Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Tìm hiểu kiến thức về tiêm chủng mở rộng của các bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.75 KB, 61 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 1997 tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi
trên thế giới vẫn còn cao 6,1%, trong đó các nước công nghiệp 0,7%, các
nước phát triển 6,7% và các nước kém phát triển 10,9%.
Tiêm chủng phòng bệnh bằng các vaccine là một thành tựu trong y học
ở thế kỷ XX, có ý nghĩa to lớn trong Y học dự phòng. Chương trình tiêm
chủng mở rộng đã góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc và chết của trẻ em
dưới 1 tuổi và 5 tuổi về các bệnh truyền nhiễm. Ước tính hàng năm tiêm
chủng đã cứu sống khoảng 1 triệu trẻ em ở các nước đang phát triển [1]
Chương trình tiêm chủng mở rộng được triển khai ở Việt Nam từ năm
1981 được sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế Thế giới và Quỹ nhi Đồng liên Hiệp
Quốc với vaccine phòng 6 bệnh truyền nhiễm: Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván,
Sởi, Lao, Bại liệt cho trẻ em dưới 1 tuổi. Năm 1985 tiêm chủng mở rộng được
đẩy mạnh và triển khai trên phạm vi cả nước. Mục tiêu tiêm chủng mở rộng
đã hoàn thành với tỷ lệ 87% năm 1990 và trên 90% vào năm 1993 cho toàn
trẻ em dưới 1 tuổi trong cả nước được tiêm chủng đầy đủ 6 loại vaccin. Năm
2003 có 100% số huyện trên cả nước được tiêm vaccine viêm gan B. Năm
2004 tỷ lệ tiêm 3 mũi viêm gan B đạt 94,2%. Từ đó vaccine viêm gan B được
coi là vaccine thứ 7 trong chương trình tiêm chủng mà trẻ em Việt Nam dưới
1 tuổi phải được tiêm chủng đầy đủ [2].
Chương trình tiêm chủng mở rộng không chỉ bảo vệ sức trẻ em mà còn
có ý nghĩa chính trị xã hội và quan hệ quốc tế quan trọng [3]. Là một trong
những chương trình y tế Quốc gia ưu tiên hàng đầu và được đưa vào 10 nội
dung chăm sóc sức khỏe ban đầu, đã mang lại thành công lớn trong việc giảm
tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết ở trẻ em do 7 bệnh truyền nhiễm phổ biến gây ra. Việt
Nam ta đã thanh toán bại liệt năm 2000, dần dần loại trừ Uốn ván sơ sinh và
tiến tới khống chế bệnh Sởi.
Nâng cao sức khỏe con người là nhiêm vụ trọng tâm của ngành y tế, sự
nghiệp chăm sóc sức khỏe là sự nghiệp của toàn xã hội. Trong những năm
qua được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp, sự phối hợp
của các ban ngành, ngành y tế đã đạt một số thành tích trong công tác chăm


sóc sức khỏe nhân dân nói chung và công tác tiêm chủng nói riêng.
Đông Giang là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Quảng
Nam, chủ yếu là người dân tộc CơTu sống bằng nghề nông. Công tác tiêm
chủng mở rộng luôn đạt chỉ tiêu trên 96% trong nhiều năm. Năm 2007 tiêm
chủng đầy đủ là 97,25% đạt chỉ tiêu, tuy nhiên tiến độ tiêm chủng hàng tháng
giao động từ 6 - 8%, nhất là chênh lệch giữa các mũi tiêm [18]. Phải chăng
điều này có liên quan đến hiểu biết của các bà mẹ về tiêm chủng. Do đó việc
tìm hiểu kiến thức về tiêm chủng mở rộng của các bà mẹ có con dưới 1 tuổi
của huyện Đông Giang là yêu cầu cần thiết.
Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu kiến thức về tiêm
chủng mở rộng của các bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở huyện Đông Giang,
tỉnh Quảng Nam”.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Xác định tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng phòng 7 bệnh
truyền nhiễm ở huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam .
2. Đánh giá kiến thức về tiêm chủng mở rộng của các bà mẹ có con
dưới 1 tuổi ở huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Chương trình tiêm chủng mở rộng
Chương trình tiêm chủng mở rộng (CTTCMR: Expanded Programe on
Immunization: EPI) là một trong những chương trình bảo vệ sức khỏe ở Việt
Nam, mục tiêu nhằm hạn chế tỷ lệ mắc bệnh, giảm tử vong và di chứng 7
bệnh truyền nhiễm phổ biến ở trẻ em: Bại liệt, bạch hầu, ho gà, sởi, lao, uốn
ván sơ ván sơ sinh và gần đây là viêm gan siêu vi B. Nhằm tiến đến loại trừ
uốn ván sơ sinh và khống chế bệnh sởi bằng cách gây miễn dịch chủ động
bằng vắc xin trẻ em, phụ nữ có thai, nữ 15 - 35 tuổi (tại các huyện điểm).
Đối tượng của chương trình TCMR là trẻ em dưới 1 tuổi, phụ nữ mang
thai và nữ 15 - 35 tuổi (lứa tuổi trong độ tuổi sinh đẻ có thể chưa có gia đình
thì được tiêm 3 liều vắc xin uống ván hoặc đã có gia đình với 1 con đầu tiên

và đã tiêm 2 liều vắc xin phòng uốn ván thì được tiêm 1 liều nữa) tại các
huyện điểm trên toàn quốc. Tiêu chuẩn để chọn huyện điểm là huyện có nhiều
ca đỡ đẻ tại nhà nhất, có tỷ lệ tiêm vắc xin liều thứ hai thấp nhất, có ca uốn
ván sơ sinh được báo cáo liên tục trong 3 năm qua [5].
1.2.Các hình thức tiêm chủng mở rộng:
- Tiêm chủng thường xuyên: Một hình thái của tiêm chủng được tổ chức
thường xuyên cố định vào các ngày 25-30 hàng tháng tùy điều kiện từng địa
phương. Chiến lược này chủ yếu ở thành phố, đồng bằng, nơi đông dân cư có
nhiều điều kiện thuận lợi.
- Tiêm chủng định kỳ :Tại những vùng khó khăn về giao thông, cơ sở y
tế, điện…đặc biệt là các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, áp dụng hình thức
tiêm chủng định kỳ. Đây là hình thức tiêm chủng mang tính đối phó với các
khó khăn của một số vùng đặc biệt để nâng cao tỷ lệ tiêm chủng. Hình thức
này ngày càng được thay thế bằng hình thức tiêm chủng thường xuyên để
nâng cao chất lượng của dịch vụ TCMR.
- Tiêm chủng chiến dịch : Đây là hình thức tiêm chủng đồng loạt cho
đối tượng lớn, trên phạm vi rộng trong một thời gian ngắn. Hình thức tiêm
chủng này được áp dụng trong chiến dịch những ngày tiêm chủng toàn quốc
để thanh toán bệnh bại liệt, chiến dịch tiêm nhắc mũi 2 vaccin Sởi cho trẻ em
từ 9 tháng đến 10 tuổi nhằm đạt mục tiêu loại trừ Sởi vào năm 2010
1.3. Tình hình tiêm chủng mở rộng trên thế giới
Kỷ nguyên của tiêm chủng bắt đầu từ năm 1796 khi một thầy thuốc
người Anh ở nông thôn tên là Edward Jenner, đã cấy cho một đứa trẻ 8 tuổi
những chất tiết lấy từ tổn thương của bệnh đậu bò và cho thấy rằng đứa trẻ đã
được bảo vệ chống lại bệnh đậu mùa. Sau khi tiến hành thí nghiệm này nhiều
lần với một kết quả giống hệt nhau, năm 1798 Jenner công bố kết quả nghiên
cứu vaccine phòng bệnh đậu mùa. Đến năm 1810, nhiều nước ở Châu Âu đã
thực hiện tiêm chủng bắt buộc đối với bệnh đậu mùa. Bệnh đậu mùa là bệnh
đầu tiên trên thế giới thanh toán được trong thập niên 70 của thế kỷ XX, đến
nay toàn thế giới chưa phát hiện bệnh đậu mùa quay trở lại [19]. Đây là một

kết quả có ý nghĩa lớn cho nền y học và là cơ sở cho việc thanh toán các bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm trên toàn thế giới sau này.
Gần một thế kỷ sau phát minh của Jenner, Louis Pasteur phát hiện ra
rằng người ta có thể thu được tác nhân gây miễn dịch bằng cách bất hoạt vi
sinh vật gây bệnh nhiễm trùng và ông gọi chúng là những vaccine. Năm 1885,
sau khi đã thử trên súc vật một vaccine sản xuất từ vi rút bất hoạt gây bệnh
dại, ông Louis Pasteur đã đem thử nghiệm cho một đứa trẻ 9 tuổi bị thương
rất nặng do chó dại cắn và chắc chắn đứa trẻ này sẽ tử vong. Đứa trẻ được
tiêm 14 mũi vaccine và không bị bệnh dại. Từ năm 1890, những thành phố
lớn trên thế giới đã có những trung tâm tiêm chủng phòng bệnh dại và có thể
nói cho đến nay bệnh dại đã được khống chế một cách hiệu quả.
Trong thế kỷ XX, nhiều loại vaccine đã được tạo ra và chương trình
TCMR đã thu hút được nhều thành công. Năm 1921 Albert Calmette và
Calmille Guerín đã thành công trong việc tạo ra một chủng vi khuẩn lao giảm
độc lực, và từ đó sản xuất vaccine BCG. Việc tiêm BCG đã nhanh chóng triển
khai ở nhiều nước để phòng bệnh lao cho cộng đồng. Chỉ trong năm 1955 hơn
60 triệu người trên thế giới đã được tiêm phòng BCG. Năm 1923 Gaston
Ramon đã phát hiện ra độc tố vi khuẩn gây bệnh uốn ván và bạch hầu bất hoạt
bằng Formandehyde (gọi là giải độc tố) và có thể dung để phòng bệnh đó.
Năm 1925 vaccine phòng bệnh ho gà ra đời, tiếp theo là sự ra đời của vaccine
phòng bệnh sốt vàng vào năm 1930. Chỉ trong những năm 40, hơn 20 triệu
người Tây Phi đã được phòng bệnh sốt vàng, cho phép khống chế về cơ bản
bệnh dịch này tại khu vực Tây Phi. Vaccine bại liệt được thử nghiệm và sau
đó sử dụng rộng rãi trên thế giới năm 1950. Với việc sử dụng vaccine phòng
bệnh bại liệt nhanh chóng được đưa vào chương trình tiêm chủng phòng bệnh.
Cho đến nay, hầu hết các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới đã
tuyên bố thanh toán bệnh bại liệt. Tuy nhiên đây là một trong những thách
thức của một số nước Châu Phi, Châu Á chưa thanh toán bệnh bại liệt là đang
có nguy cơ tiềm ẩn cho các nước đã thanh toán bệnh bại liệt quay trở lại [17].
Hiện nay có nhiều vaccine gây miễn dịch chủ động phòng chống các bệnh

truyền nhiễm. Những vaccine được dùng phổ biến trong chương trình TCMR
của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam bao gồm: Vaccine BCG,
bại liệt, sởi và DPT… đó là những vaccine WHO và UNICEF muốn làm cho
phổ cập đến tất cả mọi người.
Chương trình TCMR được WHO chính thức thành lập và triển khai từ
năm 1974 chủ yếu phòng các bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, lao,
sởi…Thực tế cho thấy chương trình tiêm chủng hàng năm đã cứu sống hàng
triệu trẻ em ở các nước đang phát triển, tuy vậy vẫn còn hơn 3.5 triệu trẻ em
bị tử vong hoặc tàn phế mà lẽ ra có thể phòng tránh được bằng tiêm chủng
vaccine phòng bệnh [1],[10]. Tháng 5 năm 1977 Chương trình TCMR được
WHO xác định mục tiêu quan trọng là: “ Giảm tỷ lệ tử vong có thể quy cho 6
bệnh: bạch hầu, ho gà uốn ván, bại liệt, sởi, lao bằng cách tạo miễn dịch cho
tất cả các trẻ em trên toàn cầu năm 1990. Đây là những bệnh mà hàng năm
trong thập niên 70 của thế kỷ XX ước tính đã giết hại và gây ra tàn phế cho
hàng triệu trẻ em. Việc tiêm chủng phòng ngừa các bệnh trên vừa hiệu quả,
vừa an toàn và thực tế các nước đã cho thấy các trường hợp mắc, chết của 6
bệnh giảm đi một cách nhanh chóng khi hầu hết các trẻ em được tiêm vaccine
phòng bệnh. Theo dự đoán của WHO, nếu tiêm chủng cho trẻ em trên toàn
thế giới, có thể cứu sống 3 triệu trẻ em trên toàn thế giới [24].
Chương trình TCMR đã được WHO xác định là 1 trong 8 nội dung
chăm sóc sức khỏe ban đầu theo tuyên ngôn Alma- Ata năm 1978, kêu gọi và
vận động các nước thành viên thực hiện chương trình có ích trong khuôn khổ
hoạt động, nhằm thực hiện mục tiêu “Sức khỏe cho mọi người năm 2000”.
Mục đích của chương trình này là mở rộng, phát triển công tác tiêm chủng
cho toàn thể trẻ em trên toàn thế giới, đặc biệt là trẻ em ở các nước đang phát
triển sẽ được tiêm phòng 6 loại vaccine phòng 6 bệnh truyền nhiễm [25].
Cho đến nay các nước thành viên liên hợp quốc đều có chương trình
TCMR, trong đó có Việt Nam đã đạt được mục tiêu phổ cập tiêm chủng cho
trẻ em dưới một tuổi. Cách đây hai thập kỷ có 5% trẻ sơ sinh ở các nước đang
phát triển được tiêm chủng miễn dịch phòng 6 bệnh chính. Ngày nay tỷ lệ

tiêm chủng trên toàn thế giới đã đạt được 80% [21], đây là một đỉnh cao thành
tựu và các bệnh truyền nhiễm ở trẻ em đã được đẩy lùi một cách đáng kể.
1.4. Tình hình tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam
Ở Việt Nam chương trình TCMR được đưa vào 10 nội dung chăm sóc
sức khỏe ban đầu, là một trong những chương trình y tế quốc gia được ưu tiên
hang đầu và được triển khai rất sớm từ những năm 1981. Với sự giúp đỡ của
Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) và Tổ chức y tế thế giới
(TCYTTG), sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng, nhà nước và sự tham gia tích cực
của các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể, hưởng ứng tích cực của
nhân dân và các gia đình có con diện tiêm chủng, chương trình TCMR đã
được triển khai khắp cả nước trong những năm qua [1], [2], [5], [10], [21].
Chương trình đã và đang phát huy có hiệu quả, góp phần bảo vệ sức khỏe thế
hệ trẻ, hạ một cách rõ rệt tỷ lệ mắc/ chết 6 bệnh truyền nhiễm trẻ em, giảm
bớt chi tiêu về điều trị [33], [34].
Chương trình TCMR ở nước ta hoạt động theo bốn thời kỳ [3],[18],
[27],[28]:
- 1981-1982: Làm thí điểm một số tỉnh, thành.
- 1982-1985: Phát triển ra 20 tỉnh, thành.
- 1986-1990: Đẩy mạnh tiêm chủng trong toàn quốc(100% số tỉnh,
huyện; 92% số xã, phường.
- 1990-2000: Triển khai chương trình thanh toán bại liệt và loại trừ uốn
ván sơ sinh, tiếp tục duy trì tỷ lệ tiêm chủng đạt được.
Tiêm chủng mở rộng có ý nghĩa rất lớn về kinh tế, chính trị, xã hội và
quan hệ quốc tế. Năm 1988 chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện lời cam kết với Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc với mục tiêu là
80% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm, uống 6 loại vắc xin.
Trong những năm đầu, việc thực hiện tiêm chủng có rất nhiều khó
khăn song Đảng, nhà nước, cán bộ y tế và nhân dân dân ta đã cố gắng vượt
qua những trở ngại khó khăn đã đưa vaccine đến tận những vùng xa xôi, hẻo
lánh để tiêm chủng cho trẻ. Những nơi có điều kiện tổ chức tiêm chủng

thường xuyên, có thể vừa kết hợp tiêm chủng thường xuyên và tiêm chủng
chiến dịch. Tỷ lệ tiêm chủng được là 80% ở trẻ em trong độ tuổi tiêm chủng
trong cả nước là rất cao so với thực trạng nền kinh tế đất nước ta lúc bấy giờ.
Từ năm 1989 chuyển sang tiêm chủng thường xuyên kết hợp tiêm chủng
chiến dịch và đã duy trì tiêm chủng ở tỷ lệ cao [2],[7].
Trước năm 1985, điạ bàn thực hiện tiêm chủng chỉ giới hạn trong 1313
xã, phường thuộc 166 huyện, đến năm 1990 đã triển khai được ở 8933 xã,
thuộc 522 huyện trong cả nước. Đến năm 1995 toàn quốc đã xóa xã trắng về
TCMR. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm chủng ngày càng cao, những năm cuối
thế kỷ XX tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ luôn đạt trên 90%.
Bảng 1.1. Kết quả tiêm chủng những năm cuối thế kỷ XX
Năm Tỷ lệ tiêm chủng (%)
1997 95,28
1998 95,10
1999 93,46
2000 96,0
2002 96,65
2004 97,0
2007 97,65
Chương trình TCMR đã đạt được một số thành tích nhất định, Chính
phủ Việt Nam đã tuyên bố thanh toán bệnh bại liệt tháng 12 năm 2000. Phấn
đấu loại trừ uốn ván sơ sinh và khống chế bệnh sởi năm 2010. Tuy nhiên việc
bảo vệ thanh quả thanh toán bệnh bại liệt là rất khó khăn vì các nước xung
quanh Việt Nam còn lưu hành bệnh bại liệt. Uốn ván sơ sinh giảm rất nhiều
nhưng số mắc còn cao ở nhiều nước. Sởi vẫn là bệnh có số ca mắc cao ở cộng
đồng, đặc biệt là bệnh sởi đang quay trở lại và mắc bệnh ở những người lớn
của miền Bắc nước ta vào những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 [3],
[4], [6], [7].
Viêm gan vi rút B và viêm não Nhật Bản là những bệnh đang lưu hành
và đe dọa đến sức khỏe và tính mạng trẻ em…Những nguy cơ trên đòi hỏi

Việt Nam cần nổ lực hơn nữa trong việc thực hiện TCMR, không những phải
đảm bảo tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ mà còn phải đặc biệt chú trọng đến chất
lượng công tác tiêm chủng, an toàn tiêm chủng và quan trọng hơn nữa là tiêm
chủng đúng lịch.
Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo tất cả các nước cần đưa vaccine viêm
gan B vào chương trình TCMR cho trẻ em dưới 1 tuổi. Năm 1997, vaccine
viêm gan B được đưa vào chương trình tiêm chủng tại Việt Nam. Tuy nhiên,
hàng năm TCMR mới chỉ đủ vắc xin cho khoảng 20% số trẻ dưới 1 tuổi trong
cả nước [11]. Năm 2003 vắc xin viêm B đã được triển khai trên phạm vi toàn
quốc với sự giúp đỡ về vaccine, dụng cụ tiêm chủng của Liên minh toàn cầu
về vaccine tiêm chủng (GAVI).
1.5. Tình hình tiêm chủng mở rộng tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam là một tỉnh nằm ở miền trung trung bộ dân số 1.489.279
người, toàn tỉnh có 2 thành phố (Tam Kỳ, Hội An) và 16 huyện, trong đó có 8
huyện miền núi và 8 huyện đồng bằng. Phía Đông giáp biển đông, Phía Tây
giáp nước bạn Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi huyện Nam Đông Thừa
Thiên-Huế. Chương trình TCMR được triển khai 100% các xã trong toàn tỉnh,
trong đó ở 8 huyện miền núi có tình hình kinh tế và dân trí còn thấp, đường sá
đi lại rất khó khăn gây ảnh hưởng lớn đến việc triển khai các chương trình y
tế Quốc Gia nói chung và chương trình TCMR nói riêng. Chỉ tiêu tiêm chủng
đầy đủ của các huyện miền núi còn thấp, tuy vậy nhưng ngành y tế toàn tỉnh
đã thực hiện tiêm chủng đầy đủ trong năm 2008, tỷ lệ BCG đạt 90,4%; tiêm
chủng đầy đủ đạt 89,9%, tiến độ cao hơn so với năm 2007 (84,7%). Tỷ lệ
tiêm VG B1 < 24h đạt 9,9% còn thấp so với chỉ tiêu 40%; là do các sự cố xảy
ra trùng hợp sau tiêm chủng, chính điều này cũng ảnh hưởng kết quả VG B3.
Bộ y tế đã có công văn chỉ đạo các bệnh viên tiếp tục triển khai tiêm VG B1
trong vòng 24h [1]. Chỉ đạo của Sở Y tế trong những năm đến toàn tỉnh duy
trì thành quả thanh toán bại liệt năm 2000, bảo vệ thành quả loại trừ uốn ván
sơ sinh năm 2005, 100% các huyện đạt tỷ lệ UVSS < 1/1.000 trẻ sống, giảm
tỷ lệ mắc sởi < 0,8 < 100.000 dân, giảm tỷ lệ mắc Bạch hầu < 0,05/100.000

dân, giảm tỷ lệ mắc Ho gà xuống < 0,5/100.000 dân, tỷ lệ phát hiện LMC >
1/100.000 trẻ 15 tuổi, phát hiện nghi sởi > 2/100.000 dân, 100% ca bệnh trong
chương trình được điều tra giám sát [5].
1.6. Tình hình tiêm chủng mở rộng của huyện Đông Giang.
Đông Giang là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Quảng
Nam, phía Đông giáp huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng, phía Tây giáp
huyện Nam Giang, phía Bắc giáp huyện Tây Giang tỉnh Quảng Nam và huyện
Nam Đông Thừa Thiên- Huế, dân số 23.390.000 người, chủ yếu là người dân
tộc CơTu sống bằng nghề nông. Huyện có 11 xã, trình độ dân trí thấp, thu
nhập kém, gây ảnh hưởng lớn đến tình hình TCMR của huyện.
1.6.1. Kết quả TCMR tại huyện Đông Giang từ năm 2005-2008
Bảng 1.2. Tình hình TCMR tại huyện Đông Giang 2005-2008
Năm Tổng số trẻ
Tiêm chủng đầy
đủ
Tỷ lệ %
2005 470 452 96,1
2006 474 465 98,1
2007 482 471 97,7
2008 428 386 90,2
Chương trình TCMR được triển khai rộng khắp, tiêm chủng thường
xuyên ở toàn huyện. Kết quả tổng kết tình hình tiêm chủng của huyện từ
2005-2008, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ được duy trì trung bình đạt 97,35%.
1.7. Dịch tễ học 7 bệnh truyền nhiễm trong chương trình TCMR
1.7.1. Bệnh Sởi:
Sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi rút sởi thuộc họ Paramixovirut
influenzae, giống Morbillivirut gây nên, bệnh thường gặp ở trẻ em. Bệnh lây
qua đường hô hấp gây ra. Trong năm 2001, ước tính khoảng 30 triệu trường
hợp mắc sởi trên thế giới và 745.000 trường hợp tử vong có liên quan tới
bệnh sởi. Bệnh sởi gây tử vong cao hơn so với các bệnh khác trong chương

trình TCMR. Việt Nam đạt mục tiêu phòng chống sởi vào năm 1995 và cam
kết thực hiện mục tiêu loại trừ sởi vào năm 2010. TCMR cũng đặt ra mục tiêu
đến năm 2010, Việt Nam sẽ loại trừ bệnh sởi, do vậy ngay từ năm 2006, việc
tiêm nhắc vaccin sởi mũi 2 đã được đưa vào lịch tiêm chủng thường xuyên
cho trẻ bắt đầu vào lớp 1 [27],[30].
1.7.2. Bại liệt
Bệnh thường nhận biết qua liệt mềm cấp, nhiễm vi rút bại liệt xảy ra ở
đường tiêu hóa, sau đó lan ra đến đường bạch hầu huyết vùng, số ít các trường
vi rút đến hệ thần kinh, liệt mềm cấp xảy ra dưới 1% trường hợp. 90% là
nhiễm thể ẩn hoặc sốt không có đặc trưng liệt cơ hô hấp hoặc cơ nuốt dễ dẫn
đến tử vong có thể liệt sẽ giảm nhẹ trong thời kỳ phục hồi nhưng nếu tồn tại
liệt sau 60 ngày thì liệt này có thể vĩnh viễn [13].
Cách thức lây truyền từ người sang người, chủ yếu qua đường phân –
miệng, đôi khi thực phẩm và các thức ăn khác bị nhiễm phân là vật truyền
bệnh. Với đặc điểm trên, bệnh bại liệt là một trong những bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm ở trẻ em, nếu mắc có thể bị tử vong hoặc tàn phế suốt đời, là gánh
nặng cho gia đình và xã hội.
Do kết quả của chương trình TCMR và sáng kiến của Tổ chức Y tế thế
giới về thnh toán bệnh bại liệt toàn cầu, số nước có vi rút bại liệt hoang dại
ngày càng giảm.
Bệnh xảy ra quanh năm và ở mọi lứa tuổi, chủ yếu bệnh của trẻ em, 70
– 80 % các trường hợp mắc bệnh là trẻ dưới 3 tuổi. Ghi nhận những trường
hợp bại liệt qua báo cáo hang năm của thế ngày càng giảm.
Việt Nam đã được Tổ chức Y tế thế giới công nhận đã thanh toán được
bệnh bại liệt vào năm 2000. Tuy nhiên công tác duy trì tỷ lệ uống vaccine bại
liệt đầy đủ cho trẻ mới sinh và giám sát các trường hợp liệt mềm cấp (LMC)
vẫn duy trì để phát hiện sớm những trường hợp từ vùng khác xâm nhập vào
để đề ra các giải pháp chống dịch thích hợp.
1.7.3. Uốn ván
Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng do vi rút Clostridium tetani gây ra.

Vi khuẩn phát triển tại các ngõ vào (các vết thương, cuống rốn trẻ sơ sinh) tiết
ra những độc tố làm tổn thương những tế bào thần kinh vận động của thần
kinh trung ương gây ra co cứng và co giật toàn thân. Mọi người đều có thể
mắc bệnh uốn ván. Ở các nước công nghiệp phát triển bệnh tương đối ít gặp
và có tính chất tản phát. Tỷ lệ chết/mắc tăng theo tuổi từ 27% ở những người
40- 49 tuổi cho tới 80% ở những người trên 80 tuổi [22].
Trên thế giới hàng năm có khoảng 500.000 trẻ em chết vì uốn ván sơ
sinh, cứ mỗi phút có 1 trẻ em chết [18]. Đặc biệt tình hình mắc uốn ván sơ
sinh tại Việt Nam cũng như các nước đang phát triển có tỷ lệ chết/ mắc uốn
ván sơ sinh rất cao.
1.7.4. Bạch hầu
Bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng cấp tính do vi khuẩn
Corynebacterium diphtheria gây ra. Bệnh lây do tiếp xúc với người bệnh hoặc
người lành mang trùng qua đường hô hấp, có thể lây do tiếp xúc với đồ vật
có dính chất bài tiết từ chỗ tổn thương của người bị nhiễm khuẩn, sữa tươi
sống, có thể là một phương tiện lây truyền.
Bạch hầu gây ra nhiều biến chứng do độc tố, nhất là biến chứng viêm
cơ tim đưa đến tử vong cao, viêm giác mạc, nghẽn đường thở hoặc gây liệt
thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên, tỷ lệ tử vong trong vòng 50
năm nay ít thay đổi, tỷ lệ từ 5-10% [22].
Bệnh xảy ra trên toàn cầu, cao nhất vào mùa thu, bệnh xuất hiện 80% ở
trẻ dưới 15 tuổi không được tiêm chủng. Những năm đầu thập kỷ 80 của thế
kỷ XX tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu tăng lên ở Liên Xô cũ bởi ví chương trình
chủng ngừa vắc xin cho trẻ em bị phá vỡ. Bắt đầu từ năm 1990 dich bạch hầu
đã xảy ra ở Nga và Ucraina. Ở nước ta theo số liệu của Viện Vệ sinh Dịch tễ
Trung Ương, con số mắc trung bình hàng năm từ 1976- 1980 là 3,02 %, từ
1981- 1983 số mắc tăng lên 5,4 %.
1.7.5. Ho gà
Ho gà là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp do vi khuẩn
Bordetella pertusis gây nên, là một bệnh phổ biến ở mọi nơi trên thế giới nhất

là vùng khí hậu ôn đới. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng thường vào mùa đông
xuân.
Ho gà lây trực tiếp từ người qua người như trong cùng một gia đình,
trường học, gây mạnh nhất vào giai đoạn viêm long, giảm dần tuần thứ ba sau
khi bắt đầu ho, không có tình trạng mang mầm bệnh mãn tính.
Biến chứng của bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ và dễ gây tử vong, đặc biệt
ở trẻ còn bú, càng nhỏ càng tử vong cao, co giật có thể xảy ra do giảm cung
cấp oxy cho não trong cơn ho hoặc do độc tố vi khuẩn, biến chứng nhẹ hơn là
viêm tai giữa và mất nước.
Tại Việt Nam tỷ lệ mắc giảm nhiều sau khi triển khai chương trình
TCMR. Năm 2000 có 1.426 trường hợp, năm 2001 có 1125 trường hợp.
Phòng bệnh ho gà cho trẻ nhỏ hiệu quả nhất là gây miễn dịch cho tất cả trẻ em
dưới 1 tuổi.
1.8.6. Bệnh Lao
Lao là một bệnh nhiễm trùng mang tính chất xã hội hiện vẫn còn tồn tại
khá phổ biến trên thế giới. Bệnh do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây
ra, là nguyên nhân chính gây tử vong và tàn tật cho người mắc phải ở nhiều
nơi trên thế giới.
Có sự khác biệt giữa nhiễm Lao và bệnh lao, người nhiễm lao không có
biểu hiện bệnh. Sự nhiễm lao có thể kéo dài suốt đời và người nhiễm lao có
thể không bao giờ phát bệnh. Những người mang vi rút lao không mắc bệnh
và không gây nhiễm lao cho người khác [17].
Bệnh lao lây truyền qua đường hô hấp khi người mắc bệnh lao ho hoặc
hắt hơi, mầm bệnh phát tán vào không khí. Người hít phải không khí có vi
khuẩn lao có thể bị nhiễm lao. Ở một vài nơi người ta có thể bị nhiễm lao từ
súc vật bị bệnh do dung sữa không tiệt trùng có chứa vi trùng lao.
Khoảng 2 tỷ người mắc bệnh lao trên thế giới, hơn 3 triệu người chết
vào năm 1995 [17], hang năm có khoảng 8 triệu trường hợp mắc mới và làm
2,9 triệu người tử vong do bệnh lao [28]. Tỷ lệ mắc và mắc tử vong tăng lên
theo độ tuổi, người già tỷ lệ mắc/ chết cao hơn, nam cao hơn nữ. Tỷ lệ mắc

bệnh lao ở người nghèo cao hơn nhiều và thành thị cao hơn nông thôn. Đối
với những trẻ bị nhiễm lao, nguy cơ tiến triển thành bệnh là 10%.
Việc sử dụng rộng rãi vaccine BCG trên thế giới đã trở thành biện pháp
phòng lao có hiệu quả cho trẻ em nhất là trong nhiễm khuẩn lao cấp tính. Sự
chủng ngừa BCG bảo vệ trên 70% trẻ chống lại sự nhiễm trùng lao, tiếp theo
sau trong vòng từ 10-15 năm.
1.7.7. Viêm gan siêu vi B
Sự phân chia các vùng dịch tễ nhiễm siêu vi viêm gan B chủ yếu dựa
vào tỷ lệ người mang HBsAg, anti HBs. Việt Nam được xếp vào vùng dịch
lưu hành cao với tỷ lệ HBsAg từ 15-20% theo một số nghiên cứu của các tác
giả như Trần Thị Chính, Phạm Hoàng Phiệt, Nguyễn Thu Vân [26].
Đường lây truyền của vi rút viêm gan B xảy ra ở những vùng dịch lưu
hành cao chủ yếu theo chiều dọc từ mẹ sang con, tình trạng nhiễm tăng dần
theo tuổi.
Những người mang vi rút mạn tính có khả năng bị xơ gan, viêm gan
mãn, ung thư gan nguyên phát. Việc điều trị viêm gan siêu vi B vẫn còn hạn
chế. Do đó, biện pháp phòng ngừa bằng cách chủng ngừa vaccine viêm gan B
là biện pháp tích cực nhất.
Căn cứ vào tình hình dịch tễ của viêm gan siêu vi B, trong khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương đã đưa ra khuyến cáo:
- Trẻ sơ sinh < 10 tuổi không cần xét nghiệm trước khi tiêm chủng.
- Trẻ > hoặc bằng 10 tuổi và người lớn cần xét nghiệm HBsAg (-) thì
tiếp tục thử anti HBs.
Thử anti HBs: Nếu anti HBs (-) thì chủng ngừa; nếu (+) thì không chủng
ngừa. Hàm lượng anti HBs < 10 IU/ml thì không có giá trị bảo vệ khỏi nhiễm
mới vi rút viêm gan B.
Chính phủ Việt Nam quyết định đưa vaccine viêm gan B do Việt Nam
sản xuất (Thế hệ I) vào chương trình TCMR cho trẻ em < 1 tuổi từ năm 1997.
Tuy nhiên, từ năm 1997- 2001 số lượng vaccine viêm gan B trong chương
trình cũng chỉ mới phủ được 1/6 trẻ sơ sinh trong diện được tiêm chủng. Từ

năm 2002 với sự tài trợ của tổ chức GAVI và trong nước thì có 6-8 triệu liều
vaccine mỗi năm, đáp ứng nhu cầu của trẻ trong diện tiêm chủng [29].
1.8. Các loại vaccine được dùng trong chương trình TCMR
1.8.1. Vaccine BCG (Bacillus camette Guerin)
Vaccine được tạo ra bằng cách cấy truyền vi khuẩn lao nhiều lần trên
môi trường mật bò. Vi khuẩn lao còn sống nhưng rất yếu, không có khả năng
gây bệnh nhưng vẫn có vai trò kháng nguyên. BCG là vaccine đông khô rất
nhạy cảm với ánh sáng và nhiệt độ. Vaccine rất bền vững nếu được bảo quản
ở nhiệt độ 20
0
C. Theo nghiên cứu mới đây của TCYTTG, hiệu lực của
vaccine BCG là 52 - 90% ở trẻ nhỏ.
1.8.2. Vaccine sabin (Bại liệt)
Được chế tạo từ vi rút bại liệt sống đã được xử lý để làm giảm độc tính.
Kolmer cho rằng cần thiết dung vaccine sống để đạt được miễn dịch [29]. Đó
là một chất lỏng màu hồng trong suốt, rất nhạy cảm với nhiệt độ và ánh sáng,
cần giữ nhiệt độ dưới 0
0
C trong quá trình vận chuyển và sử dụng.
Vaccine Sabin rất an toàn, nguy cơ bị bại liệt do uống vaccine (dưới 1
phần triệu) hết sức thấp so với nhiễm bệnh tự nhiên nếu không được cho uống
vaccine.
1.8.3. Vaccine Bạch hầu-Ho gà-Uốn ván (BH-HG-UV)
Đây là vaccine phối hợp gồm 3 thành phần vaccine phòng bệnh bạch
hầu, ho gà và uốn ván.
- Giải độc tố bạch hầu (BH) là độc tố bạch hầu bất hoạt.
- Vi khuẩn ho gà (HG) chết.
- Giải độc tố uốn ván (UV) là độc tố bất hoạt.
Vaccine rất nhạy cảm với nhiệt độ thấp, nhiệt độ dưới 1
0

C làm cho
vaccine đông băng, nhiệt độ cao phá hủy thành phần vaccine ho gà còn thành
phần bạch hầu và uốn ván chịu đựng tốt hơn. Hiệu lực của vaccine khá cao
khi tiêm đủ 3 liều, cần hoàn thành đủ 3 mũi tiêm trước khi trẻ đủ 12 tháng
tuổi.
1.8.4. Vaccine Sởi
Vaccine sởi được chế tạo từ vi rút sởi sống đã làm giảm độc lực.
Vaccine sởi nhạy cảm với nhiệt độ cao, cần bảo quản nhiệt độ đông lạnh.
Dung môi cũng cần bảo quản ở nhiệt độ 2- 8
0
C.
Hiệu lực của vaccine sởi khá cao (95%). Hiệu lực cao nhất nếu tiêm
cho trẻ đúng lúc từ 9-12 tháng tuổi.
1.8.5. Vaccine viêm gan B
Từ những năm 1980, vaccine viêm gan B lần đầu tiên có mặt trên thế
giới. Các vaccine viêm gan B đã sử dụng kháng nguyên bề mặt của siêu vi
viêm gan B (HBsAg) có độ tinh khiết cao. Cho đến nay đã có ba thế hệ
vaccine viêm gan B tùy theo tính chất của kháng nguyên HBsAg.
Vaccine thế hệ I điều chế HBsAg từ huyết tương người lành mang
HBsAg (gồm kháng nguyên S, tiền S1 và S2), vaccine này có ưu điểm hiệu
quả bảo vệ cao và giá thành thấp, tuy nhiên do nguồn kháng nguyên cạn kiệt
và tính an toàn nên vaccine thế hệ II ra đời.
Ví dụ: Vaccine viêm gan B thế hệ I do Viện Vệ sinh Dịch tễ Hà Nội sản xuất
và ứng dụng trong chương trình TCMR năm 1997.
Vaccine thế hệ II là vaccine tái tổ hợp sản xuất do công nghệ di truyền.
Cài đặt một gen mã hóa tổng hợp HBsAg vào một véc tơ (các plasmid khác
nhau), sau đó chuyển nạp chúng vào một trong các tế bào nấm men (S.
cerevisiae, H. polymorpha, P. pastoris). Tuy nhiên có khoảng 5-15% số người
tiêm vaccine này không có đáp ứng miễn dịch.
Ví dụ: Vaccine Hepavac-gen, Engerix-B, Recombivac,…v.v.

Vaccine thế hệ III sản xuất dựa trên công nghệ di truyền giống thế hệ
II, nhưng ngoài kháng nguyên S còn có kháng nguyên tiền S1 và tiền S2; cho
hiệu quả bảo vệ cao hơn. Đoạn gen tổng hợp được đưa vào tế bào tr ứng chuột
vàng Trung Quốc, loại vaccine này có tính miễn dịch cao và an toàn. Sự phát
triển của các thế hệ vaccine nhằm mục đích tăng cường đáp ứng tạo kháng thể
với nồng độ cao, bảo đảm an toàn, giảm tỷ lệ thất bại sau tiêm chủng và bảo
vệ tránh đột biến về HBsAg [17], [20], [26]
1.9. Bảo quản dây chuyền lạnh
Bảng 1.2. Nhiệt độ và thời gian bảo quản vaccine
Tuyến Kho TW
Kho khu
vực
Kho tỉnh Vận chuyển
Thời gian bảo quản
tối đa
Cho đến
8 tháng
Cho đến
3 tháng
Cho đến
1 tháng
Cho đến 1
tuần
Vaccine
Sởi
Bại liệt
- 15
0
C đến - 25
0

C
BH-HG-UV
BCG
VGSVB
+ 2
0
C đến + 8
0
C
Tất cả các loại vaccine phải được bảo quản trong suốt thời gian từ nơi
sản xuất đến khi tiêm và uống.
Trang thiết bị và nhân lực bảo quản vaccine gọi là dây chuyền lạnh
(DCL). Hệ thống DCL rất quan trọng và cần thiết vì vaccine rất nhạy cảm với
nhiệt độ. Ba yếu tố cấu thành dây chuyền lạnh là: Trang thiết bị, con người và
các thao tác sử dụng.
Các loại vaccine nhạy cảm với nhiệt độ được xếp theo thứ tự từ cao đến
thấp như sau: Bại liệt – Sởi – BCG – Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván – Viêm
gan B. Vaccine bại liệt là loại vaccine nhạy cảm với nhiệt độ nhất, trong đó
vaccine Uốn ván lại ít nhạy cảm với nhiệt độ hơn cả. Nếu vaccine được bảo
quản ở nhiệt độ quy định, hiệu quả vaccine càng cao và lâu dài.
1.9.1. Hệ thống dây chuyền lạnh
Dây chuyền lạnh bao gồm nhiều công đoạn các khâu vận chuyển nối
tiếp kèm theo làm lạnh thích hợp nhằm bảo quản duy trì hiệu lực vaccine.
Nguy cơ DCL mất tác dụng sẽ tăng lên vì vaccine phải vận chuyển theo DCL
từ nơi sản xuất cho đến tận các đối tượng cần được tiêm phòng.
Dù tổ chức tại trạm y tế xã, thôn hay tiêm chủng lưu động thì nhân viên
y tế là người trực tiếp tiêm chủng cho trẻ em và các phụ nữ trong diện tiêm
chủng, vì vậy trước hết là thái độ trách nhiệm trong khâu nhận, bảo quản và
sử dụng vaccine.
1.9.2. Nhận vaccine

Hiện nay phần lớn phải nhận vaccine từ các trung tâm y tế huyện, có
thể nhận trực tiếp từ kho vaccine của trung tâm y tế dự phòng tỉnh, nếu tổ
chức tiêm chiến dịch. Đảm bảo lượng vaccine sử dụng trong buổi tiêm chủng
và trang thiết bị giữ lạnh số lượng vaccine sẽ nhận về.
Dự trù vaccin hàng tháng cách tốt nhất là xem sổ tiêm chủng trẻ em và
sổ tiêm chủng phụ nữ, đếm cụ thể bao nhiêu đối tượng được tiêm hay uống
cho từng loại vaccine. Sau đó, nhân số liều vaccine đếm được trong sổ với hệ
số sử dụng cho phép. Đối với vaccine BCG, hệ số sử dụng cho phép là 2. Các
loại khác, hệ số sử dụng cho phép là 1,3.
1.9.3. Bảo quản trang bị
Từ kho vaccine và dung môi có thể được giữ lạnh nhiều ngày nếu làm
tốt khâu bảo quản trong: Phíc lạnh, hòm lạnh, tủ lạnh…
- Phích vắc xin: Phích vaccine chỉ giữ lạnh nhiều nhất 1 ngày rưỡi
(36giờ) với điều kiện sử dụng cẩn thận và thao tác đúng. Phích vaccine chỉ
giữ lạnh vaccine nếu đặt bình tích lạnh hoặc đá vào cùng vaccine. Nên đặt
nhiệt kế vào cùng vaccine để biết nhiệt độ chính xác, nếu không có nhiệt kế
thì lấy đá chưa tan hết nghĩa là vaccine vẫn còn đủ lạnh. Không để vaccine
DPT và uốn ván tiếp xúc trực tiếp vào bình tích lạnh và đá. Để tránh đông và
làm hỏng vaccine cần đặt giấy ngăn cách. Có thể bỏ vaccine vào túi nilon để
giữ khô, không ướt và bong nhãn.
- Tủ lạnh: Cho đến nay các huyện, xã phường triển khai chương trình
TCMR đã được trang bị tủ lạnh dùng để bảo quản vaccine ở nhiệt độ quy định
làm đông băng các bình tích lạnh, phích vaccine, để các túi đá trong các cốc
vaccine giữ vaccine suốt buổi tiêm chủng để giữ lạnh. Yêu cầu sắp xếp các
vaccine trong tủ lạnh:
+ Vaccine sởi, bại liệt bảo quản ở ngăn đá, nhiệt độ dưới 0
0
C.
+ Vaccine BH-HG-UV, BCG, VGSV B, cùng dung môi bảo quản
ở ngăn mát, nhiệt độ ở đây là 4-8

0
C.
+ Không đặt vaccine vào ngăn ở cánh tủ (ở nơi đó không đủ lạnh).
+ Luôn đóng tủ lạnh, không mở quá 2-3 lần/ngày. Kiểm tra nhiệt độ
trong khoang chính 2 lần/ngày khi đến làm việc và trước khi về.
1.10. Lịch tiêm chủng mở rộng tại Việt Nam
1.10.1. Lịch TCMR cho trẻ em dưới 1 tuổi tại Việt Nam
Bảng 1.3. Lịch TCMR cho trẻ em dưới 1 tuổi tại Việt Nam
Vaccin
Tuổi
Sơ sinh 2 tháng 3 tháng 4 tháng 9 tháng
BCG x
OPV x x x
DPT x x x
Viêm gan B x x x
Sởi Xa
a Liều tiêm thứ 2 cần được tiêm cho tất cả trẻ em. Có thể đưa vào tiêm
chủng thường xuyên hoặc tổ chức thành những chiến dịch.
1.10.2. Lịch tiêm chủng vaccine uốn ván cho phụ nữ
Bảng 1.4. Lịch tiêm chủng vaccine uốn ván cho phụ nữ
Mũi 1:
Càng sớm càng tốt khi có thai lần đầu hoặc nữ 15- 35 tuổi ở
vùng có nguy cơ mắc uốn ván sơ sinh cao
Mũi 2: Ít nhất 4 tuần sau mũi 1
Mũi 3: Ít nhất 6 tháng sau mũi 2 hoặc trong thời kỳ có thai lần sau
Mũi 4: Ít nhất 1 năm sau mũi 3 hoặc trong thời kỳ có thai lần sau
Mũi 5: Ít nhất 1 năm sau mũi 4 hoặc trong thời kỳ có thai lần sau
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Trẻ em dưới 1 tuổi
Trẻ em được xác định trong nghiên cứu là trẻ sinh ra từ ngày 01 tháng
01 năm 2008 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008 ( tính theo ngày dương lịch).
2.1.2. Bà mẹ
Các bà mẹ có con trong diện tiêm chủng được chọn nghiên cứu để
phỏng vấn.
Các đối tượng trên hiện đang sống tại huyện Đông Giang, theo định
nghĩa của WHO thời gian được tính là đến và sinh sống tại huyện từ 3 th áng
trở lên.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
- Tất cả trẻ em dưới 1 tuổi ở huyện Đông Giang, gồm 428 trẻ em sinh
ra từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008.
- 428 bà mẹ có con dưới 1 tuổi.
2.3. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA
2.3.1. Công cụ thu thập thông tin
- Sổ quản lý chương trình TCMR, sổ vaccine tại các xã trong huyện
Đông Giang.
- Phiếu hoặc sổ tiêm chủng cá nhân của trẻ.
- Bộ câu hỏi phỏng vấn.
- Thước đo sẹo BCG.
2.3.2. Các biến số cần thu thập
* Biến số phụ thuộc
- Tiêm chủng đầy đủ của trẻ, gồm 02 giá trị: có và không tiêm chủng đầy
đủ.
- Trẻ được tiêm từng loại vaccin: BCG, DPT 1,2,3, Sabin 1,2,3, VGB
1,2,3.
- Sẹo BCG.

- Trẻ có phiếu tiêm chủng.
- Trẻ được quản lý trong sổ tiêm chủng.
* Biến số độc lập
- Kiến thức về tiêm chủng của bà mẹ là những kiến thức về lợi ích tiêm
chủng, lịch tiêm chủng, các bệnh có thể phòng được nhờ tiêm chủng, phản
ứng phụ sau khi tiêm
* Biến cố gây nhiễu
- Tuổi của mẹ, tính theo năm, có 2 giá trị:
- ≤ 30 tuổi
- > 30 tuổi
- Trình độ học vấn của mẹ, chia 3 nhóm có 2 giá trị:
+ Tiểu học
+ Trung học phổ thông + Trên trung học phổ thông
- Số con của bà mẹ, phân 2 nhóm có giá trị:
+ ≤ 2 con
+ ≥ 3 con
- Nghề nghiệp của mẹ, biến định tính, chia 3 nhóm có 3 giá trị:
+ CBCNV
+ Buôn Bán
+ Làm ruộng, làm thuê, nghề khác
2.4.THU THẬP SỐ LIỆU
Tiến hành đồng thời kiểm tra trẻ và phỏng vấn mẹ bằng bộ câu hỏi, thực
hiện phỏng vấn vào những thời điểm phù hợp với đối tượng để đảm bảo cả
mẹ và trẻ đều có mặt ở nhà, như điều tra vào những ngày nghỉ cuối tuần.
Kết hợp vừa kiểm tra phiếu tiêm chủng của trẻ vừa phỏng vấn trực tiếp
bà mẹ nhằm thu thập thông tin về kiến thức của bà mẹ đối với tiêm chủng mở
rộng.
Xác định tiêu chuẩn tiêm chủng đầy đủ và không đầy đủ.
Xác định tiêu chuẩn tiêm chủng đầy đủ khi trẻ trong năm đầu được
tiêm 8 liều, uống 3 liều và có sẹo BCG đạt tiêu chuẩn. Trẻ tiêm chủng không

đầy đủ xác định là khi có 1 trong số 8 liều không được tiêm, uống hoặc trẻ
không được tiêm chủng. Để xác định tiêu chuẩn này cần dựa vào: phiếu tiêm
chủng, sổ tiêm chủng và phỏng vấn.
Kiểm tra phiếu tiêm chủng của trẻ
- Số trẻ còn giữ được phiếu tiêm chủng.
- Số trẻ mất phiếu tiêm chủng hoặc không có phiếu tiêm chủng có thể
có các lý do sau:
+ Không tới các cơ sở y tế để tiêm chủng.
+ Cán bộ y tế không cấp phiếu tiêm chủng.
- Trẻ mất phiếu tiêm chủng:
+ Nếu bà mẹ hoặc người thân trong gia đình trả lời rõ ràng không
chần chừ là trẻ có đến trạm y tế để tiêm vaccin 8 lần và uống vaccin 3 lần thì
có thể đánh giá bước đầu trẻ được tiêm chủng đầy đủ (TCĐĐ).
+ Nếu trả lời không rõ thì kiểm tra sổ quản lý chương trình tiêm
chủng tại trạm y tế xã.
* Nếu có tên trẻ, tên mẹ cùng địa chỉ và ghi đầy đủ các mũi tiêm
vaccin kèm theo trẻ có sẹo BCG đạt tiêu chuẩn thì đánh giá bước đầu TCĐĐ.
* Nếu thiếu 1 hoặc nhiều mũi tiêm thì đánh giá tiêm chủng không
đầy đủ (TCKĐĐ).
* Nếu không có tên trẻ trong sổ quản lý chương trình thì đánh giá trẻ
không được tiêm chủng.
Kiểm tra sẹo BCG
- Sẹo BCG đạt chuẩn của CTTCMR: Nằm ở cơ Delta trên cánh tay
trái của trẻ, sẹo có đường kính từ 3 - 5 mm, bờ không nhăn nhúm, mặt sẹo
phẳng hoặc hơi lõm. Sẹo đạt tiêu chuẩn của CTTCMR chứng tỏ tiêm đúng
liều lượng, đúng kỹ thuật, vaccin bảo quản tốt.
- Sẹo không đạt tiêu chuẩn: đường kính < 3 mm và không đạt các yêu
cầu trên.
- Không có sẹo BCG.
Trong quá trình kiểm tra sẹo BCG cần đánh giá phản ứng phụ sau khi

tiêm BCG, hay gặp nhất là hạch phản ứng sau tiêm chủng, hạch phản ứng có
thể ở nách, cổ.
Đánh giá tình trạng tiêm chủng của trẻ dựa vào kết quả điều tra
- Có phiếu tiêm chủng
+ Tiêm chủng đầy đủ: trẻ có phiếu, TCĐĐ các loại vaccin và sẹo
BCG đạt tiêu chuẩn thì đánh giá trẻ được TCĐĐ.
+ Tiêm chủng không đầy đủ
∗ Trẻ có phiếu TCĐĐ kèm theo sẹo BCG không đạt tiêu chuẩn
hoặc không có sẹo BCG thì đánh giá trẻ TCKĐĐ.
∗ Trẻ có phiếu tiêm chủng ghi không đầy đủ và có sẹo BCG không
đạt tiêu chuẩn hoặc không có sẹo BCG thì đánh giá trẻ TCKĐĐ.
- Không có phiếu tiêm chủng
+ Tiêm chủng đầy đủ
∗ Trẻ có cha, mẹ trả lời đầy đủ (8 lần tiêm, 3 lần uống) cộng với có
sẹo BCG đạt tiêu chuẩn.
∗ Trẻ có cha, mẹ trả lời không nhớ rõ, kiểm tra sẹo BCG đạt tiêu
chuẩn và tiến hành kiểm tra đối chiếu với sổ quản lý chương trình TCMR tại
trạm y tế xã để đánh giá.
+ Tiêm chủng không đầy đủ
∗ Trẻ có cha, mẹ trả lời đầy đủ trẻ được tiêm 8 lần, uống 3 lần kèm
theo sẹo BCG không đạt tiêu chuẩn hoặc không có sẹo BCG.
∗ Kiểm tra sổ quản lý chương trình TCMR tại xã ghi đầy đủ số lần
tiêm và uống 7 loại vaccin kèm theo sẹo BCG không đạt tiêu chuẩn hoặc
không có sẹo BCG.
+ Trẻ không được tiêm chủng: Trẻ không có phiếu tiêm chủng và
không có sẹo BCG.
Đánh giá kiến thức của bà mẹ về tiêm chủng mở rộng
- Biết đúng lợi ích của tiêm chủng: Khi bà mẹ trả lời tiêm chủng để
phòng bệnh.
- Biết đúng lịch tiêm chủng: Nếu bà mẹ trả lời đúng thời gian tiêm

và số lần tiêm .
- Biết đúng các bệnh phòng được nhờ TCMR: Nếu bà mẹ kể tên đầy
đủ 7 bệnh truyền nhiễm: Bại liệt, Sởi, Lao, Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván, Viêm
gan B.
- Biết các phản ứng phụ sau tiêm chủng
2.4.1. Công tác chuẩn bị
Lập kế hoạch và hướng dẫn mẫu điều tra cho điều tra viên cách ghi
chép số liệu và cách phỏng vấn theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn gồm:
- Cán bộ chuyên trách, cán bộ làm công tác tiêm chủng mở rộng
của trung tâm y tế huyện.
- Cán bộ chuyên trách, cán bộ làm công tác tiêm chủng mở rộng
của trạm y tế xã.
- Các cộng tác viên SDD và nhân viên y tế thôn bản ở các thôn.

×