viên
báo cáo có 1 hoặc 2 sinh hoạt bị tác động và
18,26% có từ 3 sinh hoạt trở lên. So với nghiên
cứu trước đây của tác giả Điền Hòa Anh Vũ(13),
lần lượt là 29,4% và 24,3%, trên người lớn tuổi ở
Trung Quốc, lần lượt là 49,4%và 10,6% tác động
ít hơn đáng kể. Sự khác biệt này là do mẫu
nghiên cứu khác nhau về tuổi và tình trạng kinh
tế và xã hội. Như vậy, những kết quả này cung
cấp thêm bằng chứng đánh giá mức độ và phạm
vi tác động của SKRM cho hình ảnh rõ ràng hơn
cách tác động, một khía cạnh thực tế hơn để
đánh giá SKRM liên quan đến CLCS ở lứa tuổi
thanh niên. Từ đó, xem xét ưu tiên các hoạt động
chăm sóc SKRM cho nhóm tuổi này.
Điểm số tác động OIDP cho chúng ta thấy
rõ ảnh hưởng của các vấn đề răng miệng lên
sinh hoạt hàng ngày của sinh viên Đại học Sài
Gòn. Theo kết quả bảng 3.14, điểm số thay đổi
từ 0 đến 65, điểm trung bình (1,5± 4,28). Kết
quả nghiên cứu này khả quan hơn so với kết
quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Ngọc

28


Khanh trên học sinh 11 tuổi (3,0±0,31)(21), tác
giả Điền Hòa Anh Vũ trên thanh niên cai
nghiện ma túy (5,38 ±9,1)(13) và tác giả
Gherunpong trên người lớn tuổi ở Trung
Quốc (8,8±7,4). Do số y văn có sử dụng đo
lường chỉ số OIDP còn hạn chế, nên sự so sánh
các tài liệu trên ở những đối tượng khác nhau
(trẻ em, thanh niên cai nghiện ma túy, người
lớn tuổi) có sự khác biệt với kết quả nghiên
cứu là không tránh khỏi. Sự khác biệt này có
thể do sự khác biệt các đặc tính tâm lý trong
các dân số khác nhau(2). Tuy nhiên, do kết quả
phân phối điểm OIDP lệch phải (biểu đồ 1)
nên giá trị trung vị đánh giá đúng hơn so với
đánh giá bằng giá trị trung bình. Nếu sử dụng
giá trị trung bình thì kết quả cho thấy dân số
nghiên cứu có điểm tác động trung bình là 1,5.
Đánh giá theo giá trị trung vị thì ít nhất 50%
dân số nghiên cứu không bị tác động lên sinh
hoạt hàng ngày hay ít nhất 25% sinh viên có
điểm OIDP>0. Đây là ưu điểm của các đánh
giá của chỉ số OIDP, cho kết quả phân biệt rõ
ràng giữa nhóm tương đối khỏe mạnh và tình
trạng SKRM kém, cũng như giữa những người
cảm nhận khác nhau về tác động răng miệng.
OIDP hữu ích trong sử dụng đánh giá kết quả
kế hoạch điều trị trong cộng đồng(2).
Ngoài tỉ lệ tác động của tình trạng SKRM lên
sinh hoạt hàng ngày, nghiên cứu này còn đề cập
đến nguyên nhân tác động theo cảm nhận của

bệnh nhân, một khía cạnh không kém phần
quan trọng. Trong khía cạnh này, nguyên nhân
đau răng là nguyên nhân phổ biến nhất tác động
lên 6 trong 8 sinh hoạt hàng ngày được đánh giá
trong chỉ số OIDP. Đau răng cũng là nguyên
nhân phổ biến trong nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Khanh(21), tác giả Điền Hòa
Anh Vũ(13), tác giả Phạm Thị Mỹ Hạnh(16) và các
nghiên cứu trên thế giới(3,11,15). Hôi miệng và chảy
máu nướu cũng là nguyên nhân phổ biến nhất
gây khó khăn trong việc giao tiếp và cười tự tin
của sinh viên. Các nguyên nhân này hầu như
đều là hậu quả của bệnh sâu răng, bệnh nha chu
và tình trạng vệ sinh răng miệng kém, phù hợp

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
với kết quả khám lâm sàng tình trạng sâu răng
(65,6%) và nha chu (91,2%) của sinh viên. Kết
quả này gần tương đồng với nghiên cứu trẻ em ở
Thái Lan, đau răng tác động đến ngủ và học

Nghiên cứu Y học

tập(15). Răng nhạy cảm, chảy máu nướu, hơi thở
hôi được báo cáo là nguyên nhân phổ biến và
răng lệch lạc tác động đến sự tự tin khi cười,
giống như trẻ em ở Peru(9), Brazin(10).


Biểu đồ 1 Phân bố điểm OIDP của mẫu nghiên cứu.
So sánh kết quả giữa phân tích đơn biến và
đa biến cho thấy, nếu dùng kết quả từ phân tích
đơn biến sẽ tìm thấy 8 yếu tố (nơi cư trú, sâu
răng, trám răng, mất răng, SMTR, CPI, cảm nhận
về SKRM và sự hài lòng vẻ bề ngoài hàm răng)
có ý nghĩa thống kê nhưng chỉ có 4 yếu tố (mất

răng, CPI, cảm nhận về SKRM và sự hài lòng vẻ
bề ngoài hàm răng) còn ý nghĩa trong mô hình
đa biến. Điều này cho thấy nếu chỉ phân tích đơn
biến thì có thể kết luận sai về sự kết hợp và giá
trị tiên đoán của các biến số với sự tác động sinh
hoạt hàng ngày của sinh viên.

Bảng 3 Tỉ số chênh (OR) thô và hiệu chỉnh giữa giới tính, nơi cư trú, chỉ số lâm sàng, tự cảm nhận SKRM và
OIDP sử dụng mô hình phân tích đơn biến và đa biến (N= 3575)

Giới
Cư trú
Sâu răng
Trám răng
Mất răng
SMT-R
CPI
Cảm nhận
SKRM
Hài lòng vẻ bề
ngoài hàm răng


Nam
Nữ
Tỉnh thành
TP.HCM
Không sâu răng
Có sâu răng
Không răng trám
Có răng trám
Không mất răng
Có mất răng
SMTR=0
SMTR>0
CPI=0
CPI>0
Tốt
Kém
Hài lòng
Không hài lòng

OR thô
OR (95%ðTC)
1,00
1,08 (0,91-1,28)
1,00
0,75 (0,64-0,88)**
1,00
0,44 (0,37-0,53)**
1,00
1.38 (1,15- 1,65)***

1,00
1,83 (1,49-2,26)**
1,00
2,27 (1,89-2,72)**
1,00
1,73 (1,30-2,31)**
1,00
12,16 (8,85-16,70)**
1,00
4,80 (3,81-6,05)**

OR hiệu chỉnh (a)
OR (95%ðTC)
1,00
1,01 (0,85-1,20)
1,00
0,83 (0,70-0,97)**
1,00
0,80 (0,37-1,70)
1,00
1,10 (0,91-1,33)
1,00
1,48 (1,20-1,83)**
1,00
1,60 (0,76-3,36)
1,00
1,63 (1,21-2,20)**
-----

hiệu chỉnh (b)

OR (95%ðTC)
1,00
0,95 (0,79-1,14)
1,00
0,87 (0,73-1,03)
1,00
0,91 (0,41-1,99)
1,00
1,09 (0,89-1,34)
1,00
1,34 (1,07-1,70)*
1,00
1,55 (0,714-3,38)
1,00
1,58 (1,16-2,15)*
1,00
7,30 (5,23-10,20)**
1,00
2,93 (2,26-3,80)**

(a) OR hiệu chỉnh cho các biến giới, cư trú, sâu răng, trám răng, mất răng, SMT-R và CPI (mô hình đa biến 1)

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

29


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013


(b) OR hiệu chỉnh cho các biến giới, cư trú, sâu răng, trám răng, mất răng, SMT-R, CPI, cảm nhận về SKRM và hài
lòng vẻ bề ngoài hàm răng (mô hình đa biến 2) *p<0,05; ** p<0,001; ***p = 0,001

Ngoài ra, khi so sánh mô hình đa biến (2) và
(1) (bảng 3), các biến số liên quan đến cảm nhận
về sức khỏe răng miệng và vẻ bề ngoài của sinh
viên được thêm vào mô hình, kết quả mô hình
(2) cho thấy cả 2 biến cảm nhận mới đưa vào mô
hình đều có mức kết hợp chặt chẽ với OIDP, biến
cảm nhận sức khỏe răng miệng có độ lớn kết
hợp cao nhất với OR=7,30 (95%KTC 5,24-10,20)
và hài lòng vẻ bề ngoài hàm răng với OR=2,93
(95%KTC 2,26-3,80), cao hơn cả các biến số lâm
sàng. Cả 2 biến số cảm nhận của sinh viên đều
đóng góp quan trọng hay nói cách khác 2 biến
này có giá trị tiên đoán mạnh mẽ tác động của
vấn đề răng miệng lên sinh hoạt hàng OIDP. Kết
quả này hoàn toàn phù hợp với kết luận từ
nghiên cứu trên trẻ em và thiếu niên ở
Albania(27), ở Tanzania(19), Uganda(5). Kết quả
trình bày cung cấp hỗ trợ sự khác biệt giữa cảm
nhận tình trạng SKRM, như một biện pháp lâm
sàng xác định vấn đề SKRM liên quan đến
CLCS(6).
Độ lớn sự kết hợp của CPI (OR=1,58) lớn hơn
so với yếu tố mất răng (OR=1,34) cho thấy kết
quả đánh giá chỉ số CPI khá quan trọng. Điều
này phù hợp với ghi nhận đề cập ở trên là các
sinh hoạt như cười, giao tiếp xã hội gây mức độ

tác động trầm trọng cao, mà nguyên nhân phổ
biến gây tác động là do hôi miệng và chảy máu
nướu. Hai nguyên nhân tương đồng với chỉ số
CPI cao ở mã số 1 và 2 (vôi răng và chảy máu
nướu).
Kết quả này có thể được giải thích dựa trên
khuôn khổ lý thuyết của chỉ số OIDP, bệnh răng
miệng ở mức độ khiếm khuyết và tàn tật theo
WHO được đánh giá bằng chỉ số này [8], trong
khi chỉ số SMT-R trên số răng sâu, răng mất,
răng trám. Kết quả này nhấn mạnh phân biệt
giữa khái niệm: sức khỏe và bệnh. Các chỉ số lâm
sàng, khái niệm hoàn toàn sinh học, trong khi đó
các chỉ số OIDP phản ánh khái niệm tâm lý- xã
hội. Bệnh không phải lúc nào cũng ảnh hưởng
tiêu cực cảm nhận sức khỏe và hạnh phúc của

30

bệnh nhân. Tác động của nó tùy thuộc vào bản
chất của bệnh cũng như sự mong muốn, sở
thích, nguồn lực tài chính, xã hội và tâm lý và
quan trọng nhất là yếu tố xã hội và văn hóa(17).
Chẳng hạn như bệnh sâu răng, thời gian tiềm ẩn
kéo dài trước khi có triệu chứng, bệnh nhân
không cảm thấy bị tác động, các triệu chứng khó
chịu, đau, giắt thức ăn thường ở giai đoạn sau
của bệnh. Tuy nhiên, bệnh răng miệng đưa đến
hậu quả mất răng gây suy yếu chức năng lớn
nhất trong cuộc sống. Do đó, chúng ta dễ hiểu

rằng CLCS không chịu ảnh hưởng mạnh của các
chỉ số lâm sàng (như số răng sâu, số răng trám)
mà chịu ảnh hưởng các chỉ số suy giảm chức
năng như mất răng(6).
Kết quả phân tích hồi qui đa biến cho ra mô
hình tiên đoán SKRM có ảnh hưởng đến CLCS
(chỉ số OIDP) của sinh viên như sau:

OIDP = -2,08 + (1,07 x vẻ bề ngoài) + (2,0 x
SKRM kém) + (0,45xCPI) + (0,57 x SMT) +
(0,31 x mất răng).
Xem xét về mô hình tiên đoán cho thấy cảm
nhận của sinh viên về tình trạng SKRM có liên
quan sự hài lòng vẻ bề ngoài và cảm nhận tình
trạng SKRM kém đóng vai trò quan trọng nhất
giúp tiên đoán chỉ số OIDP. Kết quả chẩn đoán
tính phù hợp của mô hình cho thấy, mô hình có
lẽ phù hợp khi sử dụng trong bối cảnh lâm sàng
hơn dùng để sàng lọc ngoài cộng đồng. Hay nói
cách khác, mô hình sẽ hữu dụng khi các nhà lâm
sàng muốn đánh giá tình trạng SKRM và cảm
nhận của bệnh nhân hiện tại có ảnh hưởng đến
sinh hoạt hằng ngày hay không để có hướng xử
trí cải thiện chỉ số OIDP thông qua cải thiện tình
trạng SKRM, tăng mức độ tự tin, giảm cảm nhận
tiêu cực về sức khỏe răng miệng. Điều này đặc
biệt có ý nghĩa khi các nhà lâm sàng hướng tới
điều trị toàn diện, tối ưu hóa hiệu quả can thiệp
và khi nhu cầu cải thiện chất lượng cuộc sống
ngày càng cao trong cộng đồng.


KẾT LUẬN
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Tình trạng bệnh sâu răng của sinh viên Đại
học Sài Gòn thể hiện qua tỉ lệ hiện mắc là 71,9%
và số trung bình Sâu Mất Trám là 2,8.
Tình trạng bệnh nha chu của sinh viên Đại
học Sài Gòn thể hiện qua tỉ lệ sinh viên có mô
nha chu lành mạnh (8,81%), các vấn đề về nha
chu như chảy máu nướu (11,36%), vôi răng
(83,66%) và số trung bình sextants lành mạnh
(1,2±1,9), chảy máu nướu (3,8 ± 2,2), vôi răng
(2,4±1,5) và túi nông (1,4±0,8). Không có sinh
viên có túi nha chu sâu.
Tình trạng SKRM tác động lên sinh hàng
ngày thể hiện qua tỉ lệ sinh viên bị tác động ít
nhất một sinh hoạt là 25,93%. Những sinh hoạt
bị tác động lần lượt là ăn nhai (37,06%), giao tiếp
xã hội (16,25%), vệ sinh răng miệng (16,11%),
tinh thần (14,60%), sự thoải mái khi cười
(12,50%), nói chuyện (11,13%), học tập (10,97%)
và nghỉ ngơi (10,66). Những sinh hoạt bị tác
động ở mức độ nặng nhất là sự thoải mái khi
cười và giao tiếp xã hội. Điểm OIDP thay đổi từ
0 đến 65, điểm trung bình 1,5(± 4,28). Các
nguyên nhân tác động theo cảm nhận của bệnh
nhân là đau răng, chảy máu nướu và hôi miệng

là phổ biến nhất.
Xác định được các yếu tố mất răng và chỉ số
CPI có mối liên quan có ý nghĩa với cảm nhận
của bệnh nhân đối với CLCS, lần lượt là 1,34 và
1,58 lần.
Bên cạnh các yếu tố lâm sàng (mất răng và
CPI), cảm nhận của bệnh nhân về sức khỏe răng
miệng và sự hài lòng vẻ bề ngoài hàm răng là
những yếu tố tiên lượng mạnh mẽ nhất về vấn
đề sức khỏe răng miệng đối với các ảnh hưởng
sinh hoạt hàng ngày, lần lượt là 7,30 và 2,93 lần.

KIẾN NGHỊ
Chương trình chăm sóc SKRM hiện tại chỉ
tập trung đối tượng học sinh mầm non và tiểu
học, giảm dần ở trung học cơ sở và hoàn toàn
không có ở đối tượng trung học phổ thông, do
đó nên chăng tiếp tục triển khai chương trình
chăm sóc SKRM tại các cấp lớp này bằng hình
thức giáo dục sức khỏe, đặc biệt quan tâm đến

Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Nghiên cứu Y học

vùng sâu vùng xa ngoài TP.Hồ Chí Minh.
Dựa vào 2 sinh hoạt có ý nghĩa tác động
nghiêm trọng nhất là giao tiếp, cười thoải mái
nên đây có thể được sử dụng như là điểm can
thiệp thu hút sự quan tâm của sinh viên đối với

các chương trình can thiệp.
Do yếu tố mất răng và nha chu là 2 yếu tố có
ý nghĩa kết hợp đến CLCS của sinh viên nên các
chương trình can thiệp nên hướng đến dự
phòng và điều trị bảo tồn răng.
Cần có một nghiên cứu trên diện rộng hơn
để đại diện cho sinh viên khu vực và cả nước
trong tương lai. Bên cạnh đó, do tỉ lệ thanh niên
được học đại học thấp nên cũng cần triển khai
các chương trình giám sát SKRM tại cộng đồng
cho các lứa tuổi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.
5.

6.

7.

8.

9.


10.

11.
12.

Acharya S, Sangam DK (2008). Oral health-related quality of
life and its relationship with health locus of control among
Indian dental university students. Eur J Dent Educ, 12: 208212.
Adulyanon A, Sheiham A (1997). Oral impacts on daily
performances. In Measuring Oral Health and Quality of Life,
I.S. GD, Editor. 1997, Chapel Hill: University of North
Carolina, Dental Ecology. p. 152–160.
Adulyanon S, Vourapukjaru J, et al. (1996). Oral impacts
affecting daily performance in a low dental disease Thai
population. Community Dent Oral Epidemiol, 24(6): 385-389.
Allison PJ, Locker D, et al. (1999). A Cross-cultural Study of
Oral Health Values. J Dent Res, 78:643-649.
Astrom A, I O (2003). Validity and reliability of the Oral
Impacts on Daily Performance (OIDP) frequency scale: a
cross-sectional study of adolescents in Uganda. BMC Oral
Health, 3 :1- 5.
Astrøm AN, Haugejorden O, et al. (2005). Oral Impacts on
Daily Performance in Norwegian adults: validity, reliability
and prevalence estimates. Eur J Oral Sci, 113 :289-296.
Astrøm AN, Haugejorden O, et al. (2006). Oral Impacts on
Daily Performance in Norwegian adults: the influence of age,
number of missing teeth, and socio-demographic factors. Eur J
Oral Sci, 114 :115-121.
Ban bảo vệ sức khỏe cán bộ Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh
(2009). Kết quả khám sức khỏe sinh viên trường đại học Sài

Gòn năm 2009.
Bernabe´ E, Tsakos G, et al. (2007). Intensity and extent of Oral
Impacts on Daily Performances by type of selfperceived oral
problems. Eur J Oral Sci, 115 :111-116.
De Oliveira CM and Sheiham A (2004). Orthodontic treatment
and its impact on oral health-related quality of life in Brazilian
adolescents. J Orthod, 31 :20-27.
Dorri M., Sheiham A., et al. (2007). Validation of a Persian
version of the OIDP index. Rev Salud Publica (Bogota), 7 :2.
Đào Thị Hồng Quân, Hoàng Tử Hùng et al. (2007). Tình trạng

31


Nghiên cứu Y học

13.

14.

15.

16.

17.
18.

19.

20.


32

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013

sâu răng của trẻ 12 và 15 tuổi sau 12 năm Fluor hóa nước tại
thành phố Hồ Chí Minh. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 11(2) :151156.
Điền Hòa Anh Vũ (2008). Ảnh hưởng của răng miệng lên các
sinh hoạt hàng ngày của ngưới cai nghiện ma túy tại trung
tâm giáo dục – dạy nghề Nhị Xuân, TPHCM. Đại học Y Dược
TP. HCM.
El-Qaderi SS and Ta’ani DQ (2004). Assessment of periodontal
knowledge and periodontal status of an adult population in
Jordan. Int J Dent Hygiene, 2 :132-136.
Gherunpong S., Tsakos G., et al. (2004). The prevalence and
severity of oral impacts on daily performances in Thai
primary school children. Health Qual Life Outcomes, 12(2) :
57.
Hanh P.T.M. and Chapman R S (2008). Dental caries and
related factors in the first- and second- year medical student in
Thai Binh medical university, VietNam. J Health Res,
22(1) :73-77.
Locker D (1992). The burden of oral disorders in a population
of older adults. Community Dent Health, 9 :109-124.
Masalu JR and Astrom AN (2003). Applicability of an
abbreviated version of the oral impacts on daily performances
(OIDP) scale for use among Tanzanian students. Community
Dent Oral Epidemiol, 31(1) :7-14.
Mtaya M, Astrom AN, et al. (2007). Applicability of an
abbreviated version of the Child-OIDP inventory among

primary schoolchildren in Tanzania. Health Qual Life
Outcomes, 5 :40.
Nguyễn Cẩn, Ngô Đồng Khanh (2007). Phân tích dịch tễ bệnh
sâu răng và nha chu ở Việt Nam. Y học Thành phố Hồ Chí

21.

22.

23.

24.

25.

26.

27.

28.
29.

Minh, 11(3) :144-149.
Nguyễn Thị Ngọc Khánh (2005). Ảnh hưởng của tình trạng
răng miệng lên sinh hoạt hàng ngày của học sinh lớp 5 tại hai
trường tiểu học quận 5. Đại học Y Dược TP. HCM.
Sanei AS and Nikbakht-Nasrabadi A (2005). Periodontal
health status and treatment needs in Iranian adolescent
population. Arch Iranian Med, 8(4) :290-294.
Sharda A. J and Shetty S (2009). Relationship of Periodontal

Status and Dental Caries Status with Oral Health Knowledge,
Attitude and Behavior among Professional Students in India.
Int J Oral Sci, 1(4) :196-206.
Srisilapanan P.S., A. (2001). The prevalence of dental impacts
on daily performances in older people in Northern Thailand.
Gerodontology, 18 :102-108.
Tsakos G., Marcenes W., et al. (2001). Cross-cultural
differences in oral impacts on daily performance between
Greek and British older adults. Community Dent Health Qual
Life Outcomes, 18 :209-213.
Tubert-Jeannin S., Pegon-Machat E., et al. (2005). Validation of
a French version of the Child-OIDP index. Eur J Oral Sci,
113(5) :355-362.
Thelen D.S., Bardsen A., et al. (2011). Applicability of an
Albanian version of the OIDP in an adolescent population.
International Journal of Paediatric Dentistry, 21:289-298.
Trần Văn Trường, Trịnh Đình Hải (2002). Điều tra sức khỏe
răng miệng quốc gia 1999-2001, Bộ Y Tế, Hà Nội, 2002.
WHO, Oral Health Country/Area Profile Programme (2007)
[online
database]
( />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt



×