Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hình ảnh lâm sàng, x quang của bướu trung thất: Nghiên cứu loạt ca lâm sàng của Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.97 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

HÌNH ẢNH LÂM SÀNG, X QUANG CỦA BƯỚU TRUNG THẤT:  
NGHIÊN CỨU LOẠT CA LÂM SÀNG  
CỦA BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH 
Nguyễn Hữu Lân*, Nguyễn Huy Dũng*, Lê Tự Phương Thảo**, Nguyễn Sơn Lam*, Lê Hồng Ngọc*** 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Bướu trung thất là bướu hiếm gặp, bao gồm một nhóm các tổn thương không đồng nhất. Dịch tễ 
học và tỷ lệ mắc phải bướu trung thất ở người lớn thay đổi đáng kể. 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh X quang của bướu trung thất. 
Chất liệu và phương pháp: Phân tích loạt ca lâm sàng 202 bệnh nhân người lớn bị bướu trung thất được 
điều trị tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2005 đến 2013. Tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật nhằm mục 
đích chẩn đoán, điều trị hoặc cả hai. 
Kết quả: Tổng cộng có 202 bệnh nhân bướu trung thất với tuổi trung bình là 40 ± 16 tuổi (từ 15 tuổi đến 
82 tuổi) được thu dung vào nghiên cứu loạt ca lâm sàng này. Tỷ lệ nam/nữ là 87/1. Trong số 202 bệnh nhân 
bướu trung thất, có 106 (52,5%) bệnh nhân bướu trung thất trước, 52 (25,7%) bệnh nhân bướu trung thất sau 
và 44 (21,8%) bệnh nhân bướu trung thất giữa. Trong trung thất trước, bướu quái trưởng thành, bướu tuyến 
ức lành tính thường gặp nhất, với tỷ lệ theo thứ tự là 42,6%, 17,9%. Trong trung thất sau, bướu sợi thần kinh, 
bướu vỏ bao thần kinh thường gặp nhất, theo thứ tự là 55,8%, 17,3%, trong khi lao hạch bạch huyết, bướu quái 
trưởng thành thường gặp nhất trong bướu trung thất giữa, lần lượt là 36,4%, 13,6%. Tỷ lệ lành tính/ác tính là 
6,3/1 ở những bệnh nhân < 40 tuổi và 2,6/1 ở những bệnh nhân ≥ 40 tuổi (p < 0,02). Đau ngực, ho, sốt, khó thở, 
khàn giọng, ho ra máu, sụt cân, nuốt nghẹn, theo thứ tự gặp ở 72,8%, 66,3%, 13,9%, 13,4%, 5,4%, 5%, 3%, 
0,5%.  6,4%  bệnh  nhân  không  có  triệu  chứng  lâm  sàng.  Tổn  thương  có  bờ  ngoài  đa  cung  gặp  ở  79,9%,  tổn 
thương bờ ngoài tròn đều gặp ở 17,3%. Tổn thương có bờ ngoài không đều lởm chởm hình tia chiếm 2%.  
Kết luận: Bướu quái trưởng thành, bướu tuyến ức thường gặp trong trung thất trước, u nguồn gốc tế bào 
thần kinh thường gặp ở trung thất sau, và lao hạch bạch huyết, bướu quái trưởng thành thường gặp ở trung thất 
giữa. Bệnh nhân ≥ 40 tuổi, ho ra máu, khàn tiếng thường có nguy cơ ác tính cao hơn. Bướu có bờ ngoài tròn đều 
gợi ý tổn thương lành tính.  


Từ khóa: Bướu trung thất, trung thất trước, trung thất giữa, trung thất sau. 

ABSTRACT 
CLINICAL AND RADIOLOGICAL ASPECTS OF MEDIASTINAL TUMORS:  
A CASE SERIES FROM PHAM NGOC THACH HOSPITAL 
Nguyen Huu Lan, Nguyen Huy Dung, Le Tu Phuong Thao, Nguyen Son Lam, Le Hong Ngoc 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 55 ‐ 60 
Background:  Mediastinal  tumors  are  rare,  comprise  a  heterogeneous  group  of  lesions.  Epidemiology  and 
incidence of mediastinal lesions in adults has changed considerably.  
Objective: To describe the clinical features, radiological findings of mediastinal tumors. 
Materials and Methods: An analysis of case series studies of 202 adult patients with mediastinal tumors 
who were treated at Pham Ngoc Thach hospital from 2005 to 2013. All patients were submitted to surgery, either 
diagnostic, therapeutic or both.  
* Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch 
**Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Nguyễn Hữu Lân  ĐT: 0913185885 
Email:  

Hô Hấp 

55


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Results: A total of 202 mediastinal tumor patients with a mean age of 40 ± 16 years (range: 15 to 82 years) 
were enrolled in this case series study. Male to female ratio was 87/1. Of the 202, 106 (52.5%) presented tumors 
in  the  anterior  mediastinum,  52  (25.7%)  in  the  posterior  and,  44  (21.8%)  in  the  middle.  In  the  anterior 

mediastinum, mature teratoma, benign thymoma were the most common tumors, respectively 42.6%, 17.9%. In 
the  posterior  mediastinum,  neurofibroma,  schwannoma  were  the  most  common  tumors,  respectively  55.8%, 
17.3%,  whereas  lymph  node  tuberculosis,  mature  teratoma  were  the  most  common  middle  mediastinum, 
respectively 36.4%, 13.6%.  Benignity to malignance ratio was 6.3/1 in patients < 40 years of age and 2.6/1 in 
patients older (p < 0.02). Chest pain, cough, fever, dyspnea, hoarseness, hemoptysis, weight loss and dysphagia 
were noted in 72.8%, 66.3%, 13.9%, 13.4%, 5.4%, 5%, 3%, 0.5% of patients, respectively. Asymptomatic was 
found in 6.4%. Lobulated lesions was found in 79.9%, smooth lesions was found in 17.3%. Irregular lesions was 
found in 2%.  
Conclusion: Mature teratoma, thymoma are more common in the anterior mediastinum, neurogenic tumors 
are  more  common  in  the  posterior  mediastinum  and,  lymph  node  tuberculosis,  mature  teratoma  are  more 
common in the middle mediastinum. Patient characteristics such as age  ≥ 40 years,  hemoptysis, hoarseness are 
associated with higher risk of malignancy. Smooth border suggests benignity. 
Key words: Mediastinal tumors, anterior mediastinum, middle mediastinum, posterior mediastinum. 
tổn  thương  bướu  trung  thất  từ  năm  2005  đến 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
năm 2013. Tất cả các bệnh nhân đều được chụp 
Có rất nhiều căn nguyên bệnh lý khác nhau 
cắt  lớp  điện  toán  lồng  ngực  trước  phẫu  thuật. 
gây  bướu  trung  thất.  Xác  định  vị  trí  và  thành 
Các yếu tố tuổi, giới tính, triệu chứng lâm sàng, 
phần của bướu trung thất rất quan trọng để thu 
đặc điểm hình ảnh học X quang của bướu trung 
hẹp chẩn đoán phân biệt. Các nguyên nhân phổ 
thất  được  đưa  vào  phân  tích  thống  kê.  Các  số 
biến  nhất  của  bướu  trung  thất  trước  bao  gồm: 
liệu  sau  khi  thu  thập  sẽ  được  mã  hóa  và  nhập 
bướu  tuyến  ức,  bướu  quái,  bệnh  tuyến  giáp  và 
vào máy vi tính, sử dụng phần mềm Stata 10 để 
ung thư hạch lymphô nguyên phát. Bướu trung 
xử  lý.  Chúng  tôi  sử  dụng  phép  kiểm  χ2  để  so 

thất  giữa  thường  là  các  tổn  thương  dạng  nang 
sánh  sự  khác  biệt  về  tỷ  lệ  giữa  hai  nhóm  bệnh 
bẩm  sinh  điển  hình,  bao  gồm  cả  các  nang  có 
nhân  cho  các  biến  định  tính.  Thực  hiện  phép 
nguồn gốc từ ruột và màng ngoài tim, trong khi 
kiểm  chính  xác  của  Fisher  (Fisher’s  Exact  Test) 
bướu  trung  thất  sau  thường  là  bướu  có  nguồn 
nếu có trên 20% số ô trong bảng chéo có tần số 
gốc thần kinh. Bệnh nhân bướu trung thất có thể 
mong  đợi  nhỏ  hơn  5.  Chúng  tôi  sử  dụng  kiểm 
từ  không  có  triệu  chứng  lâm  sàng  đến  có  triệu 
định thống kê “Shapiro test”để xác định giả thiết 
chứng  ho,  đau  ngực,  khó  thở(2).  Tỷ  lệ  các  tổn 
phân  phối  chuẩn  của  một  biến  số.  Nếu  biến  số 
thương trung thất ở người lớn đã thay đổi đáng 
có  phân  phối  chuẩn,  chúng  tôi  dùng  số  trung 
kể  trong  suốt  5  thập  kỷ  (1952‐1991)(5).  Vì  vậy, 
bình và độ lệch chuẩn để mô tả dữ liệu; sử dụng 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh 
kiểm  định  t  với  2  mẫu  độc  lập  để  so  sánh  sự 
giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học X quang và 
khác  biệt  cho  các  biến  định  lượng;  nếu  biến  số 
tần  suất  các  căn  nguyên  của  bướu  trung  thất 
không  có  phân  phối  chuẩn,  chúng  tôi  dùng  số 
trong  số  những  bệnh  nhân  nhập  viện  tại  bệnh 
trung  vị  để  mô  tả  dữ  liệu;  sử  dụng  kiểm  định 
viện Phạm Ngọc Thạch. 
Mann‐Whitney để  so sánh sự  khác biệt cho  các 
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP 
biến định lượng. Tất cả các  phương  pháp  kiểm 

định  giả  thuyết  được  thực  hiện  bằng  cách  sử 
Chúng  tôi  thực  hiện  nghiên  cứu  phân  tích 
dụng  kiểm  định  2  bên  (two‐sided  alternatives). 
mô tả loạt ca lâm sàng 202 bệnh nhân được phẫu 
Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) để chấp nhận 
thuật  tại  bệnh  viện  Phạm  Ngọc  Thạch,  thành 
hay bác bỏ giả thuyết thống kê.  
phố Hồ Chí Minh để chẩn đoán và/hoặc điều trị 

56

Chuyên Đề Nội Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
KẾT QUẢ 
Có  202  bệnh  nhân  được  thu  dung  vào 
nghiên cứu, bao gồm 94 bệnh nhân nam và 108 
bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 40 ± 16 tuổi (từ 
15 đến 82 tuổi). Tỷ lệ bệnh nhân nam/nữ ở nhóm 
bướu  trung  thất  lành  tính  là  69/91,  của  nhóm 
bướu  trung  thất  ác  tính  là  25/17  (p  >  0,5).  Tuổi 
trung  bình  của  bệnh  nhân  có  bướu  trung  thất 
lành tính là 38 ± 15 tuổi, của bệnh nhân có bướu 
trung thất ác tính là 48 ± 17 tuổi (p = 0,001). Triệu 
chứng  thường  gặp  là  đau  ngực  (72,8%),  ho 
(66,3%). Đặc điểm nhân khẩu học và tần suất các 
triệu  chứng  lâm  sàng  chia  nhóm  theo  loại  bản 
chất giải phẫu bệnh của tổn  thương  được  trình 
bày trong bảng 1.  

Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu học và tần suất các 
triệu chứng lâm sàng chia nhóm theo loại bản chất 
giải phẫu bệnh của tổn thương 

Nam/Nữ (n/n)
Khoảng tuổi (năm)

Lành tính
(n = 160)
69/91
15 to 77

Ác tính
(n = 42)
25/17
16 to 82

Pvalue
> 0,5

Tuổi trung bình (năm)
38 ± 15
48 ± 17 = 0,001
Bệnh nhân ≥ 40 tuổi / <
72/88
28/14
< 0,02
40 tuổi (n/n)
Đau ngực n (%) 
115 (71,9%) 32 (76,2%) > 0,6

103 (64,4%) 31 (73,8%) > 0,2
Ho n (%) 
Khó thở n (%) 
Sốt n (%)
Khàn tiếng n (%)

21 (13,1%)
22 (13,8%)
4 (2,5%)

6 (14,3%) > 0,8
6 (14,3%) > 0,9
7 (16,2%) < 0,002

Ho ra máu n (%)

5 (3,1%)

5 (11,9%)

< 0,03

Sụt cân n (%) 
Nuốt nghẹn n (%)
Không triệu chứng lâm
sàng n (%) 

5 (3,1%)
1 (0,6%)
10 (6,2%)


1 (2,4%)
0 (0%)
3 (7,1%)

> 0,8
> 0,7

Các  bướu  trung  thất  thường  nằm  ở  trung 
thất  trước  (52,5%)  tiếp  đến  là  trung  thất  sau 
(25,7%) và cuối cùng là trung thất giữa (21,8%). 
Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về vị trí 
(trước, giữa, sau) và bản chất lành ác của bướu 
trung thất (p > 0,5). Bướu trung thất có bờ ngoài 
hình  đa  cung  thường  gặp  nhất  (79,7%),  ít  gặp 
hơn là bướu có bờ ngoài tròn đều (17,3%), ít gặp 
nhất là bướu có bờ ngoài không đều, lởm chởm 
hình  tia  (3%).  Tỷ  lệ  ác  tính/lành  tính  của  bướu 
trung  thất  có  bờ  ngoài  không  đều  lởm  chởm 

Hô Hấp 

Nghiên cứu Y học

hình tia cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bướu 
trung thất có bờ ngoài hình đa cung (p < 0,02) và 
bướu  trung  thất  có  bờ  ngoài  tròn  đều  (p  < 
0,0001).  Tỷ  lệ  ác  tính/lành  tính  của  bướu  trung 
thất  có  bờ  ngoài  hình  đa  cung  cao  hơn  có  ý 
nghĩa  thống  kê  so  với  bướu  trung  thất  có  bờ 

ngoài tròn đều (p < 0,03). Bướu trung thất có mật 
độ  đồng  nhất  chiếm  64,9%,  trong  khi  bướu 
trung thất có mật độ không đồng nhất, vôi hóa 
chiếm  tỷ  lệ  35,1%.  Đặc  điểm  vị  trí,  hình  ảnh 
bướu  trung  thất  chia  nhóm  theo  loại  bản  chất 
giải  phẫu  bệnh  của  tổn  thương  được  trình  bày 
trong bảng 2. Bảng 3 mô tả các loại tổn thương 
mô  học  theo  vị  trí  của  bướu  trong  trung  thất 
(trước, giữa, sau). 
Bảng 2: Đặc điểm vị trí, hình ảnh bướu trung thất 
chia nhóm theo loại bản chất giải phẫu bệnh của tổn 
thương 
Ác tính P (n = 42) value
24
Bướu trung thất trước n (%) 82 (51,3%)
(57,1%)
Bướu trung thất giữa n (%) 36 (22,5%) 8 (19%) > 0,5
10
Bướu trung thất sau n (%) 42 (26,3%)
(23,8%)
Trung vị kích thước bướu trên
5,3
7
> 0,1
CT Scan (cm)
Trung vị kích thước bướu
8
8
> 0,2
đánh giá sau mổ (cm)

Bướu có bờ ngoài đa cung n
125 (78,1%) 36 (%)
(%)
Bướu có bờ ngoài tròn đều n
33 (20,6%) 2 (4,8%) <0,03
(%)
Bướu có bờ ngoài lởm chởm
2 (1,3%) 4 (4,8%)
hình tia n (%)
Bướu có mật độ đồng nhất n
102 (63,7%) 29 (69%)
(%)
> 0,5
Bướu có mật độ không đồng
58 (36,3%) 13 (31%)
nhất, vôi hóa n (%)
Đặc điểm vị trí, hình ảnh
bướu trung thất

Lành tính
(n = 160)

Bảng 3: Các loại tổn thương mô học theo vị trí của 
bướu trong trung thất (trước, giữa, sau) 
Tổn thương mô học
Bướu quái trưởng thành
Nang trung thất
Ung thư biểu mô tuyến ức
Bướu tuyến ức lành tính
Bướu sợi thần kinh lành tính


Trung thất
trước giữa sau
n (%) n (%) n (%)
45
6
0
14
4
3
17
1
2
19
1
0
2
2
29

57


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Trung thất
trước giữa sau
n (%) n (%) n (%)

Bướu sợi thần kinh ác tính
0
0
2
Bướu vỏ bao thần kinh lành tính
0
1
9
Bướu vỏ bao thần kinh ác tính
0
0
3
Lao hạch bạch huyết
0
15
0
Ung thư hạch bạch huyết
4
4
3
Ung thư kết hợp lao hạch bạch huyết
0
1
0
Hạch viêm mạn tính
0
4
0
Hạch Sarcoidosis
0

2
0
Bướu giáp thòng
1
0
0
Bướu quái trưởng thành + U sợi thần
0
1
0
kinh
Bướu quái chưa trưởng thành
0
0
1
1
0
0
Bướu tế bào mầm ác tính
Tổn thương mô học

Sarcôm mỡ
Bướu mạch máu
Bướu sợi
Tổng cộng

1
2
0
106


0
1
1
44

0
0
0
52

BÀN LUẬN 
Trung thất được giới hạn phía trước bởi mặt 
sau xương ức và các sụn sườn, phía sau bởi mặt 
trước cột sống ngực. Phía trên là lỗ trên của lồng 
ngực, nơi trung thất thông với nền cổ. Phía dưới 
là  cơ  hoành,  nơi  có  các  thành  phần  đi  từ  lồng 
ngực  xuống  ổ  bụng  và  ngược  lại.  Hai  bên  là 
màng  phổi  trung  thất.  Trung  thất  được  chia 
thành trung thất trước, trung thất giữa và trung 
thất  sau  dựa  trên  các  mốc  giải  phẫu  thấy  được 
trên phim X quang lồng ngực nghiêng. Điều này 
rất  quan  trọng  trong  ứng  dụng  chẩn  đoán  các 
tổn  thương  nghi  ngờ  bướu  trung  thất.  Trung 
thất  trước  chứa  tuyến  ức,  mỡ  và  hạch  bạch 
huyết.  Trung  thất  giữa  chứa  tim,  màng  ngoài 
tim,  động  mạch  chủ  ngang  và  động  mạch  chủ 
xuống,  tĩnh  mạch  cánh  tay  đầu,  khí  quản,  phế 
quản  và  hạch  bạch  huyết.  Trung  thất  sau  chứa 
động  mạch  chủ  xuống,  thực  quản,  tĩnh  mạch 

đơn,  ống  ngực,  dây  thần  kinh  X  và  chuỗi  hạch 
giao  cảm  ngực  và  mỡ.  Khả  năng  ác  tính  của 
bướu  trung  thất  bị  ảnh  hưởng  chủ  yếu  bởi  ba 
yếu  tố  là  tuổi  bệnh  nhân,  vị  trí  bướu,  sự  hiện 
diện  hay  vắng  mặt  của  triệu  chứng(2).  Theo 
Esposito  D.  và  Millikan  K.  W.,  tuổi  của  bệnh 
nhân và vị trí của bướu ảnh hưởng đến tỷ lệ ác 
tính.  Bệnh  nhân  từ  20‐40  tuổi  có  khả  năng  ác 

58

tính cao nhất, thường gặp nhất là ung thư hạch 
lymphô nguyên phát và các u tế bào mầm. 73% 
bướu  trung  thất  ở  trẻ  em  là  lành  tính(3).  Trong 
một nghiên cứu trên 103 trường hợp bướu trung 
thất ở người lớn lẫn trẻ em, Nguyễn Bá Trung và 
cộng  sự  nhận  thấy  tuổi  trung  bình  của  bệnh 
nhân bướu trung thất là 43,48 tuổi (từ 8 tuổi đến 
76 tuổi). Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 41 
đến  50  tuổi.  Đa  số  bướu  khu  trú  ở  trung  thất 
trên, trung thất trước và trung thất trước trên(4). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình 
của bệnh nhân có bướu trung thất lành tính là 38 
± 15 tuổi, của bệnh nhân có bướu trung thất ác 
tính là 48 ± 17 tuổi (p = 0,001). Tỷ lệ bệnh nhân 
lớn  hơn  hoặc  bằng  40  tuổi  có  bướu  trung  thất 
lành tính là 72% và có bướu trung thất ác tính là 
28%.  Trong  khi  tỷ  lệ  bệnh  nhân  nhỏ  40  tuổi  có 
bướu  trung  thất  lành  tính  là  86,3%  và  có  bướu 
trung  thất  ác  tính  là  13,7%  (p  <  0,02).  Theo 

Vaziri1 M. và cộng sự, 60% bướu trung thất là ác 
tính(7). Theo Duwe B.V. và cộng sự, mặc dù hơn 
hai  phần  ba  các  bướu  trung  thất  là  lành  tính, 
bướu  trung  thất  trước  có  nhiều  khả  năng  là  ác 
tính(2). Theo nghiên cứu của Davis R.D. và cộng 
sự  thực  hiện  trên  400  bệnh  nhân  bướu  trung 
thất, tỷ lệ ác tính theo thứ tự là 59%, 29% và 16% 
ở trung thất trước, giữa và sau(0). Theo Esposito 
D.  và  Millikan  K.  W.,  khoảng  25‐42%  bướu 
trung thất là ác tính. Tỷ lệ ác tính theo vị trí lần 
lượt là 59% đối với bướu trung thất trước, 29% 
đối với bướu trung thất giữa, 16% đối với bướu 
trung thất sau(3). Theo nghiên cứu của chúng tôi, 
20,8%  bướu  trung  thất  là  ác  tính.  Tỷ  lệ  ác  tính 
theo vị trí lần lượt là 57,1% đối với bướu trung 
thất  trước,  19%  đối  với  bướu  trung  thất  giữa, 
23,8%  đối  với  bướu  trung  thất  sau.  Không  có 
khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  về  vị  trí  (trước, 
giữa, sau) và bản chất lành tính hay ác tính của 
bướu trung thất (p > 0,5). 
Theo Davis R.D. và cộng sự, 85% bệnh nhân 
bướu trung thất ác tính có triệu chứng lâm sàng 
so với 46% bệnh nhân bướu trung thất lành tính. 
Các  triệu  chứng  thường  gặp  là  ho  (60%),  đau 
ngực (30%), sốt/ớn lạnh (20%),  khó  thở  (16%)(0). 
Theo  Nguyễn  Bá  Trung  và  cộng  sự,  các  triệu 

Chuyên Đề Nội Khoa 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
chứng  thường  gặp  là  ho  (48,5%),  đau  ngực 
(44,7%), khó thở (12,6%)(4). Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, bệnh nhân không có triệu chứng lâm 
sàng chiếm 6,2% trong nhóm bướu lành tính và 
7,1% trong nhóm bướu ác tính. Các triệu chứng 
thường gặp là đau ngực (72,8%), ho (66,3%), sốt 
(13,9%),  khó  thở  (13,4%).  Theo  Duwe  B.V.,  các 
triệu  chứng  tại  chỗ  thường  gặp  do  bướu  trung 
thất xâm lấn là nuốt nghẹn, khàn tiếng, liệt chi, 
liệt cơ hoành(2). Nghiên cứu tại Iran cho thấy tỷ 
lệ các triệu chứng lâm sàng của bướu trung thất 
theo thứ tứ giảm dần là khó thở (41%), ho (40%), 
sụt cân 21 (20%), đau ngực (28%), sốt (14%), tràn 
dịch màng phổi (12%) và không triệu chứng lâm 
sàng  (12%)(7).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi, 
triệu chứng khàn tiếng, nuốt nghẹn, theo thứ tự 
gặp  ở  5,4%  và  0,5%  bướu  trung  thất.  Các  triệu 
chứng khác gồm ho  ra  máu  (5%),  sụt  cân  (3%). 
Triệu chứng ho ra máu gặp ở 3,1% bướu trung 
thất lành tính và 11,9% bướu trung thất ác tính 
(p  <  0,03).  Triệu  chứng  khàn  tiếng  gặp  ở  2,5% 
bướu trung thất lành tính và 16,2% bướu trung 
thất  ác  tính  (p  <  0,002),  Đây  có  thể  là  hai  triệu 
chứng quan trọng để hướng đến chẩn đoán bản 
chất lành tính hay ác tính của bướu trung thất.  
Roberts  J.R.,  Kaiser  L.R.  nhận  thấy  trong  5 
thập kỷ (1952‐1991), tỷ lệ các bướu trung thất ở 
người  lớn  ghi  nhận  được  qua  các  nghiên  cứu 
vào năm 1952, 1963, 1972, 1987, 1991 theo thứ tự 

nang  trung  thất  (17%,  24%,  9%,  25%,  20%),  u 
nguồn gốc thần kinh (20%, 21%, 23%, 14%, 17%), 
u tuyến ức (17%, 10%, 16%, 17%, 24%), ung thư 
hạch  bạch  huyết  (9%,  10%,  13%,  10%,  10%),  u 
trung mô (1%, 4%, 11%, 6%, 7%), u nội tiết (2%, 
8%, 11%, 3%, 2%), những u khác (23%, 14%, 2%, 
10%, 4%)(5). Sodha N.R. và DeCamp M.M. nhận 
thấy  trong  6  thập  kỷ  (1952‐2003),  tỷ  lệ  nang 
trung  thất  ghi  nhận  được  qua  các  nghiên  cứu 
vào năm 1952, 1963, 1972, 1987, 1993, 1999, 2003 
theo thứ tự là 20%, 24%, 9%, 25%, 18%, 4%, 13% 
trong tổng số các tổn thương bướu trung thất(6). 
Theo  Vaziri1  M.  và  cộng  sự,  có  22  loại  tổn 
thương  khác  nhau  trong  105  bệnh  nhân  bướu 
trung thất được phẫu thuật, tỷ lệ các loại bướu 
trung  thất  là  ung  thư  hạch  bạch  huyết  (31,5%), 

Hô Hấp 

Nghiên cứu Y học

Hodgkin  (10,5%),  bướu  vỏ  bao  thần  kinh 
(10,5%), bướu quái (7,5%), bướu tuyến ức (7,5%), 
ung  thư  biểu  mô  không  biệt  hóa  (3,7%),  bướu 
giáp  thòng  (3,7%),  nang  nguồn  gốc  phế  quản 
(1,8%), ung thư biểu mô tế bào vẩy của tuyến ức 
(1,8%),  sarcôm  tế  bào  hình  thoi  (1,8%),  bướu 
hạch  thần  kinh  (1,8%),  sarcôm  đa  dạng  tế  bào 
(1,8%),  đa  u  nội  tiết‐thần  kinh  (1,8%),  tăng  sản 
tuyến  ức  (1,8%),  sarcôm  nguồn  gốc  thần  kinh 

(0,9%),  bướu  mỡ  (0,9%),  bướu  carcinoid  (0,9%), 
sarcôm  mỡ  (0,9%),  sarcôm  sụn  (0,9%),  nang 
tuyến  ức  (0,9%),  nang  có  nguồn  gốc  từ  ruột 
(0,9%),  bướu  tế  bào  mầm  (0,9%),  bệnh 
Castleman  ở  hạch  (0,9%)(7).  Theo  Nguyễn  Bá 
Trung  và  cộng  sự,  các  loại  bướu  trung  thất 
thường  gặp  là  bệnh  lý  tuyến  ức  (42,42%),  ung 
thư  tế  bào  biểu  mô  các  loại  (19,19%),  bướu 
nguồn  gốc  thần  kinh  (9%),  bướu  quái  (7,07%), 
hạch lao (6,06%)(4). Tỷ lệ các tổn thương thường 
gặp theo thứ tự giảm dần trong nghiên cứu của 
chúng  tôi  là  bướu  quái  trưởng  thành  (25,2%), 
bướu  sợi  thần  kinh  lành  tính  (16,3%),  các  nang 
lành tính (10,4%), ung thư tế bào biểu mô tuyến 
ức  (9,9%),  bướu  tuyến  ức  lành  tính  (9,9%),  lao 
hạch  bạch  huyết  (7,4%),  ung  thư  hạch  bạch 
huyết  (5,4%),  bướu  vỏ  bao  thần  kinh  lành  tính 
(5%),  hạch  viêm  mạn  tính  (2%),  bướu  vỏ  bao 
thần kinh ác tính (1,5%), bướu mạch máu (1,5%), 
bướu  sợi  thần  kinh  ác  tính  (1%),  hạch 
Sarcoidosis  (1%),  bướu  quái  chưa  trưởng  thành 
(0,5%),  bướu  giáp  thòng  (0,5%),  sarcôm  mỡ 
(0,5%),  bướu  tế  bào  mầm  ác  tính  (0,5%),  bướu 
sợi (0,5%), ung thư kết hợp lao hạch bạch huyết 
(0,5%),  bướu  quái  trưởng  thành  kết  hợp  u  sợi 
thần  kinh  (0,5%).  Các  loại  bướu  thường  gặp 
trong  trung  thất  trước  là  bướu  quái  trưởng 
thành, bướu tuyến ức lành tính với tỷ lệ lần lượt 
42,5%,  17,9%.  Các  loại  bướu  thường  gặp  trong 
trung  thất  sau  là  bướu  sợi  thần  kinh  (55,8%), 

bướu  vỏ  bao  thần  kinh  (17,3%),  trong  khi  lao 
hạch  bạch  huyết,  bướu  quái  trưởng  thành 
thường  gặp  ở  trung  thất  giữa  theo  thứ  tự  là 
34,1%, 13,6%. 

59


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

KẾT LUẬN 
Tần suất các bướu trung thất trong nghiên 
cứu  của  chúng  tôi  có  thay  đổi  so  với  những 
nghiên  cứu  đã  được  công  bố  trước  đây.  Lao 
hạch  tuy  chỉ  chiếm  tỷ  lệ  7,9%  nhưng  không 
thấy báo cáo trong những nghiên cứu ở ngoài 
nước.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỷ  lệ 
bướu  không  điều  trị  phẫu  thuật  như  ung  thư 
hạch  bạch  huyết  thấp  hơn  và  tỷ  lệ  bệnh  cần 
điều  trị  phẫu  thuật  như  bướu  quái,  bướu  có 
nguồn  gốc  thần  kinh,  bướu  tuyến  ức  cao  hơn 
so với các số liệu đã được công bố trong những 
nghiên cứu trước đây.  

3.

4.


5.

6.

7.

Esposito  D,  Millikan  KW  (2001).  Mediastinal  masses.  In: 
Saclarides  TJ,  Millikan  KW,  Godellas  CV.  Surgical 
oncology: An algorithmic approach, pp 652‐659, Springer‐
Verlag, New York. 
Nguyễn  Bá  Trung,  Phó  Đức  Mẫn,  Đoàn  Hữu  Nam  và  Cs 
(1999). Bướu trung thất: dịch tễ học – chẩn đoán và điều trị. Y 
học Thành phố Hồ Chí Minh, 3(4): 390‐398. 
Roberts  JR,  Kaiser  LR  (2008).  Acquired  Lesions  of  the 
Mediastinum:  Benign  and  Malignant.  In:  Fishman  A.P. 
Fishman’s  Pulmonary  Diseases  and  Disorders,  Vol.  2,  4th 
edition,  pp  1583‐1614,  The  McGraw‐Hill  Companies,  Inc., 
New York. 
Sodha  N,  DeCamp  MM  (2008).  Congenital  Cysts  of  the 
Mediastinum:  Bronchopulmonary  Foregut  Anomalies.  In: 
Fishman  AP.  Fishman’s  Pulmonary  Diseases  and  Disorders, 
Vol.  2,  4th  Ed.,  pp  1571‐1582,  The  McGraw‐Hill  Companies, 
Inc., New York. 
Vaziri1  M,  Pazooki  A,  Zahedi‐Shoolami  L  (2009).  Mediastinal 
Masses: Review of 105 Cases. Acta Medica Iranica. 47(4): 297‐300. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

 


1.

Ngày nhận bài báo:  

2.

60

Davis  RD,  Newland  OH,  Sabiston  DC  (1987).  Primary  cysts 
and neoplasms of the mediastinum: recent changes in clinical 
presentation, methods of diagnosis, management and results. 
Ann Thorac Surg, 44: 229‐237. 
Duwe  BV,  Sterman  DH,  Musani  AI  (2005).  Tumors  of  the 
Mediastinum. Chest, 128(4): 2893‐2909. 
 

 

 

01/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

30/11/2013 

Ngày bài báo được đăng:  

05/01/2014 


 

Chuyên Đề Nội Khoa 



×