Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Trầm cảm ở bà mẹ có con sinh non đang nằm viện tại khoa sơ sinh - Bệnh viện Nhi Đồng 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.86 KB, 6 trang )

quan tâm đến chất lượng nội dung các câu
trả lời (các cử điệu, ý kiến, thái độ, liên tưởng tư

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011

Nghiên cứu Y học

duy…) mà cả những hành vi cụ thể của các bà
mẹ (giọng nói, điệu bộ, nhầm lẫn)(10).

Mô tả các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý
trầm cảm

Phân tích số liệu
Phân tích kết quả dựa trên phần mềm
SPSS 16.0.

Trong lúc tiếp xúc có 87,5% các bà mẹ đã
khóc thật nhiều, họ luôn cảm thấy buồn và
không quan tâm đến những sự việc xung

Chúng tôi sử dụng số liệu thống kê dựa trên
các triệu chứng trầm cảm khác nhau được quan
sát. Sau đó chúng tôi so sánh kết quả thu được
của các đối tượng được phỏng vấn. Phân tích
định tính sẽ giúp phân tích chi tiết hơn về các
triệu chứng trầm cảm khác nhau này và các yêu
cầu trợ giúp và hỗ trợ tâm lý.



quanh, không còn cảm thấy thích thú đối với

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

suy nghĩ đến cái chết.

Kết quả xử lý với phần mềm SPSS 16.0
Tuổi trung bình của bà mẹ trong khảo sát:
25,67 ± 5,575 (18 – 41).
72,9% bà mẹ ở lứa tuổi 20 – 30.

45,8% bà mẹ có thai ngoài ý muốn. 75% bà
mẹ sinh con đầu lòng.
Tuổi thai trung bình 30,21± 2,721 (25 – 36).
Cân nặng lúc sinh trung bình 1525,62 ±
342,705 (1000 – 2400).

Tuổi của mẹ

Nơi ở
Số con
Trình độ văn hóa của
mẹ
Lần này có thai

Nghề nghiệp

Bảng 1: Đặc điểm dân số học


Họ không muốn ăn, luôn cảm thấy mệt mỏi
và cảm thấy bản thân vô giá trị hoặc có mặc cảm
tội lỗi. Họ cảm thấy bi quan về tương lai và có
100% bà mẹ có rối loạn giấc ngủ, luôn cảm
Có 64.6% thiếu tự tin vào khả năng làm mẹ,
không muốn chăm sóc con hay sợ mình sẽ làm
hại đứa bé. 70,8% bà mẹ có thay đổi tính khí.

81,2% bà mẹ ở tỉnh. 77,1% có trình độ học
vấn ≤ cấp 2.

Dịch tễ
< 20
20 - 30
> 30
Tỉnh
Thành phố
Con so
Con rạ
≤ cấp 2
≥ cấp 3
Có chuẩn bị
Ngoài ý muốn
Trí thức
Công nhân
Nông dân
Tự do
Nội trợ

phim, nghe nhạc…


thấy bồn chồn, lo âu, dễ tức giận.

Đặc điểm dịch tễ học

Đặc điểm

những hoạt động mà trước kia ưa thích như xem

N = 48 (%)
6 (12,5)
35 (72,9)
7 (14,6)
39 (81,2)
9 (18,8)
36 (75)
12 (25)
37 (77,1)
11 (22,9)
26 (54,2)
22 (45,8)
4 (8,3)
13 (27,1)
6 (12,5)
8 (35,4)
17 (35,4)

Bảng 2. Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh lý trầm cảm
Đặc điểm
Khóc

Thiếu tự tin vào
khả năng làm mẹ
Thay đổi tính khí


không

không

không

N = 48 (%)
42 (87,5)
6 (12,5)
31 (64,6)
17 (35,4)
34 (70,8)
14 (29,2)

Thái độ của bà mẹ
35,4% có thể nói dễ dàng các vấn đề của
mình. 41,7% khóc nhiều nhưng tỏ ra khép kín
hơn. 22,9% bà mẹ đau khổ đến mức thể hiện
hung bạo qua lời nói.

Các yếu tố có thể liên quan đến trầm cảm
của bà mẹ
Có 62,5% bà mẹ gặp khó khăn, đau khổ với
gia đình trong thời gian mang thai và sau khi
sinh. Trong đó có 6,2% bị gia đình chồng bắt

buộc li dị với lý do không có khả năng sinh con
tốt, sinh con trai.
6,2% bà mẹ có con sinh đôi chết. Trong
nghiên cứu của BS Lâm Xuân Điền ghi nhận tử
vong sơ sinh liên quan có ý nghĩa đến trầm cảm

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011

73


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011

sau sinh(8).
50% có mối quan hệ xấu với chồng. Điều
này cũng phù hợp với nhận xét của tác giả
Glasser (Israel) và Johanson R (Anh) cho rằng sự
không hòa hợp trong hôn nhân ở sản phụ là
một trong những yếu tố dự báo tốt nhất hay có
liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện trầm cảm sau
sinh(8).
87,5% bà mẹ quá lo lắng cho sức khỏe của
con. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của
tác giả Glasser (Israel) cho rằng các vấn đề sức
khỏe kéo dài ở đứa con cũng là một trong
những yếu tố dự báo tốt nhất về sự xuất hiện
của trầm cảm sau sinh hay theo tác giả ManlKD
(USA) thì mẹ dễ bị trầm cảm sau sinh nếu trẻ sơ

sinh có >1 vấn đề phải khám đa khoa hay phải
nhập phòng cấp cứu dù chỉ 1 lần(8).
45,8% bà mẹ không mong muốn có con, điều
này cũng phù hợp với nhận định của tác giả
Neter E (USA) cho rằng những sản phụ cảm
thấy hài lòng với lần sanh này thì sẽ ít bị trầm
cảm hơn hoặc với tác giả Như Ngọc (VN) cho
rằng không mong đợi có liên quan có ý nghĩa
thống kê với trầm cảm sau sinh(8).
Có 70,8% bà mẹ thiếu sự nâng đỡ tâm lý.
75% bà mẹ có nhu cầu được trò chuyện tâm
sự trong đó 41.7% tâm sự riêng tư (nâng đỡ
tâm lý cá nhân). 27,1% bà mẹ mong được chia
sẻ với những bà mẹ khác (nâng đỡ tâm lý
nhóm). 6,2% bà mẹ mong được nâng đỡ tâm
lý cá nhân và nhóm.

Mức độ trầm cảm dựa trên thang lượng giá
EPDS
Điểm EPDS trung bình trong khảo sát 15,83
± 5,785 (5 – 28).
29,2% bà mẹ có EPDS <13 điểm. 70,8% bà mẹ
có EPDS ≥ 13 điểm.
27,1% bà mẹ có tư tưởng tự tử.

Tỷ lệ trầm cảm ở bà mẹ có con sinh non
nằm viện
Chúng tôi thực hiện khảo sát trên 48 bà mẹ
có con sinh non đang nằm điều trị tại khoa sơ
sinh bệnh viện Nhi Đồng I qua bảng EPDS, số


74

bà mẹ có EPDS ≥ 13 điểm chiếm 70,8% (34 bà
mẹ). Trong nghiên cứu của Lương Bạch Lan
(2009) trầm cảm sau sinh của bà mẹ là 11,6%,
nhóm sản phụ có con gửi dưỡng nhi của
Nguyễn Mai Hạnh (2005)(9) là 29,6%, kết quả của
Lâm Xuân Điền (2002)(8) là 10,8%. Điều này có
thể do cách tiến hành nghiên cứu chọn mẩu của
chúng tôi, đây là các bà mẹ có con bệnh nặng
nằm phòng cấp cứu của khoa sơ sinh. Các bà mẹ
này có địa chỉ cư trú ở tỉnh là 81,2%, có nghĩa là
trẻ đã được sinh ra ở địa phương và trẻ bị cách
ly mẹ-con trước khi trẻ được nhập viện tại khoa
Sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1. Cũng có thể do
căng thẳng của môi trường khoa Sơ sinh, sự
cách ly thể chất và sự cảm xúc của bà mẹ đối với
trẻ. Sinh ra một trẻ thiếu tháng là một cú sốc. Tất
cả công việc mang thai cũng như chuẩn bị cho
chuyển dạ và sự ra đời của đứa trẻ bị cắt đứt.
Đối với bà mẹ, đẻ non là một trải nghiệm đau
đớn và mặc cảm tội lỗi có thể dẫn bà mẹ tới trầm
cảm và tự đánh giá thấp mình(11). Sự ra đời và
nằm viện của một trẻ sinh non là sự đau khổ
tâm lý rất lớn cho bà mẹ. Bà mẹ đau buồn và tự
buộc tội mình. Đặc biệt sự thiếu nâng đỡ xã hội,
xung đột vợ chồng, gia đình và các biến cố gây
căng thẳng trong cuộc sống làm tăng có ý nghĩa
sự trầm cảm sau sinh(2).

Trong khảo sát của chúng tôi 13 bà mẹ có tư
tưởng tự tử chiếm 27,1% ít hơn tỷ lệ 41,2% của
Lâm Xuân Điền(8) nhưng là một thực trạng đáng
được quan tâm hỗ trợ kịp thời, nếu không được
phát hiện và điều trị, trầm cảm ở bà mẹ sau sinh
có thể làm tăng nguy cơ bệnh tâm thần và ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm thần và nhân cách
của trẻ trong tương lai.

KẾT LUẬN
Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới ước tính đến
năm 2020, rối loạn ức chế tâm thần sẽ là nguyên
nhân đứng thứ hai trong gánh nặng về sức khỏe
toàn cầu(13). Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng điều
quan trọng là nhân viên y tế phát hiện các bà mẹ
trầm cảm để giúp cho sự tương tác mẹ - con tốt
hơn. Với số điểm EPDS cao trong khảo sát này,
chúng tôi mong muốn các bà mẹ có con nằm ở

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
phòng cấp cứu khoa sơ sinh được tầm soát về
trầm cảm sau sinh thường quy hơn. Đồng thời
có sự chăm sóc thích hợp nhất cho các bà mẹ
này về y tế và tâm lý trong thời gian có con
đang nằm điều trị trong bệnh viện, cũng như
hướng dẫn tái khám, theo dõi sau khi ra viện.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

Appleby L, Warner R, Whitton A, and Faragher B (1997), “A
controlled study of fluoxetine and cognitive-behavioural
counselling in the treatment of postnatal depression,” British
Medical Journal, vol. 314, no. 7085, pp. 932–936.
Cox JL., Holden JM., and Sagovsky R (1987), “Detection of
postnatal depression: development of the 10-item Edinburgh
Postnatal Depression Scale,” British Journal of Psychiatry, vol. 150,
pp. 782–786.
Đặng Phương Kiệt (2000). “Những vấn đề tâm lý và văn hóa hiện
đại.”. Tâm lý sản phụ sơ sinh và quan hệ sớm mẹ-con. Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin Hà Nội: 236 - 238.
Halbreich U. (2005), “The association between pregnancy
processes, preterm delivery, low birth weight, and postpartum
depressions—the need for interdisciplinary integration,”
American Journal of Obstetrics and Gynecology, vol. 193, no. 4, pp.
1312–1322.
Halbreich U. and Karkun S. (2006), “Cross-cultural and social

6.


7.
8.

9.

10.
11.
12.

13.

Nghiên cứu Y học

diversity of prevalence of postpartum depression and depressive
symptoms,” Journal of Affective Disorders, vol. 91, no. 2-3, pp. 97–
111.
Hall PL and Wittkowski (2006), “An exploration of negative
thoughts as a normal phenomenon after childbirth,” Journal of
Midwifery and Women's Health A, vol. 51, no. 5, pp. 321–330.
Jason J et al. (1983), “Homicide as a cause of pediatric mortality
in the United”, Pediatric,72.
Lâm Xuân Điền, Lê Quốc Nam. (2002), “Khảo sát tỉ lệ rối loạn
trầm cảm sau sanh ở các sản phụ đến sanh tại bệnh viện Từ Dũ”.
Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học năm 2002 Bệnh viện
Tâm Thần TPHCM.
Nguyễn Mai Hạnh. (2005), “Yếu tố nguy cơ của Trầm cảm sau
sinh”. Luận án tốt nghiệp chuyên khoa II Trường Đại Học Y
Dược Tp.HCM.
Vũ Dũng (2008) “Từ điển Tâm lý học” Viện khoa học xã hội Việt

Nam- Viện tâm lý học 619-620
Vũ Thị Chín (1997) “Bước đầu tìm hiều tâm lý sản phụ và quan hệ
sớm mẹ con ở Việt Nam ”; 1997:4.12:221-341.
Wisner KL, Parry BL, and Piontek CM (2002), “Postpartum
depression,” The New England Journal of Medicine, vol. 347, no. 3,
pp. 194–199.
World Health Organization. (2001), “World Health Report.
Mental Health: New Understanding, New Hope.” Geneva:
World Health Organization.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011

75



×