Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng phương pháp ít xâm lấn: Miếng nâng đỡ dưới niệu đạo TVT và TOT kết quả ban đầu tại bệnh viện FV TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT KHI GẮNG SỨC Ở PHỤ NỮ
BẰNG PHƯƠNG PHÁP ÍT XÂM LẤN: MIẾNG NÂNG ĐỠ
DƯỚI NIỆU ĐẠO TVT VÀ TOT KẾT QUẢ BAN ĐẦU
TẠI BỆNH VIỆN FV TP HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Tiến*, Nguyễn Tuấn Vinh*

TÓM TẮT
Mục đích: Kể từ 1994, vai trò của việc nâng đỡ niệu đạo trong tiểu không kiểm soát đã được nghiên
cứu rất nhiều với kỹ thuật mới để điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức: kỹ thuật TVT "Tension free
Vaginal Tape" và kỹ thuật TOT "Transobsturator Tape". Kỹ thuật TVT đã được thực hiện tại Pháp từ năm
1996. Chúng tôi đã đánh giá kết quả 38 bệnh nhân được điều trị tiểu không kiểm soát từ 2004 tại bệnh viện
FV TP Hồ Chí Minh.
Kỹ thuật và phương pháp: Tất cả 38 bệnh nhân đã được làm test gắng sức sau khi làm đầy bàng
quang bằng 250 ml dung dịch nước muối sinh lý. Tất cả các bệnh nhân đều được làm xét nghiệm niệu động
lực học trước khi phẫu thuật. Có 3 bệnh nhân có bàng quang bất ổn định kèm hiện tượng tiểu không kiểm
soát. Áp lực trung bình của cơ vòng niệu đạo là: 52 cm H2O. Tất cả bệnh nhân đều được phẫu thuật dưới
gây tê tủy sống. Thời gian theo dõi sau mổ trung bình là 12 tháng. Bệnh suất trong và sau khi mổ, sự hài
lòng sau phẫu thuật của bệnh nhân, kết quả khách quan qua test gắng sức và những biến chứng gần đều
được đánh giá.
Kết quả: 36 bệnh nhân (94,6%) hoàn toàn chấm dứt tiểu không kiểm soát khi gắng sức, âm đạo hoàn
toàn khô sạch. Có 2 bệnh nhân (5,4%) có kết quả cải thiện. Có 3 trường hợp thủng bàng quang trong lúc mổ
loại phẫu thuật TVT. Có 1 bệnh nhân tiểu khó vào ngày thứ 2. Có 37 bệnh nhân (98%) có tồn lưu nước tiểu
ban đầu thấp hơn 30 ml. Trong thời gian theo dõi, không có phản ứng loại bỏ miếng nâng đỡ cũng như
không có trường hợp bị bào mòn âm đạo.
Kết luận: Sau 1 năm nghiên cứu và 3 năm kinh nghiệm, chúng tôi đã thấy được sự khả thi của việc
điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ bằng kỹ thuật TVT và TOT do những kết quả rất khả
quan của kỹ thuật này, thực hiện đơn giản với bệnh suất thấp.



ABSTRACT
TREATMENT F URINARY STRESS INCONTINENCE IN WOMEN BY TVT AND TOT TECHNIC:
PRELIMINARY RESULT IN FV HOSPITAL
Nguyen Ngoc Tien, Nguyen Tuan Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 335 - 341
Goals: Since 1994, the role of the support of the urethra in the continence was put forward, outcome
with a new technique of treatment of the stress urinary incontinence (SUI) " Tension free Vaginal
Tape"(TVT) and "Transobsturator Tape" (TOT). This technique TVT is carried out in France since 1996
and we analyze the results in 38 consecutive patients treated for dominant SUI since 2004 at FV hospital.
Material and Method: The 38 patients had clinical escapes with the effort after filling of the bladder
with 250 ml of physiological solution (stress-test). All the patients had an assessment urodynamic. 3 patients
presented, in addition to the SUI. The average of the pressure of maximum urethral fence was 52 cm H2O.
* Khoa Niệu - Bệnh viện FV TP HCM

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

All the patients were operated under rachi anaesthesia. The average follow-up was 12 months. Morbidity per
and peri operation, the objective result by stress-test, the subjective result by questionnaire of satisfaction
and the short-term complications were analyzed.
Results: 36 patients (94.6%) were completely dry, 2 (5.4%) improved.There were 3 vesical perforations
on the TVT procedure.There were 1 retentions on D2. In 37 patients (98%) the first residue post-mictionnel
was lower than 30 ml. In the long run there were no rejection of the prosthesis and no vaginal erosions.

Conclusion: With one year of survey and experiment of 3 years, we show the interest of technique TVT
and TOT in the treatment of the SUI of the woman because of the good results of reproducibility, simplicity
and the low morbidity.
giảm đi hiện tương tiểu không kiểm soát khi
MỞ ĐẦU
gắng sức. Nhiều tác giả sau đó đã phát triển
Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức
phẫu thuật chống tiểu không kiểm soát bằng
được định nghĩa là một hiện tượng thoát nước
cách cố định gián tiếp cổ bọng đái và mô xung
tiểu ra ngoài niệu đạo không theo ý muốn cũng
quanh niệu đạo thông qua âm đạo (treo cổ bàng
như không do sự co thắt của cơ détrusor. Hiện
quang qua xương theo BURCH, treo cổ bàng
tượng này diễn ra nặng dần đến một lúc nào đó
quang đơn giản theo PEREIRA và RAZ…).
người phụ nữ cảm thấy tàn phế về mặt xã hội
Năm 1976, RICHARDSON(21) đã đề nghị
cũng như về mặt vệ sinh(1). Đây là một hiện
phương pháp điều trị tùy theo từng bệnh nhân
tượng rất thường xảy ra trong xã hội. Tuy nhiên,
và theo sinh lý bệnh học. Thật vậy, cùng giai
người phụ nữ thường giấu kín, không thổ lộ với
đoạn này người ta đã phân biệt được hiện tượng
bác sĩ cũa mình. Tại Mỹ theo thống kê chỉ có 20%
tiểu không kiểm soát do suy yếu cơ vòng và hiện
phụ nữ nói về hiện tượng són tiểu với bác sĩ của
tượng tiểu không kiểm soát do suy yếu sự nâng
mình(9). Tiểu không kiểm soát khi gắng sức
đỡ niệu đạo đi kèm với tăng dịch chuyển của

thường do kết hợp suy yếu: về thần kinh, về cơ
niệu đạo(16).
và mô liên kết vùng đáy chậu, sự nâng đỡ của
Năm 1994, DE LANCEY đã nhấn mạnh vai trò
niệu đạo, chức năng cổ bọng đái và các cơ quanh
rất
quan
trọng của việc nâng đỡ niệu đạo(6,7). Song
niệu đạo, cũng như chức năng các cơ nâng hậu
song đó, PETROS và ULMSTEN(19,20) đã mô tả hệ
môn là những thành phần chủ yếu của sự kiểm
thống nâng đỡ niệu đạo “động”, đã làm nền tảng
soát nước tiểu.
cho kỹ thuật TVT (Tension free vaginal tape).

LỊCH SỬ

Nhiều tiến bộ đã được báo cáo từ đầu thế kỷ
về phát triển phẫu thuật kiểm sóat nước tiểu.
KELLY và DUMM(11) đã ghi nhận rằng có hiện
tượng thiếu sự ăn khớp nhịp nhàng ở vùng cổ
bọng đái ở phụ nữ tiểu không kiểm soát nặng và
cổ bọng đái được kéo lên bằng sợi chỉ soie để
điều trị tạm thời hiện tượng suy yếu này. Nhiều
năm sau đó, BONNEY(3) đã thu hút sự chú ý
bằng hiện tượng mất nâng đỡ vùng niệu đạo nơi
những phụ nữ tiểu không kiểm soát khi gắng
sức và tác giả đã ghi nhận phương pháp khâu
nếp gấp của cân quanh niệu đạo. Vào 1949,
MARSHALL(15) theo kinh nghiệm của mình đã

đính mô quanh niệu đạo vào xương mu để làm

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
2

BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
20 bệnh nhân được phẫu thuật bằng phương
pháp TVT, 18 bệnh nhân được phẫu thuật bằng
phương pháp TOT để điều trị tiểu không kiểm
soát khi gắng sức.
Tuổi trung bình: 52 (48 – 60)

Trước mổ
Tất cả bệnh nhân tiểu không kiểm soát khi
gắng sức đều có hiện tượng són nước tiểu thành
vòi khi ho trong khi được thăm khám lâm sàng,
sau khi làm đầy bàng quang bằng nước muối
sinh lý 250 ml, có 03 bệnh nhân có dấu hiệu bàng
quang không ổn định về mặt lâm sàng (tiểu láo,
tiểu gấp, hoặc tiểu không kiểm soát do tiểu gấp).


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

Tất cả bệnh nhân được làm xét nghiệm niệu
động lực học trước khi phẫu thuật (đo áp lực
bàng quang, áp lực cơ vòng và niệu dòng đồ).

Dung tích bàng quang trung bình là: 450cc.
Áp lực trung bình của cơ vòng niệu đạo là:
52 cm H2O
Trung bình debit max là: 25ml/s
Có 1 bệnh nhân bị sa bàng quang có chỉ định
can thiệp phẫu thuật cùng lúc với phẫu thuật đặt
TOT. Tất cả bệnh nhân được mổ bởi 1 phẫu
thuật viên duy nhất, với gây tê vùng (tê tủy
sống).Tất cả những bệnh nhân đều được thông
tin chi tiết về tiến trình phẫu thuật cho mình và
đã đồng ý theo tất cả tiến trình đó.
Bệnh nhân được tái khám 1 tháng, 6 tháng
và 1 năm sau phẫu thuật. Bệnh nhân được hỏi
bệnh về sự hài lòng sau phẫu thuật, sau đó được
làm test gắng sức sau khi làm đầy bàng quang
bằng 250ml dung dịch nước muối sinh lý. Bệnh
nhân được thăm khám âm đạo để phát hiện các
trường hợp bào mòn do miếng nâng đỡ hoặc sự
đào thải của miếng nâng đỡ. Không thực hiện
xét nghiệm niệu động lực học một cách có hệ
thống sau mổ.
Thời gian theo dõi trung bình 12 tháng.
Kết quả: 36 bệnh nhân (94,6%) hoàn toàn
chấm dứt tiểu không kiểm soát khi gắng sức,
âm đạo hoàn toàn khô sạch. Có 2 bệnh nhân
(5,4%) có kết quả cải thiện. Không có trường
hợp thất bại.

Kỹ thuật tiến hành


Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

Kết quả lúc mổ
Thời gian mổ trung bình: 30 phút cho phẫu
thuật TVT và 20 phút cho phẫu thuật TOT.
Không truyền máu.
Có 3 trường hợp thủng bàng quang trong
lúc mổ loại phẫu thuật TVT. Không có biến
chứng thủng ống tiêu hóa. Không có biến
chứng chảy máu âm đạo hay máu tụ vùng
chậu sau phẫu thuật.
Rách âm đạo: 2 trường hợp trong phẫu
thuật TOT.
Đau đùi sau mổ TOT (2 trường hợp) (bảng)

Biến chứng
Xuất huyết
Thủng bọng đái
Thủng ống tiêu hóa
Nhiễm trùng
Vết thương âm đạo
Đau đùi sau mổ


TVT
0
3
0
0
0

TOT
0
0
0
0
2
2

Hậu phẫu
Thông tiểu được rút vào ngày thứ nhất sau
mổ, bệnh nhân xuất viện từ ngày thứ 2 hoặc thứ
3. Từ ngày thứ 2 có 1 bệnh nhân tiểu khó sau khi
rút thông với nước tiểu tồn lưu trên 200ml. Bệnh
nhân được nong niệu đạo tại phòng mổ vào
ngày thứ 3 sau mổ. Sau đó, bệnh nhân được rút
thông lần 2, bệnh nhân đi tiểu bình thường và
giá trị tồn lưu sau khi đi tiểu chỉ còn 20ml.
Thời gian nằm viện trung bình: 2 ngày.

Kết quả sớm
Hậu phẫu
1 tháng 3 tháng 1 năm
sớm

TVT TOT TVTTOTTVTTOT TVT TOT
Tiểu có kiểm soát 20 18 20 18 14 15 12 14
Đái khó
1
0 0 0 0 0
0
0
Bí tiểu
0
0 0 0 0 0
0
0
Debit max
- 16 16 >20ml/s
Nước tiểu tồn lưu
19 18 20 18 14 15 12 14
<30 ml
Bào mòn niêm
0 0
0
0
mạc âm đạo

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
4


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
BÀN LUẬN

Kỹ thuật mổ TVT nhằm nâng đỡ niệu đạo
không căng bằng miếng nâng đỡ PROPYLENE,
nhằm mục đích tạo lại dây chằng mu-niệu đạo,
và củng cố bằng một võng mu-âm đạo đã bị suy
yếu(19,20,23,24). Kỹ thuật mổ này đã được phát triển
sang Pháp từ Thụy Điển vào 10/1996(10,27) một
cách mạnh mẽ (hơn 50.000 TVT đã được phẫu
thuật tại Pháp cho đến 6/2001).
Biến chứng thủng bàng quang là một biến
chứng thường thấy nhất ở kỹ thuật TVT,
khoảng 8,87% trong nghiên cứu của VILLET.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ này
cũng như các tỷ lệ đã được báo cáo trong y văn
nằm vào khoảng 2-2,3%(17,22,25,28). Tất cả những
vết thương thường khu trú ở chóp bàng
quang, không có vết thương niệu đạo nào
cũng như ở vùng tam giác và niệu quản. Vết
thương bàng quang đã được báo cáo khoảng
10,1% (8/79) ở bệnh nhân chưa bao giờ làm
phẫu thuật, 6,7% (3/45) ở những bệnh nhân có
tiền sử đã được mổ vùng chậu. Cần ghi nhận
biến chứng thủng bàng quang thường xảy ra ở
những lần phẫu thuật đầu tiên khi bắt đầu áp
dụng kỹ thuật này và biến chứng sẽ giảm dần
theo kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
Biến chứng thủng bàng quang thường
không gây hậu quả nghiêm trọng, thường được
phát hiện trong phẫu thuật và được kiểm tra
bằng nội soi bàng quang. Thông thường nên
thực hiện nội soi bàng quang với optic 700. Trong

trường hợp có vết thương bàng quang thì nên
thực hiện lại lần đâm kim thứ 2.
Tất cả trường hợp thủng bàng quang đều
xảy ra trong phẫu thuật TVT.
Phẫu thuật đặt TVT hay TOT phải thực hiện
không căng tức là không nên để miếng đỡ chèn
ép vào niệu đạo. Điều này chứng minh rất rõ
ràng sự lấy lại đi tiểu bình thường dễ dàng hơn
sau phẫu thuật TVT hơn là sau phẫu thuật
BURCH hay MARSHALL – MARCHETTIKRANTZ. Bí tiểu sau khi treo cổ bọng đái theo
kỹ thuật BURCH phải đặt thông tiểu cách quãng
là 20%(4,13). Trong loạt nghiên cứu của chúng tôi

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

có 1 trường hợp đái khó phải được nong rộng
niệu đạo và miếng nâng đỡ 2 ngày sau mổ. Bệnh
nhân được xuất viện vào ngày thứ 4 sau khi rút
thông lần 2 cho thấy nước tiểu tồn lưu còn 10 –
20ml với Q max khoảng 20ml/giây. Một số tác
giả đề nghị những trường hợp này nên đặt
thông dẫn lưu cách quãng. Bệnh nhân có thể lấy
lại nhịp tiểu bình thường khoảng 1 tuần hoặc
tháng sau.
Biến chứng chảy máu rất hiếm. Có tác giả
cho rằng tỷ lệ này khoảng 2,5%. Chảy máu
thường nhẹ không cần cầm máu, đôi khi chỉ cần
đè cầm máu. Tổn thương mạch máu vùng chậu

cũng hiếm, có tác giả thống kê khoảng 1,7%. Tuy
nhiên theo SOULIÉ và cộng sự(5) là có 1 trường
hợp có máu tụ vùng RETZIUS, đòi hỏi phải
truyền máu và mổ hở để dẫn lưu. Vết thương
mạch máu, nhất là mạch máu chậu ngoài dường
như hiếm, nhưng cần phải thận trọng, trong
trường hợp bệnh nhân có động mạch dãn to bị
vôi hóa nơi những bệnh nhân lớn tuổi. Tư thế
sản khoa trên bàn mổ của bệnh nhân chắc chắn
cho phép làm giảm nguy cơ này bằng cách cho
bệnh nhân gập đùi hông chậu dưới 700. Đau sau
mổ thường không nhiều, nếu có thì ở mức độ
vừa phải trong vòng 24-48 giờ(26). Tuy nhiên
trong phẫu thuật TOT, một số tác giả cũng như
loạt nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận
hiện tượng đau đùi sau mổ. Để khắc phục hiện
tượng khó chịu này, một số tác giả đang nghiên
cứu áp dụng loại miếng nâng đỡ ngắn hơn với
đầu ngoài không đi xuyên qua lỗ bịt. Biến chứng
chủ yếu sau mổ là hiện tượng đái khó hoặc bí
tiểu thoáng qua. Trong nghiên cứu của
ULMSTEN có 12 trường hợp (10%). Theo nghiên
cứu của hiệp hội Niệu Khoa Pháp (AFU) năm
1999, bí tiểu thoáng qua có tỷ lệ thay đổi từ 816%, có trường hợp bí tiểu kéo dài sau 6 tháng
chiếm tỷ lệ 3,6% theo LUGAGNE(5,8,14). Hiện
tượng bí tiểu này thông thuờng được giải quyết
khi được dẫn lưu kéo dài nhiều ngày hoặc thông
tiểu cách quãng. Để dự phòng biến chứng này
nên chọn lựa những bệnh nhân trước mổ có niệu
dòng đồ bình thường, không có bọng đái cự đại


5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
hoặc bàng quang giảm co thắt trên xét nghiệm
niệu động lực học và trong quá trình mổ, đặt
miếng nâng đỡ dưới niệu đạo không căng hoặc
căng rất nhẹ và nên duy trì một vài giọt nước
tiểu thoát nhẹ qua niệu đạo.
Bệnh nhân được vô cảm tùy theo từng tác
giả. Theo ULMSTEN, đại đa số các trường hợp
được thực hiện hoặc gây tê vùng hoặc gây mê
toàn thân. Chỉ có 5,8%, bệnh nhân được mổ
bằng gây tê tại chỗ. Tuy nhiên BENIZRI đã
thực hiện 88% những trường hợp TVT dưới
gây tê tại chỗ và các trường hợp này được thực
hiện tại bệnh viện trong ngày trong 63% các
trường hợp(2). Về tỷ lệ thành công, kết quả về
chức năng sau 3 năm của loạt nghiên cứu 50
bệnh nhân của ULMSTEN đánh giá 1 cách
tương đối hiệu quả theo thời gian, tỷ lệ thành
công hoàn toàn là 90%, cải thiện một phần là
6% được ghi nhận(26). Theo loạt nghiên cứu của
chúng tôi, tỷ lệ thành công là 94,6% đã được
theo dõi trong 1 năm. Các loạt nghiên cứu
khác đã được trình bày ở hội nghị Niệu Khoa
Pháp 1999, trong đại đa số các trường hợp theo
dõi dưới 1 năm và tỷ lệ chữa khỏi hoàn toàn
thay đổi từ 78 -96%(2,8,14,18). Các trường hợp có

nguy cơ suy yếu cơ vòng nặng tỷ lệ chữa khỏi
hoàn toàn thay đổi từ 82-88%(12,14). Dường như
đại đa số các trường hợp thất bại sau khi đặt
TVT phát hiện rất nhanh trong vòng 3 tháng
đầu tiên. Có tác giả ghi nhận 1 số trường hợp
tỷ lệ thất bại xảy ra chậm hơn ở khoảng tháng
thứ 6 hoặc tháng thứ 9. Trong trường hợp thất
bại, phương pháp đặt cơ vòng nhân tạo được
đặt ra nhưng theo DE LEVAL, kỹ thuật TOT
cho phép đặt lại miếng nâng đỡ niệu đạo khi
lần đầu thất bại.
Qua phân tích cho thấy TVT và TOT điều trị
tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ là
một kỹ thuật hoàn toàn tin tưởng, khả thi và dễ
thực hiện.

sức.. Kỹ thuật mổ này hoàn toàn khả thi và với
bệnh suất trong mổ rất thấp, có thể thực hiện
được qua gây tê vùng hoặc gây tê tại chỗ. Tuy
nhiên, chúng ta cần phải lưu ý:
Các giới hạn chỉ định mổ và phương pháp
mổ, nhất là trường hợp có suy cơ vòng, có hội
chứng tiểu gấp và khó tiểu bằng một khám
nghiệm kỹ lưỡng các rối loạn khác nhau này
trước khi tiến hành phẫu thuật.
Xác định vị trí và ứng dụng của kỹ thuật này
cho việc điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng
sức, nhất là khi kết hợp với sa sinh dục.
Tuy nhiên, điều cần thiết nghiên cứu với số
lượng phẫu thuật nhiều hơn, đa trung tâm với

thời gian theo dõi lâu hơn trước khi khẳng định
tính ưu việt của kỹ thuật này so với các phẫu
thuật kinh điển trước đây.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.
4.

5.

6.

7.

8.

KẾT LUẬN
Kỹ thuật TVT – TOT cho đến nay được
khẳng định có thể điều trị thành công hoàn toàn
95% bệnh nhân bị tiểu không kiểm soát khi gắng

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
6

Nghiên cứu Y học


9.

Abrams P., Blaivas J.G., Stanton S.L., Andersen J.T. (1988)
The standardisation of terminology of lower urinary tract
function. The International Continence Society Committee
on Standardisation of Terminology. Scand. J. Urol.
Nephrol., Suppl. 114: 5- 19.
Benizri E., Chevallier D., Jordana G., Garcia G., Collomb J.,
Amiel J., Toubol J(1999).. TVT et incontinence urinaire
d'effort (I.U.E.) à propos de 100 cas. Prog. URol., 9, abst P
46, 42A.
Boney V. (1923,) On diurnal incontinence of urine in
women. J. Obstet. Gynaecol. Br. Emp., 30: 358-365.
Colombo M., Scalambrino S., Maggioni A. and Milani R.,
(1994) Burch colposuspension versus modified MarshallMarchetti-Krantz urethropexy for primary genuine stress
urinary incontinence: a prospective, randomized clinical
trial. Am. J. Obstet. Gynecol.,, 171: 1573-1579.
Cour F., Barret E., Cathelineau X., Dell'oro A., Mombet A.,
Guilloneau B., Veillon B., Vallancien G (1999)..
Complications péri - opératoires de la bandelette sousurétrale TVT dans le traitement de l'incontinence urinaire
d'effort féminine. Prog. Urol., 9, abst P48, 42A.
de Lancey J.O. (1997) The pathophysiology of stress
urinary incontinence in women and its implications for
surgical treatment. World J. Urol., 15: 268-274.
de Lancey J.O.L.(1994) Structural support of the urethra as it
relates to stress urinary incontinence: the hammock
hypothesis. Am. J. Obstet. Gynecol., 170:1713-1723
Haab F., Sananes S., Monsaint H., Ciofu C., Tligui M.,
Tchala K., Doublet J.D., Lukacs B., Gattegno B., Uzan S.,

Amarenco G., Thibault Ph. (1999). Soutènement sousurétral "TVT": résultats préliminaires. Prog. URol.,, 9, abst
P45, 42A.
Health (1988). Urinary incontinence in adults. National
Institute of Health consensus development conference
statement, Washington, DC.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
10.

11.

12.

13.

14.

15.

16.
17.

18.

19.

20.

21.

22.

23.

24.

25.

26.

27.

Jacquetin B. (1998) Un test clinique très simple peut-il
justifier l'utilisation d'une nouvelle intervention pour
incontinence urinaire d'effort? J.Gynecol. Obstet. Biol.
Reprod., 27: 215 - 216
Kelly HA., Dumm WM. (1914) Urinary incontinence in
women without manifest injury to the bladder: a report of
cases. Surg. Gynecol Obstet., 18: 444-450
Le Guillou M., Jacob F., Pariente J.L., Ferrière J.M., Lesourd B.,
Garcia S (1999). La TVT peut-elle remplacer le sphincter
artificiel chez la femme? Prog. Urol. 9, abst P47, 42A.
Lose G., Jorgensen L., Mortensen S.O., Molstedpedersen
L., Kristensen J.K (1987). Voiding difficulties after
colposuspension. Obstet. Gynecol., 69: 33 - 38.
Lugagne - Delpon M., Lebret T., Hervé J.M., Barré P.,
Orsoni J.L., Botto H (1999). Cure d'incontinence urinaire
d'effort par prothèse urétrale sans tension (TVT): résultats
précoces chez 55 patientes. Prog. Urol., 9, abst P43, 41A.
Marshall V.F., Marchetti A.A., Krantz K.E. (1949) The

correction of stress incontinence by simple vesicourethral
suspension.. Surg. Gynecol. Obstet, 88: 509-518.
McGuire E.J., Lytton B., Pepe V., Kohorn E.I(1976). Stress
Urinary Incontinence. Obstet. Gynecol., 47: 255-264.
Moran P.A., Ward K.L., Johnson D., Smirni W.E., Hilton
P., et al. (2000) Tension - free vaginal tape for primary
genuine stress incontinence: a two-centre follow - up
study. B.J.U. Int., 86: 39-42.
Moulinier F., Ravery V., Blanc E., Hermieu J.F., Delmas V.,
Boccon - Gibod L. (1999,), Résutats préliminaires de la
bandelette TVT dans la cure d'incontinence urinaire d'effort.
Prog. Urol., 9, abst P44, 41A.
Petros P.E., Ulmsten U (1995). Urethral pressure increase
on effort originates from within the urethra, and
continence form musculo-vaginal closure. Neuro Urol.
Urodynam, 14: 337 -350.
Petros P.E., Ulmsten U. (1993) An intergral theory and its
method for the diagnosis and management of female
urinary incontinence. Scand. J. Urol. Nephrol.,, suppl.153:
3-93.
Richardson A.C., Lyon J.B., Williams N.L (1976). A new look
at pelvic relaxation. Am J. Obstet Gynecol., 126: 568-573.
Soulié M., Delbert-Julhes F., Cuvillier X., Mouly P.,
Thanwerdas J. et al (2000). Repair of female urinary
incontinence with prolene "TVT": preliminary results of a
multicenter and prospective survey. Prog. Urol., 10: 622-628.
Ulmsten U (1997). Some reflections and hypotheses on the
pathophysiology of female urinary incontinence. Acta
Obstet. Gynecol. Scand. Suppl, 166,:3-8.
Ulmsten U., Johnson P., Rezapour M. (1999). A three-year

follow-up of tension free vaginal tape for surgical
treatment of female stress urinary incontinence. Brit.J.
Obstet. Gynaecol., 106: 345-350.
Ulmsten U., Henriksson L., Johnson P., Varhos G. (1996).
An ambulatory surgical procedure under local anesthesia
for treatment of female urinary incontinence. Int.
Urogynecol. J. Pelvic floor dysfunct., 7: 81-86.
Ulmsten U., Johnson P. Rezapour M (1999). A three-year
follow-up of tension free vaginal tape for surgical
treatment of female stress urinary incontinence. Br.J.
Obstet. Gynaecol., 106:345-350.
Villet R., Fitremann C. Salet-Lizée D., Collard D.,
Zafiropulo M (1998). Un nouveau procédé de traitement

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

28.

Nghiên cứu Y học

de l'incontinence urinaire d'effort (IUE): soutènement
sous-urétral par une bandelette de Prolène (R) sous
anesthésie locale. Prog. Urol., 8: 274-276.
Wang A.C., Lo T.S (1998). Tension free vaginal tape. A
minimal invasive solution to stress urinary incontinence in
women. J. Reprod. Biol., 43: 429-434.

7



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
8

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

9



×