Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đánh giá tình hình tuân thủ điều trị thuốc kháng retrovirus ở bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện Nhi Đồng 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.93 KB, 9 trang )

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ THUỐC KHÁNG
RETROVIRUS Ở BỆNH NHI NHIỄM HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN NHI
ĐỒNG 1
Mai Đào Ái Như*, Đòan Thị Ngọc Diệp**, Trương Hữu Khanh***

TÓM TẮT
Tuân thủ điều trị là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của việc điều trị thuốc
ARV. Không tuân thủ điều trị sẽ dẫn đến tình trạng kháng thuốc của HIV.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV ở trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại bệnh viện Nhi đồng 1
năm 2008 và tìm sự liên quan giữa việc tuân thủ điều trị với một số yếu tố dịch tễ, lâm sàng của bệnh nhi và một
số yếu tố dịch tễ, tâm lý xã hội của người chăm sóc của bệnh nhi.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Phỏng vấn trực tiếp người nuôi dưỡng trẻ theo bản câu hỏi
sọan sẵn và tham khảo hồ sơ bệnh án để đánh giá sự tuân thủ và các yếu tố có liên quan đến sự tuân thủ. Đối
tượng nghiên cứu gồm các bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị với thuốc ARV tại Phòng khám B7 –
Bệnh viên Nhi Đồng I TP Hồ Chí Minh và người chăm sóc của các bệnh nhi này.
Kết quả: Có 213 bệnh nhi và người chăm sóc được đưa vào nghiên cứu. Qua phỏng vấn, kết quả cho thấy,
tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 3 ngày qua là 94,4% và tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong thời
gian điều trị ARV là 73,2%. Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV theo ghi nhận từ hồ sơ bệnh án là 74,6%. Tỷ lệ
bệnh nhi có tuân thủ điều trị thuốc ARV theo sự kết hợp của 3 điều kiện nêu trên là 57,7%.
Các yếu tố có liên quan có ý nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị khi phân tích đơn biến là: thời gian điều
trị ARV của bệnh nhi, phác đồ ARV bệnh nhi đang dùng, số lượng thuốc ARV dạng si-rô bệnh nhi uống mỗi
ngày, số lượng những khó khăn của người chăm sóc khi cho trẻ uống thuốc ARV. Các yếu tố có liên quan có ý
nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị khi phân tích đa biến là: thời gian điều trị ARV của bệnh nhi, số lượng
những khó khăn của người chăm sóc khi cho trẻ uống thuốc ARV.
Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV ở trẻ em là khá thấp. Thời gian điều trị càng dài, khả năng tuân thủ
càng thấp. Người chăm sóc trẻ có càng nhiều khó khăn thì khả năng tuân thủ càng thấp. Những bệnh nhi điều trị
ARV lâu dài nên được tìm hiểu những khó khăn phát sinh trong việc cho bệnh nhi uống thuốc ARV và người
chăm sóc cần được giúp đỡ giải quyết những khó khăn đó. Việc tham vấn tuân thủ trước và trong khi điều trị
thuốc ARV nên thực hiện theo đúng quy trình và thời gian của chương trình phòng chống AIDS quốc gia.

ABSTRACT


ADHERENCE TO ANTIRETROVIRAL THERAPY (ART) IN HIV/AIDS PATIENTS
AT CHILDREN HOSPITAL 1
Mai Dao Ai Nhu, Doan Thi Ngoc Diep, Truong Huu Khanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 212 - 218
Backround: Adherence to ART is essential for therapy success.
Objectives: Determine the rate of adherence to ART in HIV/AIDS patients in Children Hospital 1 and the
corelation between the socio- psychological factors of patients and care-givers and the adherence.
Methode: Cross-sectional study, interviewing the care-givers with the questionnaires and to refer to the
* Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, ** Đại học Y Dược TP HCM,
*** Khoa Nhiễm - Thần Kinh, BV Nhi Đồng 1

Chuyên Đề Nhi Khoa

1


medical records to determine the adherence and the determinants of the adherence
Results: There were 213 HIV/AIDS children and their care-givers enrolled to the study. Adherence rate to
ART is 94.4% when interviewing care-givers about adherence in the past three days. Adherence rate is 73.2%
when interviewing care-givers about adherence during the ART time of patients. Adherence rate is 74.6% when
assessing the comments on adherence in patients’records. Adherence rate is 57.7% when combining three
conditions. The factos associate with adherence are: length of ART time of patients, ART regimen of patients,
quantity of daily antiretroviral sirop of patients, quantity of difficulties of care-givers when giving ART to
patients. The factors associate with adherence on logistic regression analysis are: length of ART time of patients,
quantity of difficulties of care-givers when giving ART to patients.
Conclusion: Adherence rate to ART in children is relatively low. Adhrence of patients with long ART time
should be monitored in order to help their care-givers deal with difficulties. Adherence consultation should be done
more carefully.
lý xã hội của bệnh nhi và người chăm sóc có liên
ĐẶT VẤN ĐỀ

quan đến sự tuân thủ.
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
Tiêu chí chọn mẫu
(Acquired Immunodeficiency Syndromes-AIDS)
Bệnh nhi nhiễm HIV/ AIDS đã điều trị ARV
do virus gây suy giảm miễn dịch ở người
và đến tái khám tại phòng khám B7 Bệnh viện
(Human Immunodeficiency Virus-HIV) ngày
Nhi đồng 1 từ tháng 3/2008 đến 6/2008.
nay đã trở thành một đại dịch toàn cầu với số
lượng bệnh nhân ngày càng tăng, trong đó có
Tiêu chí loại ra
nhiều trẻ em. Việc điều trị thuốc kháng
Người chăm sóc (NCS) không đồng ý trả lời
retrovirus (Antiretroviral-ARV) giúp cải thiện về
phỏng vấn. Người đưa bệnh nhi đến tái khám và
mặt virus học, miễn dịch học cũng như lâm sàng
lãnh thuốc ARV không phải là NCS thường
của bệnh nhân. Sự thành công của việc điều trị
xuyên của bệnh nhi.
thuốc ARV phụ thuộc phần lớn vào sự tuân thủ
Cỡ mẫu
điều trị. Tại Việt Nam, chương trình khám và
N=(Z21-α/2 p (1-p))/d2, với p=0,84 (Tỷ lệ tuân
điều trị thuốc ARV miễn phí cho trẻ em bắt đầu
thủ đầy đủ thuốc ARV trong 3 ngày qua ở trẻ em
từ năm 2006. Muốn nâng cao hiệu quả của việc
trong nghiên cứu của Williams và CS, với
điều trị, chúng ta cần biết mức độ tuân thủ điều
phương pháp đánh giá tuân thủ bằng bảng câu

trị thuốc ARV trên những bệnh nhi này như thế
hỏi cho người chăm sóc(16)), Z1-α/2=1,96, d=0,05.
nào. Hiện tại chưa có nghiên cứu nào về vấn đề
Vậy N=207.
này được thực hiện tại Việt Nam. Vì vậy, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này để xác định tỷ lệ
tuân thủ điều trị thuốc ARV ở trẻ em nhiễm
HIV/AIDS và sự liên quan giữa việc tuân thủ
điều trị với một số yếu tố dịch tễ, lâm sàng của
bệnh nhi và một số yếu tố dịch tễ, tâm lý xã hội
của người chăm sóc của bệnh nhi.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả. Phỏng vấn trực tiếp người
chăm sóc trẻ và tham khảo hồ sơ bệnh án để
đánh giá sự tuân thủ và xác định các yếu tố tâm

Chuyên Đề Nhi Khoa
2

Định nghĩa biến số: Tuân thủ điều trị
- Bệnh nhi được xem là có tuân thủ điều trị
thuốc ARV trong 3 ngày trước thời điểm phỏng
vấn NCS nếu NCS trả lời rằng không quên cho
bệnh nhi uống một liều thuốc ARV nào trong 3
ngày qua.
- Bệnh nhi được xem là có tuân thủ điều trị
thuốc ARV trong suốt thời gian điều trị thuốc
ARV nếu NCS trả lời phỏng vấn là không bao

giờ quên cho bệnh nhi uống liều thuốc ARV nào
trong suốt thời gian điều trị thuốc ARV.


- Không tái khám đúng hẹn
- Bỏ tái khám
- Không uống thuốc đủ liều
- Uống thuốc không đúng cách
- Tuân thủ kém
- Bệnh nhân ói tự ngưng thuốc
- Làm mất thuốc
- Thiếu thuốc
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá
bệnh nhi có tuân thủ điều trị thuốc ARV nếu
bệnh nhi thỏa cả 3 điều kiện:
(1) Bệnh nhi tuân thủ điều trị ARV trong 3
ngày trước phỏng vấn và
(2) Bệnh nhi tuân thủ điều trị trong suốt thời
gian điều trị ARV và
(3) Bệnh nhi tuân thủ điều trị theo ghi nhận
từ hồ sơ bệnh án.
Chúng tôi sử dụng tỷ lệ tuân thủ điều trị
thuốc ARV theo 3 điều kiện kết hợp này trong
các phân tích đơn biến và đa biến tìm mối liên hệ
giữa sự tuân thủ điều trị với các yếu tố liên quan
của bệnh nhi và người chăm sóc.

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 6 năm
2008, chúng tôi đã tiến hành khảo sát hồ sơ bệnh

án của 213 bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS lây truyền
từ mẹ sang con và phỏng vấn 213 NCS của các
bệnh nhi này.

Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV
(1) Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 3
ngày qua là 94,4% (201/213 trường hợp).
(2) Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong
thời gian điều trị ARV là 73,2% (156/213 trường
hợp).

(3) Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV theo
ghi nhận từ hồ sơ bệnh án là 74,6% (159/213
trường hợp).
Tỷ lệ bệnh nhi có tuân thủ điều trị thuốc
ARV theo sự kết hợp của 3 điều kiện là 57,7%
(123/213 trường hợp).

Các yếu tố thuộc về bệnh nhi và sự tuân
thủ điều trị thuốc ARV
Thời gian bắt đầu điều trị thuốc ARV
Có 3 trường hợp không ghi nhận thời gian
bắt đầu điều trị trong hồ sơ bệnh án nên chỉ có
210 trường hợp được thu thập biến số này. Thời
gian điều trị thuốc ARV trung bình là 13 tháng,
ngắn nhất là 1 tuần, dài nhất là 4,6 năm. Bệnh
nhân có thời gian điều trị thuốc ARV dài nhất đã
được điều trị ARV tại một cơ sở khác trước khi
tham gia điều trị tại phòng khám Bệnh viện Nhi
đồng 1, vốn chỉ mới hoạt động từ tháng 3 năm

2006. Chúng tôi thấy rằng những bệnh nhi
không tuân thủ điều trị có thời gian điều trị
trung bình là 15 tháng. Thời gian này dài hơn
một cách có ý nghĩa thống kê so với thời gian
điều trị trung bình của những bệnh nhi có tuân
thủ điều trị là 9 tháng (p<0,01; t-test).
Phác đồ thuốc ARV bệnh nhi sử dụng
Chúng tôi nhận thấy có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa phác đồ thuốc ARV của
bệnh nhi và sự tuân thủ điều trị (p<0,05, χ2).
Bảng 1: Phân bố sự tuân thủ điều trị theo phác đồ
thuốc ARV của bệnh nhi
Sự tuân thủ

AZT+3TC+NVP
D4T+3TC+NVP
AZT+3TC+EFV

34
15
17

30
32
33

64
47
50


D4T+3TC+EFV

11

11

22

AZT+3TC+ABC
D4T+3TC+ABC

1

6
2

6
3

TDF+3TC+LPV/r

2

5

7

ABC+DDI+EFV

1


1

2

1

1

D4T+DDI+NVP

Chuyên Đề Nhi Khoa

Tổng

Không tuân thủ Tuân thủ

Phác đồ ARV

- Bệnh nhi được xem là có tuân thủ điều trị
thuốc ARV theo ghi nhận từ hồ sơ bệnh án nếu
không có bất kỳ nhận xét nào sau đây trong hồ
sơ bệnh án trong suốt quá trình điều trị thuốc
ARV:

3


Sự tuân thủ


Tổng

Không tuân thủ Tuân thủ
TDF+3TC+AZT+L
PV/r
3TC+EFV+ABC

1

1

1

1

AZT+3TC+LPV/r

4

4

ABC+DDI+LPV/r

3
90

Tổng

2
123


5
213

Số lượng thuốc ARV dạng si-rô bệnh nhi uống
mỗi ngày
Có 78 bệnh nhi được điều trị ARV dạng sirô. Số lượng trung bình thuốc si-rô các bệnh nhi
này uống mỗi ngày là 28,8 ±14,9 ml. Lượng thấp
nhất là 4 ml, lượng cao nhất là 64 ml. Chúng tôi
nhận thấy số lượng thuốc ARV dạng si-rô bệnh
nhi uống mỗi ngày ở những bệnh nhi không
tuân thủ điều trị là 33,8 ml. Số lượng này cao
hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với số
lượng thuốc ARV dạng si-rô ở những bệnh nhi
có tuân thủ điều trị là 15,9 ml (p<0,01; t-test).
Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan giữa
sự tuân thủ điều trị thuốc ARV với những yếu tố
dịch tễ, lâm sàng khác của bệnh nhi như: tuổi,
giới tính, dân tộc, nơi cư ngụ, tuổi lúc bắt đầu
điều trị ARV, tỷ lệ phần trăm CD4 lúc bắt đầu
điều trị ARV và lúc thực hiện nghiên cứu, giai
đoạn lâm sàng khi bắt đầu điều trị ARV, số
lượng thuốc ARV dạng viên bệnh nhi uống mỗi
ngày, thuốc ARV tự mua (trước khi bệnh nhi
tham gia chương trình điều trị ARV miễn phí),
bệnh nhi tự uống thuốc ARV.

Các yếu tố thuộc về NCS và sự tuân thủ
ARV
Các khó khăn gặp phải khi cho bệnh nhi uống

thuốc ARV
Có 65 NCS (30,5%) không gặp khó khăn gì
khi cho trẻ uống thuốc ARV mỗi ngày. Trong
148 NCS (69,5%) có gặp khó khăn, có 108 người
(50,7%) có 1 khó khăn, 31 người (14,6%) có 2 khó
khăn, 9 người (4,2%) có 3 khó khăn. Khó khăn
thường gặp nhất là bệnh nhi hay ói khi uống
thuốc ARV (29 trường hợp, 19,6%). Về phía

Chuyên Đề Nhi Khoa
4

NCS, khó khăn thường gặp là khi bệnh nhi hết
thuốc ARV, họ quên đi lãnh thuốc ARV (18
trường hợp, 12,2%). Khi NCS đi xa nhà (10
trường hợp, 6,8%) hoặc bận rộn công việc khác
(9 trường hợp, 6,8%) cũng là những khó khăn
đáng kể trong việc cho bệnh nhi uống thuốc
ARV. Đặc biệt, khi có nhiều NCS cho bệnh nhi (3
trường hợp, 2%) hoặc ngược lại, NCS lo lắng sợ
tiết lộ việc nhiễm HIV của bệnh nhân (2 trường
hợp, 1,4%) đều có thể gây khó khăn cho việc
tuân thủ. Chúng tôi nhận thấy những NCS gặp
nhiều khó khăn khi cho bệnh nhi uống thuốc
ARV mỗi ngày thì sự tuân thủ điều trị ARV kém
hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với những
NCS gặp ít khó khăn hơn (p<0,01, χ2).
Bảng 2: Phân bố sự tuân thủ điều trị thuốc ARV theo
số lượng các khó khăn NCS gặp phải khi cho trẻ uống
thuốc ARV


Số lượng
các khó
khăn
Tổng

0
1
2
3

Sự tuân thủ
Không tuân thủ Có tuân thủ
14
51
47
61
22
9
7
2
90
123

Tổng
65
108
31
9
213


Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa sự tuân thủ điều trị thuốc
ARV với những yếu tố dịch tễ, tâm lý xã hội
khác của NCS như: tuổi, giới tính, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, mối quan hệ với bệnh nhi (bố
mẹ ruột hay không phải bố mẹ ruột), số con của
NCS, những lý do uống thuốc ARV đầy đủ, hiểu
biết về hậu quả của việc uống thuốc ARV không
đầy đủ, phương tiện nhắc nhở uống thuốc ARV,
việc thông báo việc nhiễm HIV của bệnh nhi cho
người khác, việc thông báo tình trạng nhiễm
HIV cho bệnh nhi, nhận biết thuốc ARV, sự tin
tưởng vào khả năng uống thuốc ARV của bệnh
nhi, niềm tin vào tác dụng của thuốc ARV, hiểu
biết về sự kháng thuốc ARV nếu không uống
thuốc đầy đủ, sự hỗ trợ kinh tế, sự hỗ trợ cho
bệnh nhi uống thuốc ARV, niềm tin vào chất
lượng của cơ sở y tế, nhận xét về nhân viên y tế.


Phân tích đa biến các yếu tố có liên quan
đến sự tuân thủ điều trị
Để tìm hiểu mối liên quan thực sự giữa các
yếu tố với sự tuân thủ điều trị thuốc ARV, chúng
tôi phân tích đa biến hồi quy logistic bốn yếu tố
có liên quan với sự tuân thủ điều trị thuốc ARV
khi phân tích đơn biến. Chúng tôi nhận thấy thời
gian điều trị thuốc ARV của bệnh nhi và số
lượng các khó khăn của NCS khi cho bệnh nhi

uống thuốc ARV có mối liên quan thật sự có ý
nghĩa thống kê với sự tuân thủ điều trị (p<0,05).
Bảng 3: Phân tích đa biến hồi quy logistic giữa sự
tuân thủ điều trị và một số yếu tố liên quan
Yếu tố liên quan
B
p
R
Thời gian điều trị thuốc ARV
-0,925 0,0101 -0,2089
Số lượng thuốc ARV dạng si-rô -0,380 0,0801 -0,1003
bệnh nhi uống mỗi ngày
Số lượng các khó khăn của -0,8502 0,0126 -0,2001
người chăm sóc khi cho bệnh
nhi uống thuốc ARV

BÀN LUẬN
Phương pháp nghiên cứu và tỷ lệ tuân thủ
điều trị
Nghiên cứu của chúng tôi có ưu điểm là cỡ
mẫu khá lớn (213 trường hợp) so với khá nhiều
nghiên cứu về tuân thủ điều trị thuốc ARV ở trẻ
em nhiễm HIV/AIDS của các tác giả khác chỉ có
từ 10 đến khoảng 100 trường hợp(1,4,5,6,7,8,9,10,12,13).
Dân số nghiên cứu khá đại diện cho bệnh nhi
nhiễm HIV/AIDS ở miền Nam Việt Nam, vì
Bệnh viện Nhi đồng 1 là bệnh viện chuyên khoa
nhi tuyến đầu của các tỉnh Nam bộ. Số lượng
bệnh nhi nhiễm HIV/AIDS điều trị thuốc ARV
đến từ các tỉnh sấp sỉ số lượng bệnh nhi tại

Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, những kết quả
từ nghiên cứu của chúng tôi có thể áp dụng
được cho những bệnh nhi HIV/AIDS tại miền
Nam Việt Nam.
Phương pháp phỏng vấn có ưu điểm là
ngoài việc đánh giá về sự tuân thủ, nó còn giúp
nhà nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề xung
quanh việc tuân thủ khi họ phỏng vấn và trò
chuyện với NCS của bệnh nhân. Từ đó, nhà
nghiên cứu có cách tiếp cận phù hợp và hiểu

Chuyên Đề Nhi Khoa

được hoàn cảnh của NCS, từ đó có cái nhìn toàn
diện hơn về đối tượng nghiên cứu của mình.
Nhưng bên cạnh ưu điểm đó, phương pháp
phỏng vấn có điểm yếu là có thể đánh giá quá
cao sự tuân thủ. Người được phỏng vấn có tâm
lý sợ bị phê bình nên có thể không nói thật về
việc tuân thủ kém của mình.
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV trong 3
ngày qua khá cao so với những nghiên cứu khác
cùng sử dụng phương pháp phỏng vấn ở các
nước phát triển(2,13,16). Có thể do những nghiên
cứu này thực hiện phỏng vấn cả người chăm sóc
và bệnh nhi, và bệnh nhi cũng có tuổi trung bình
lớn hơn nghiên cứu của chúng tôi nên tỷ lệ tuân
thủ qua phỏng vấn thấp hơn nghiên cứu của
chúng tôi.
Những nghiên cứu về tuân thủ điều trị ARV

ở trẻ em dùng phương pháp phỏng vấn NCS với
thời gian nhớ lại dài hơn thường có tỷ lệ tuân
thủ thấp hơn(1,7,12). Do đó chúng tôi cũng đánh
giá tuân thủ điều trị trong suốt thời gian điều trị
ARV của bệnh nhi.
Các nghiên cứu tuân thủ điều trị thuốc ARV
dùng phương pháp đánh giá khác ngoài phương
pháp phỏng vấn hoặc kết hợp cả phương pháp
phỏng vấn và phương pháp khác thường cho tỷ
lệ tuân thủ điều trị thấp(4,11,13). Để tăng tính chính
xác và khách quan, chúng tôi đã kết hợp 2
phương pháp phỏng vấn và thu thập nhận xét
về tuân thủ điều trị ARV trong hồ sơ bệnh án.

Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV theo 3 điều
kiện là 57,7%
Với tỷ lệ tuân thủ điều trị thấp như vậy, việc
điều trị sẽ khó đạt kết quả tốt. Đây là một vấn đề
nghiêm trọng và khẩn thiết cần phải nghiên cứu
nguyên nhân.

Các yếu tố có liên quan với sự tuân thủ
điều trị ARV
Thời gian điều trị thuốc ARV
Chúng tôi nhận thấy những bệnh nhi tuân
thủ tốt thì có thời gian điều trị ARV ngắn hơn
một cách có ý nghĩa thống kê so với những bệnh
nhi không tuân thủ đầy đủ, tương tự như một số

5



nghiên cứu khác(9,10). Mặc dù đây chỉ là nghiên
cứu cắt ngang tại một thời điểm, nhưng kết quả
này cần được lưu ý khi tham vấn điều trị cho
NCS của bệnh nhi trên lâm sàng. Những bệnh
nhi đã điều trị thuốc ARV lâu dài vẫn cần được
giám sát về mức độ tuân thủ và bác sĩ lâm sàng
cần tìm hiểu những khó khăn nảy sinh làm ảnh
hưởng đến khả năng tuân thủ điều trị nhằm tìm
cách giúp đỡ cho những bệnh nhi đó.

Phác đồ thuốc ARV
Một vài nghiên cứu ở bệnh nhân HIV người
lớn về loại thuốc ARV có liên quan đến tuân thủ
điều trị kém thường là các loại thuốc PI do
những thuốc này thường có vị khó uống và
nhiều tác dụng phụ(14,15). Trong khi đó nghiên
cứu của Elise và cs (2003) ở trẻ em vùng Bờ Biển
Ngà lại thấy bệnh nhi dùng Efavirenz thì tuân
thủ điều trị kém hơn(3).
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi lại
nhận thấy bệnh nhi dùng phác đồ
AZT+3TC+NVP và phác đồ có các thuốc nhóm
PI có tỷ lệ tuân thủ thấp hơn bệnh nhi dùng các
phác đồ khác. Phác đồ AZT+3TC+NVP thường
được dùng lâu dài cho trẻ từ nhỏ đến lớn nếu
không có vấn đề kháng thuốc hoặc tác dụng
phụ, do đó thời gian điều trị dài hơn trẻ dùng
các phác đồ khác có thể gây nhiễu ở đây. Các

phác đồ có chứa thuốc nhóm PI là phác đồ bậc
hai, dành cho bệnh nhi điều trị phác đồ bậc một
không thành công. Có lẽ những trẻ điều trị
không thành công là những trẻ đã tuân thủ kém.
Khi phân tích đa biến, yếu tố phác đồ điều trị
không có mối liên quan với sự tuân thủ điều trị,
có lẽ đây chỉ là yếu tố gây nhiễu.
Số lượng thuốc ARV bệnh nhi uống mỗi ngày
Bác sĩ lâm sàng cần cân nhắc khả năng uống
thuốc ARV dạng si-rô của trẻ, đặc biệt khi trẻ
phải uống nhiều loại thuốc điều trị và dự phòng
nhiễm trùng cơ hội cũng ở dạng si-rô.
Các khó khăn khi cho bệnh nhi uống thuốc
ARV
NCS gặp càng nhiều khó khăn khi cho trẻ
uống thuốc ARV thì tuân thủ điều trị càng kém,

Chuyên Đề Nhi Khoa
6

tương tự một số nghiên cứu khác(7,13). Chúng tôi
nhận thấy khó khăn thường gặp nhất là bệnh
nhi hay ói khi uống thuốc ARV. Bác sĩ lâm sàng
có thể giúp đỡ người chăm sóc bằng cách hướng
dẫn cách cho bệnh nhi uống thuốc, báo trước
thuốc nào có thể gây ói, khi cần thiết sẽ điều trị
triệu chứng hoặc đổi thuốc ARV khác. Một khó
khăn hay gặp nữa là bệnh nhi hết thuốc ARV và
người chăm sóc không đi lãnh thuốc kịp. Nhân
viên y tế có thể giải quyết khó khăn này bằng

cách phát thuốc ARV dư một chút so với ngày
dự định tái khám, hoặc nhắc người chăm sóc đi
tái khám lãnh thuốc qua điện thoại. Nghiên cứu
của Belzer và cs (1999) ở thanh thiếu niên cho
thấy lý do không tuân thủ thường gặp nhất là có
quá nhiều thuốc phải uống (1). Nghiên cứu của
chúng tôi cũng có 2,7% người chăm sóc cho rằng
có quá nhiều thuốc phải cho trẻ uống. Bác sĩ lâm
sàng có thể giảm bớt gánh nặng về số lượng
thuốc bệnh nhi phải uống bằng cách dùng
những viên thuốc ARV kết hợp hai trong một
(như Combivir) hoặc ba trong một (như FDC).

Giả thuyết về nguyên nhân của sự tuân thủ
điều trị
Sau khi phân tích hồi quy đa biến, chúng tôi
thấy rằng thời gian điều trị thuốc ARV dài hơn ở
những bệnh nhi không tuân thủ, và NCS của
những bệnh nhi kém tuân thủ gặp nhiều khó
khăn khi cho bệnh nhi uống thuốc ARV. Phải
chăng trong quá trình điều trị thuốc ARV đã
phát sinh những khó khăn cho việc tuân thủ mà
NCS chưa được nhân viên y tế đánh giá, phát
hiện, tham vấn và giúp đỡ giải quyết?
Tại Bệnh viện Nhi đồng 1, quy trình tham
vấn trước và trong khi điều trị thuốc ARV rất chi
tiết và cụ thể, nhưng mất nhiều thời gian và
nhân lực. Trong khi đó, nhân viên y tế tại phòng
B7 Bệnh viện Nhi đồng 1 vừa làm công việc điều
trị thuốc ARV tại phòng B7 vừa làm công việc tại

khoa Nhiễm của bệnh viện. Mặt khác, số lượng
bệnh nhân tập trung đến tái khám và lãnh thuốc
ARV rất đông trong hai ngày thứ tư và thứ sáu
mỗi tuần (là ngày khám và phát thuốc ARV) làm


cho việc tham vấn đúng quy trình rất khó thực
hiện.
Thực tế nhân viên y tế thường đánh giá tuân
thủ điều trị khi bệnh nhi và NCS có biểu hiện rõ
ràng như: lâm sàng bệnh nhi không tiến triển tốt,
CD4 chậm hoặc không tăng, NCS thay đổi
thường xuyên, bệnh nhi không đến tái khám
đúng hẹn... Vì vậy, để cải thiện tỷ lệ tuân thủ
điều trị thuốc ARV, nên có sự sắp xếp nhân lực
và thời gian hợp lý cho việc tham vấn tuân thủ
điều trị. Việc tuân thủ điều trị của bệnh nhi cần
được nhân viên y tế chú trọng theo dõi đánh giá
và phát hiện trong suốt quá trình điều trị của
bệnh nhi, từ đó giúp đỡ NCS giải quyết những
vấn đề khó khăn nảy sinh.

KẾT LUẬN
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc ARV ở bệnh nhi
nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 là
khá thấp. Để nâng cao hiệu quả của việc điều trị
thuốc ARV, cần cải thiện việc tuân thủ điều trị.
Đối với những bệnh nhi có thời gian điều trị
thuốc ARV lâu dài, nhân viên y tế cần tìm hiểu
những khó khăn phát sinh trong việc cho bệnh

nhi uống thuốc ARV và giúp đỡ người chăm sóc
giải quyết những khó khăn đó. Việc tham vấn
tuân thủ trước và trong khi điều trị thuốc ARV
nên thực hiện theo đúng quy trình và thời gian
của chương trình phòng chống AIDS quốc gia.
Ngoài ra, nên có nghiên cứu về tuân thủ điều trị
thuốc ARV với cỡ mẫu lớn hơn và bảng câu hỏi
phù hợp để đánh giá việc tuân thủ điều trị và các
yếu tố liên quan một cách chính xác. Từ đó đề ra
những chiến lược can thiệp nhằm nâng cao tỷ lệ
tuân thủ điều trị thuốc ARV trong tương lai.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.


13.

14.

15.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

Belzer, M. E., D. N. Fuchs, et al. (1999), "Antiretroviral
adherence issues among HIV-positive adolescents and young
adults", Journal of adolescent health, 25(5): 316-319.
Dyke, R. B. V., S. Lee, et al. (2002), "Reported Adherence as a
Determinant of Response to Highly Active Antiretroviral
Therapy in Children Who Have Human Immunodeficiency
Virus Infection", Pediatrics, 109: e61.
Elise, A., A. M. France, et al. (2005), "Assessment of Adherence
to Highly Active Antiretroviral Therapy in a Cohort of
African HIV-Infected Children in Abidjan, Cote d’Ivoire",
Journal of Acquired Immune Deficiency Syndrome, 40(498-500).

Chuyên Đề Nhi Khoa

16.

Farley, J., S. Hines, et al. (2003), "Assessment of Adherence to

Antiviral Therapy in HIV-Infected Children Using the
Medication Event Monitoring System, Pharmacy Refill,
Provider
Assessment,
Caregiver
Self-Report,
and
Appointment Keeping.", Journal of Acquired Immune Deficiency
Syndromes, 33(211-218.
Gibb, D. M., R. L. Goodall, et al. (2003), "Adherence to
prescribed
antiretroviral
therapy
in
human
immunodeficiency virus-infected children in the PENTA 5
trial", Pediatric Infectious Diseases Journal, 22: 56-62.
Marhefka, S. L., J. J. Farley, et al. (2004), "Clinical assessment of
medication adherence among HIV-infected children:
examination of the Treatment Interview Protocol (TIP)", AIDS
Care, 16(3): 323-337.
Marhefka, S. L., L. J. Koenig, et al. (2008), "Family Experiences
with Pediatric Antiretroviral Therapy: Responsibilities,
Barriers, and Strategies for Remembering Medications", AIDS
Patient Care and STDs, 22(8): 18
Marhefka, S. L., V. J. Tepper, et al. (2006), "Caregiver
Psychosocial Characteristics and Children’s Adherence to
Antiretroviral Therapy", AIDS patient care and STDs, 20(6):
429-436.
Marhefka, S. L., V. J. Tepper, et al. (2006), "Brief Report:

Assessing Adherence to Pediatric Antiretroviral Regimens
Using the 24-Hour Recall Interview.", Journal of Pediatric
Psychology, 31(9): 989-994.
Martin, S., D. K. Elliott-DeSorbo, et al. (2007), "Patient,
Caregiver and Regimen Characteristics Associated With
Adherence to Highly Active Antiretroviral Therapy Among
HIV-Infected Children and Adolescents", Pediatric Infectious
Diseases Journal, 26: 61-67.
Martinez, J., D. Bell, et al. (2000), "Adherence to antiviral drug
regimens in HIV-infected adolescent patients engaged in care
in a comprehensive adolescent and young adult clinic.",
Journal of National Medical Association, 92(2): 55-61.
Reddington, C., J. Cohen, et al. (2000), "Adherence to
medication regimens among children with human
immunodeficiency virus infection", Pediatric Infectious Diseases
Journal, 19(1148-53.
Steele, R. G. and D. Grauer (2003), "Adherence to
Antiretroviral Therapy for Pediatric HIV Infection: Review of
the Literature and Recommendations for Research", Clinical
Child and Family Psychology Review, 6(1): 17-28.
Sullivan, P. S., M. L. Campsmith, et al. (2007), "Patient and
Regimen Characteristics Associated with Self-Reported
Nonadherence to Antiretroviral Therapy", PLoS ONE, 2(6):
e552, doi: 10.1371/journal.pone.0000552.
Trotta, M. P., A. Ammassari, et al. (2002), "Treatment-Related
Factors and Highly Active Antiretroviral Therapy
Adherence", Journal of Acquired Immune Deficiency Syndromes,
31(suppl315): S128-S131.
Williams, P. L., D. Storm, et al. (2006), "Predictors of
Adherence to Antiretroviral Medications in Children and

Adolescents With HIV Infection", Pediatrics, 118: e1745-e1757.

7


Chuyên
Đề Nhi Khoa
8


Chuyên Đề Nhi Khoa

9



×