Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

U diệp thể tuyến vú: Hình ảnh lâm sàng - giải phẫu bệnh qua 20 trường hợp và hồi cứu y văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.74 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

Nghiên cứu Y học

U DIỆP THỂ TUYẾN VÚ: HÌNH ẢNH LÂM SÀNG – GIẢI PHẪU BỆNH
QUA 20 TRƯỜNG HỢP VÀ HỒI CỨU Y VĂN
Trần Hòa*
Mục tiêu: Ghi nhận những biểu hiện lâm sàng và giải phẫu bệnh của diệp thể tuyến vú (PTs) và hồi cứu y
văn để rút kinh nghiệm trong việc chẩn đoán xác định PTs.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả 20 trường hợp u diệp thể tuyến vú được chẩn
đoán tại Bệnh viện C Đà Nẵng và Bệnh viện Phụ Nữ Đà Nẵng từ năm 2004 đến năm 2010.
Kết Quả: Qua nghiên cứu cho thấy u chiếm 2,3% trường hợp bệnh lý tuyến vú của nữ giới. Tất cả các
trường hợp đều tìm thấy ở bệnh nhân trên 30 tuổi mà đỉnh cao là lứa tuổi 40 – 50 tuổi, 60% trường hợp, 45%
trường hợp u ở vú phải và 55% ở vú trái, 45% trường hợp khu trú ở ¼ trên ngoài vú. 60%trường hợp u có kích
thước lớn hơn 5cm. Chỉ 20% trường hợp u được chẩn đoán tế bào phù hợp với mô bệnh học. U giáp biên ác
chiếm 20% và u ác chiếm 10% trường hợp. Chẩn đoán PTs phải được nghĩ đến khi khối u tiến triển nhanh thay
đổi kích thước đột ngột, có kích thước trên 3cm, ở bệnh nhân trên 35 tuổi và khối u tái phát nhanh, trên tiêu bản
có hình ảnh quá phát mô đệm.Hiện tại chẩn đoán mô bệnh học vẫn còn là một xét nghiệm có giá trị đối với diệp
thể tuyến vú. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch và sinh học phân tử đang còn hạn chế trong chẩn đoán, đánh giá tiến
triển của PTs và cần được nhiều nghiên cứu sâu rộng hơn.
Kết luận: Chẩn đoán PTs có thể vẫn còn gặp khó khăn. Chính sự kết hợp Lâm sàng Giải Phẫu Bệnh sẽ giúp
cho việc chẩn đoán u được chính xác hơn, góp phần cho việc điều trị thuận lợi và hiệu quả cho bệnh nhân.

ABSTRACT
PHYLLODE TUMOR OF THE BREAST: A CLINICOPATHOLOGY OF TWENTY CASES AND REVIEW
OF LITERATURE
Tran Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 114 - 122
Background: Phyllode tumor of the breast (PTs) is an uncommon neoplasm and is difficult to distinguish
from fibroadenoma. The purpose of this study is to analyse the clinicopathological characteristics of patients with
PTs to provide clinicians and pathologists with the understanding of phyllode tumor.
Materials and Methods: this was a retrospective study of 20 women with PTs, who were managed at Da


nang C Hospital and Da nang Women’s Hospital between 2004 and 2010.
Results: PTs account for 2.3% of all breast diseases, all of them are females. All of the PTs occurred in
patients over age 30, with a peak incidence between 40 – 50 years comprising 60 % of cases. 45% of cases had
tumors occurred in the right, 55% in the left. PTs showed no predilection for side but were more common in the
upper half of the breast, particularly in the upper outer quadrant, 45% of cases. 60 % of cases had tumors larger
than 5 cm in diameter. Only 20% of cases were correctly cytological diagnosed and the ratio of clinical diagnosis
to pathological one is low (10%). The histopathology report showed that the proportion of benign, borderline and
malignant PTs was 70%, 20% and 10% of cases, respectively. The diagnosis should be considered in patients
with their breast nodules growing rapidly, increasing suddenly in size on a longstanding lesion, larger than 3 cm
in diameter, or in ones over 35 years old having local tumor recurrence, or presenting with hypercellular stroma.
Presently, the histopathological classification seems to be the strongest prognostic factor in PTs. Molecular and
immunohistochemical techniques play a limited role in the diagnosis of this tumor.
* Bệnh viện C Đà Nẵng
Tác giả liên lạc: BS. Trần Hòa

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh

ĐT: 0905.325.858

Email:

115


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

Conclusions: The diagnosis of PTs may be difficult. The presence of stroma overgrowth and the combining
clinical and pathological results seem to be the key to recognizing phyllode tumor.


ĐẶT VẤN ĐỀ

Vị trí u

U diệp thể tuyến vú (PT) là một loại u
hiếm gặp, có biểu hiện lâm sàng khá đặc
trưng cho tổn thương vú. Về mặt lâm sàng
việc chẩn đoán bệnh không quá khó khăn khi
đánh giá được sự tiến triển của u. Tuy nhiên
trong một số trường hợp chẩn đoán lâm sàng
cũng như chẩn đoán giải phẫu bệnh vẫn còn
gặp nhiều khó khăn trong việc định danh
chính xác u diệp thể đã làm cho việc điều trị
không đạt yêu cầu và thỏa đáng cho bệnh
nhân nhất là ở một số tuyến y tế cơ sở đa
khoa có điều kiện điều trị phẫu thuật u.
Qua nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận các
biểu hiện lâm sàng – giải phẫu bệnh của u diệp
thể vú để rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu
quả chẩn đoán giúp cho lâm sàng có hướng xở
trí thích hợp đối với những trường hợp u diệp
thể được phát hiện.

Bảng 2:

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu những bệnh án của bệnh nhân có
kết quả xét nghiệm mô bệnh học cuối cùng là u
diệp thể vú hoặc là u thể lá tuyến vú từ năm

2004 - 2010 tại khoa Giải Phẫu Bệnh - Bệnh Viện

Vú phải
9
45%

Vú trái
11
55%

Bảng 3:
¼ trên ngoài ¼ trên trọng ¼ dưới trong
9
7
1
45%
35%
5%

<2cm
3
15%

>2 –5cm
5
25%

Tiến triển chậm Tiến triển nhanh Tiến triển chậm sau
đó phát triển nhanh
8

9
3
40%
45%
15%

Chẩn đoán lâm sàng
Bảng 6:
U xơ vú
12
60%

U vú lành tính Ung thư vú
5
1
25%
5%

Bảng 7

mô học trước đó).
Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê
thông thường.

KẾT QUẢ
Ghi nhận được 20 trường hợp u diệp thể
trên tổng số 711 u vú ở bệnh nhân nữ.

Tuổi


116

U diệp thể
2
10%

U xơ vú U nang Tăng Nghi ngờ Sarcoma U diệp
lành

sản
ung thư

thể
tính
tuyến vú
11

1

1

2

1

4

55%

5%


5%

10%

5%

20%

Chẩn đoán mô bệnh học trước đó: Ghi nhận
trong những trường hợp u diệp thể tái phát
được chẩn đoán là u xơ vú lành tính 10/20 # 20%
trường hợp.

Phân loại mô bệnh học
Bảng 8:

Bảng 1:
<30
0

>8cm
2
10%

Bảng 5:

Chẩn đoán tế bào học

sàng – chẩn đoán giải phẫu bệnh (về FNA, về


5 – 8cm
10
50%

Tiến triển u

viện Phụ nữ Đà Nẵng.
trí u - kích thước u – tiến triển u – chẩn đoán lâm

Trọn vú
3
15%

Kích thước u
Bảng 4

C Đà Nẵng - Đơn vị Giải Phẫu Bệnh của Bệnh
Ghi nhận các yếu tố lâm sàng: Giới - tuổi, vị

Tổng cộng
20
100%

31 – 40
6
30%

41 – 50
12

60%

51 – 60
1
5%

>61
1
5%

U lành
14
70%

U giáp biên
4
20%

U ác
2
10%

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Theo y văn tỷ lệ u diệp thể bắt gặp từ < 1 –
4% tổng số các trường hợp bệnh lý ở vú. Trong
một nghiên cứu về dịch tể khác cho thấy tỷ lệ u

này chiếm từ 2,3 – 3,1 / 1 triệu phụ nữ Mỹ(9,15).
Trong khi đó các nghiên cứu ở Việt Nam cho
thấy tỷ lệ u dao động từ 2 – 5 % tùy theo sự ghi
nhận của các tác giả, tùy vào đơn vị và thời
điểm điều trị bệnh nhân(7,13,23). Tại đơn vị của
chúng tôi tỷ lệ u diệp thể / bệnh lý tuyến vú
chiếm khoảng 2,3% trường hợp, nằm trong giới
hạn ghi nhận của các tác giả khác.
Kết quả này cho thấy tỷ lệ mắc bệnh u diệp
thể ở nước ta cao hơn ở các nước Âu Mỹ. Điều
này đã được một số tác giả ghi nhận là u diệp
thể có tỉ lệ cao ở phụ nữ Châu Á và phụ nữ da
trắng ở khu vực Châu Mỹ La Tinh(8,9,14).

Về giới – tuổi
Trong 20 trường hợp của chúng tôi u diệp
thể đều gặp ở nữ giới phù hợp với nhận định
của y văn: Đa số trường hợp u diệp thể đều gặp
ở bệnh nhân nữ. Tuy nhiên u diệp thể cũng có
gặp ở nam giới, chỉ có 10 trường hợp được
thông báo trong đó có 6 trường hợp phát hiện
trong tình trạng bệnh lý nữ hóa tuyến vú nam
giới(6).
Các tác giả khác đều ghi nhận u diệp thể
thường gặp nhất ở lứa tuổi 35-55 tuổi, lớn hơn
20 tuổi so với u xơ vú lành tính. Tuổi trung bình
là 39,6 tuổi, 47 tuổi, 52 tuổi tùy theo sự ghi nhận
của các tác giả khác nhau(6,15,11).
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cho
thấy ở độ tuổi 40-50 có tỷ lệ mắc bệnh u diệp thể

cao hơn hẳn các nhóm tuổi khác chiếm 60%
trường hợp và không tìm thấy u ở < 30 tuổi,
tương tự với nghiên cứu khác ở TP Hồ Chí
Minh vào hai thời điểm khác nhau(7,13). Một
nghiên cứu khác cho thấy u diệp thể cũng có thể
gặp ở lứa tuổi < 20 tuổi(7,12). Một số tác giả còn
nhấn mạnh yếu tố chủng tộc trong u diệp thể,
lứa tuổi mắc bệnh ở phụ nữ Châu Á và Châu

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh

Nghiên cứu Y học

Mỹ La Tinh có xu hướng trẻ hơn nhóm chủng
tộc khác(11) và tỷ lệ tái phát cao hơn(9,11).
Tuổi cũng được coi là một yếu tố quan trọng
có liên quan đến bản chất u diệp thể. U diệp thể
giáp biên ác và ác tính chiếm 77,3% bệnh nhân
lớn tuổi, tỷ lệ ác tính gia tăng có ý nghĩa với lứa
tuổi và được xem là một yếu tố nguy cơ cao khi
bệnh nhân > 35 tuổi(6). Qua nghiên cứu của
Phạm Văn Ngà cũng cho thấy u ác cũng tập
trung ở lứa tuổi 50(13).

Về kích thước u
Kích thước u diệp thể thực sự là một hình
ảnh lâm sàng rất ấn tượng, các y văn đều ghi
nhận u đều có kích thước lớn và thường có sự
tiến triển nhanh kèm theo. Nghiên cứu chúng
tôi 50% khối u có kích thước > 5cm. Theo

Nguyễn Sào Trung 80,8% u diệp thể có kích
thước lớn > 5cm trong đó 56,2% u diệp thể >
8cm(13), các tác giả trong nước cũng ghi nhận u
diệp thể thường có kích thước từ 5-8cm chiếm
40,1%: trung bình là 8,5cm(7,23).
Đối với các tác giả ngoài nước u diệp thể
vẫn có kích thước thường gặp cũng tượng tự
như ở chúng ta. Kích thước u thường nằm trong
khoảng từ 5-7cm, trung bình dao động từ 7 hoặc
8,3cm cho đến 10cm(2,6,15). Trong một thống kê
khác cho thấy: < 5cm chiếm 34,7%, 5-10cm:
44,1%,> 10cm: 21,1% trường hợp(15).
Kích thước u cũng được một số tác giả ghi
nhận có một mối liên quan đến bản chất của u,
đa số khối u quá lớn có khả năng giáp biên ác và
ác tính cao hơn so với u có kích thước nhỏ(9,15,23).
Kích thước những u này trung bình là 79-86mm.
Karim cũng cho rằng u diệp thể có kích
thước lớn hơn u xơ vú từ 4-5cm nhưng không
thể dựa vào đó để chẩn đoán phân biệt u diệp
thể với u xơ vú(9).

Vị trí u
Tỷ lệ mắc bệnh ít có sự khác biệt giữa hai
vú, các nghiên cứu cho thấy có vẻ vú bên trái
nhiều hơn bên phải: vú trái chiếm 51,4%55%(2,6,11,16,17). Tuy nhiên theo một ghi nhận
được Shahida trích dẫn cho thấy u diệp thể lại

117



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

gặp nhiều ở bên vú phải trên bệnh nhân
không sinh đẻ tỷ lệ lên đến 87,5%(17).
Theo Nguyễn Sào Trung tỷ lệ mắc bệnh ở
hai vú gần giống nhau và tỷ lệ u diệp thể ở ¼
trên ngoài vú thường gặp hơn ở các vị trí khác.
Ở Việt Nam gặp từ 29,2 % - 35%(3,12) và lại lên
đến 61% ở vị trí này theo ghi nhận của
Stebing(19).
Ở nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ vú phải
tương đương vú trái, u ở ¼ trên ngoài chiếm
45%, ¼ trên trong chiếm 35% và trong đó có đến
15% trường hợp bệnh nhân u diệp thể chiếm
toàn bộ tuyến vú, thấp hơn so với ghi nhận của
Nguyễn Sào Trung cách đây khá nhiều năm với
tỷ lệ chiếm toàn bộ vú chiếm 41,7%(13).
Tỷ lệ u diệp thể có ở hai vú ở nghiên cứu
chúng tôi cũng như trong nghiên cứu của các
tác giả khác trong nước chưa ghi nhận(7,13) trong
khi đó u diệp thể cũng có thể tìm thấy ở hai vú
và tỷ lệ rất thấp từ 1/33 # 3% trường hợp đến
1/106 # 0,9% trường hợp bệnh nhân(6,11). Ngoài ra
vị trí u diệp thể có thể gặp ở nách và âm hộ
cũng được thông báo qua sự trích dẫn của y
văn.


Về sự tiến triển lâm sàng của u diệp thể
Trong nghiên cứu này có ghi nhận được các
hình ảnh tiến triển của u: U tiến triển chậm
trong vòng vài năm sau đó lại lớn nhanh có tỷ lệ
3/20 # 15% trường hợp. U tiến triển nhanh ngay
từ khi phát hiện 9/20 # 45% trường hợp. U tiến
triển chậm được phát hiện u diệp thể sau khi
phẩu thuật và bị tái phát: 8/20 #40% trường hợp.
Trong nghiên cứu của Reinfes M cho thấy triệu
chứng u thay đổi từ 2 tháng đến 30 năm. 23,5%
trường hợp u tiến triển thành hai giai đoạn: giai
đoạn 1 kéo dài trung bình 10 năm, giai đoạn 2
ngắn hơn trung bình là 7 tháng. 45,5% u diệp thể
tuyến vú tiến triển chậm trung bình là 9 năm.
31,5% u diệp thể tuyến vú tiến triển nhanh trung
bình là 5 tháng(15).
Trong một nghiên cứu khác được ghi nhận
đa số bệnh nhân phát hiện u khoảng 2 – 3 năm
trước đó và 5 – 6 tháng lớn nhanh nhưng không
chia ra rõ loại cụ thể(20). Theo Ben J chỉ có 24%

118

tiến triển nhanh trung bình là 9 tháng và triệu
chứng khó chịu ở vú hiện diện từ 14 – 42% bệnh
nhân(6). Như vậy sự lớn nhanh và / hoặc có một
sự thay đổi kích thước đột ngột trên một khối u
có trước có thể cần được xem như là một dấu
hiệu để nghĩ đến u diệp thể tuyến vú.
Bên cạnh đó, với một tỷ lệ 8/20 u diệp thể

# 40% trường hợp có một sự tiến triển chậm,
chính những trường hợp này khi kết hợp
thêm với các yếu tố lâm sàng khác như lứa
tuổi, kích thước u – đã dễ dàng làm cho một
số Bác sỹ lâm sàng ít có kinh nghiệm bỏ qua
chẩn đoán u diệp thể để thực hiện những can
thiệp ngoại khoa không thích hợp.
U tái phát và tiến triển nhanh sau mổ, trên
một bối cảnh lâm sàng u tiến triển chậm trước
đó cần phải cảnh giác một trường hợp u diệp
thể. Và cũng không thể chủ quan trong những
trường hợp u vú có một tiến triển chậm.
Trong 20 trường hợp u diệp thể được nghi
nhận 2/20 case # 10% được lâm sàng chẩn đoán
là u diệp thể và nghi ngờ u diệp thể phù hợp với
kết quả GPBL. Cho thấy tỷ lệ phù hợp giữa chẩn
đoán GPBL với chẩn đoán lâm sàng còn thấp,
nhận xét này tương tự với ghi nhận của Nguyễn
Sào Trung(13).
Trong những trường hợp chẩn đoán không
phù hợp thường liên quan đến các tuyến y tế cơ
sở không có đơn vị chuyên trách về ung bướu.
Thực tế lâm sàng cho thấy u diệp thể xuất
hiện rời rạc với một số lượng ít trong năm.
Trong những trường hợp u tiến triển chậm, u
nhỏ, ít kinh nghiệm và ít nhạy cảm lâm sàng nên
rất dể chẩn đoán nhầm sang u xơ vú hoặc u vú
lành tính một cách chung chung.

Về chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học u

diệp thể
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ chẩn
đoán tế bào học u diệp thể có độ chính xác thấp
khi so sánh với chẩn đoán mô bệnh học nhất là
những trường hợp u nhỏ và tiến triển chậm, tỷ
lệ này chỉ đạt 4/20 # 20% trường hợp.

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

Nghiên cứu Y học

Về độ chính xác của FNA trong u diệp thể
vẫn còn nhiều tranh cãi, có tác giả cho rằng FNA
có độ chính xác thấp trong việc chẩn đoán u
diệp thể, có tác giả lại cho rằng hầu hết các
trường hợp có thể phân biệt được u diệp thể và
u xơ vú, tỷ lệ chính xác có một sự thay đổi khá
lớn từ 14% – 93%(8,21,23).

Việc chẩn đoán u diệp thể là carcinôm vú
cũng được một số tác giả ghi nhận khi làm
FNA(12). Sự thay đổi bất thường của tế bào biểu
mô trong u diệp thể rất dễ nhầm với carcinôm
vú, khi đó sự hiện diện của các tế bào mô đệm
sẽ giúp chúng ta chẩn đoán phân biệt u diệp thể
với carcinôm vú(3).


Việc phân biệt u diệp thể với các tổn thương
lành tính khác của u và đặc biệt là với u xơ vú là
một công việc rất có giá trị góp phần cho lâm
sàng có những chủ động hợp lý hơn trong điều
trị u diệp thể.

Để có được một chẩn đoán FNA có giá trị
cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẻ với lâm
sàng, cần lưu ý đến sự tiến triển u(21), lưu ý đến
những trường hợp u tái phát và tiến triển nhanh
sau một chẩn đoán u xơ tuyến vú. Độ chính xác
của FNA đều tăng lên 14% - 25% trong trường
hợp u tái phát(3).

Các tác giả đòi hỏi nên làm FNA ở nhiều vị
trí khác nhau trên u để gia tăng độ chính xác vì
u diệp thể có tổn thương không đồng nhất. Đòi
hỏi tiêu bản FNA phải có đủ thành phần tế bào
cho chẩn đoán(12, 23).
Theo Selena,u diệp thể thường chẩn đoán
nhầm sang u xơ vú: 14/80 u diệp thể # 17,5%
trường hợp được chẩn đoán là u xơ vú vì sự
phân biệt qua hình ảnh, kích thước mô đệm của
những loại u này nhiều khi cũng rất khó khăn(3).
Các y văn đều nhấn mạnh sự có mặt các
thành phần mô đệm trên tiêu bản FNA, được
coi là tiêu chuẩn quan trọng và quytết định để
chẩn đoán u diệp thể. 82% trường hợp hiện
diện hình ảnh này(21).
Sự hiện diện tế bào mô đệm trên 30% diện

tích vi trường, kích thước và hình dạng của
các đám tế bào biểu mô lớn hơn 1mm, mật độ
tế bào mô đệm cao kể cả tế bào nhân trần 2
cực. Sự co cụm của các tế bào ống tuyến quá
sản và sự vắng mặt các tế bào đỉnh tiết sẽ
hướng đến một chẩn đoán u diệp thể(9,3).
Ngoài ra trong u diệp thể, các đám tế bào biểu
mô có xu hướng dài ra, gợn sóng và xếp nếp
trong khi đó ở u xơ vú các tế bào tuyến tạo
các ống tuyến nhỏ, tạo nhánh đầu tù(9).
Trong những u vú có kích thước 4cm trở
lên cần thận trọng chẩn đoán là u diệp thể hay
u xơ vú(21).

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh

Ngoài ra do sự thoái hóa, giãn rộng và chứa
chất dịch ở một số ống tuyến trong u diệp thể
cũng đã dẫn đến một tình huống mà chúng tôi
gặp phải là khi làm FNA rút ra một lượng dịch
nhất định giống với một tổn thương u nang vú.
Sự lặp lại FNA vào vùng u tồn tại sau hút
dịch và chính sự hiện diện các đám tế bào mô
đệm là các yếu tố để chẩn đoán u diệp thể.

Về chẩn đoán mô bệnh học
U diệp thể chỉ được xác địnhqua chẩn đoán
mô bệnh học với những hình ảnh đặc trưng của
những thành thành phần biểu mô và mô đệm.
Thành phần biểu mô ống tuyến bị chèn ép

kéo dài, có một hình ảnh giống lá (tương tự với
u xơ vú dạng trong ống). Thành phần mô đệm
liên kết tăng sinh rất mạnh giống như hình ảnh
nhú lồi vào trong lòng ống tuyến, nhiều hơn
hẳn so với u xơ tuyến vú, thường gặp ở vùng
quanh ống tuyến., sự tăng sinh quá mức của mô
đệm được xác định khi vắng mặt thành phần
biểu mổ trong ít nhất một vi trường lớn (x 40)(5).
Ngoài ra còn gặp những biểu hiện chuyển sản
các loại ở thành phần biểu mô và mô đệm.
Sự có mặt của những thành phần mô đệm và
biểu mô là cần thiết để xác định chẩn đoán u
diệp thể(14).
Dựa vào đặc tính của tế bào mô đệm để
phân lọai u lành – u giáp biên – u ác. Chỉ có tế
bào mô đệm mới có tiềm năng di căn. Sự thay

119


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

đổi ác tính biểu hiện tăng sinh tế bào mô đệm
với sự không điển hình về mặt tế bào học và
hoạt động phân bào.>5/10 HPF, thiếu vắng
thành phần biểu mô là các tiêu chuẩn thường
được tác giả áp dụng để phân loại mô bệnh học.
Nhiều tác giả khác nhau đưa ra các tiêu

chuẩn khác nhau để phân biệt u diệp thể lành
tính, ác tính hay giáp biên ác.Theo Azzopardi(14):
Bảng 9
U lành
U giáp biên
Bờ u
Có chèn ép
Không rõ
Mức độ tế bào
Thấp
Trung bình
mô đệm
Tỉ lệ nhân chia /
<5
5-9
10hpf
Sự đa dạng
Nhẹ
Vừa
hình thái tế bào

U ác
Xâm nhiễm
Cao
>10
Nặng

Theo WHO: Bờ u, mật độ tế bào mô đệm, sự
đa dang hình thái tế bào cũng tương tự như
Azzopardi nhưng chỉ số phân bào lại đánh giá

trên vi trường 10.trên 10 phân bào trên một
quang trường 10 là ác, ít hơn 4 phân bào trên
một quang trường 10 là lành và thêm tính chất
mô đệm phân bố đồng nhất, phân bố không
đồng nhất hay quá phát U ác tính hiện diện ở
mức tối đa ít nhất là 4 yếu tố kể trên.
U lành tính ít nhất 3 yếu tố ở mức thấp nhất
và có không quá 2 yếu tố ở mức độ trung bình.
Giáp biên: khi không thuộc các nhóm trên(5).
Trong nghiên cứu này tỷ lệ các loại u lành,
giáp biên ác và u ác phân bố như sau: 70%, 20%
và 10% tổng số các trường hợp u diệp thể.
Tỷ lệ các nhóm bệnh trong các nghiên cứu
khác được ghi nhận như sau.
Bảng 10
Tác giả
U lành tính U giáp biên
Ng S Trung
85,4%
7,3%
(7)
Huỳnh H Hạnh
66,7%
14,4%
(11)
Lehard MS
40%
27%
(9)
Karim RZ

53,8%
35%
(15)
Reinfuss M
54%
11,3%

U ác tính
7,3%
18,9%
33%
11,2%
34,7%

Tỷ lệ u diệp thể ác tính thay đổi từ 8-45%
trường hợp(14) hoặc từ 1-54% trường hợp(19) một

120

trong những nguyên nhân gây nên sự thay đổi
khá rộng rãi này có thể là do tỷ lệ u diệp thể và
kết quả trên những nhóm bệnh nhân nhỏ ở
những nghiên cứu riêng biệt và thiếu hụt những
tiêu chuẩn cụ thể trên hình ảnh mô bệnh
học(11,19).
Mặt cắt của mẫu bệnh phẩm trên tiêu bản đặc biệt trong những trường hợp u lớn nó có thể
thể hiện các hình ảnh tổn thương khác nhau(14).
Các yếu tố lấy mẫu không đúng, sự không đồng
nhất của U và sự không thống nhất về các tiêu
chuẩn mô học(7) nên tỷ lệ các nhóm bệnh thay

đổi nhiều qua các nghiên cứu.
Để chẩn đoán phân biệt giữa u diệp thể giáp
biên ác với 2 loại lành tính và ác tính đôi khi rất
khó khăn(13). Ngay trên một tiêu bản có đến 25%
trường hợp các nhà giải phẫu bệnh có kết luận
khác nhau(14).
Một vấn đề cần quan tâm trong thực tế lâm
sàng mà chúng tôi gặp phải là có đến 10/20 #
50% trường hợp u diệp thể lành tính lại được
chẩn đoán là U xơ tuyến vú trước đó trong đó
có 8/10 trường hợp này được phát hiên khi u tái
phát và 2 trường hợp kiểm tra lại lâm sàng thấy
phù hợp với u diệp thể.
Chẩn đoán phân biệt giữa u diệp thể và u xơ
tuyến đôi khi vẩn còn gặp khó khăn(10). U diệp
thể có những cấu trúc cơ bản tương tự với hình
ảnh của u xơ tuyến trong ống. Sự khác biệt ở
thành phần mô đệm liên kết là đặc điểm quan
trọng để chẩn đoán phân biệt với u xơ tuyến(19).
Mô đệm trong u xơ tuyến có xu hướng ít
tế bào, mật độ tế bào thấp và chất dạng nhầy
đồng dạng và thuần nhất hoặc mô đệm xơ
hóa có xu hướng đồng nhất trong khi đó
những thay đổi dạng nhầy trong u diệp thể có
thể ít hơn, không đồng nhất và có nền u thoái
hóa. Tăng sinh mô đệm giả mạch máu cũng
thường gặp và trong vài trường hợp lại là
hình ảnh nổi bật của u diệp thể vú(10).

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Bên cạnh đó, sự có mặt các khỏang trống
biểu mô bị kéo dài đôi khi giãn lớn, bao quanh
nó là tế bào mô đệm cũng là hình ảnh có liên
quan đên u diệp thể cũng như trong u xơ
tuyến(19).
Không có sự phát triển quá mức của các
thành phần trong ống, thể hiện một sự đồng
dạng trong mật độ tế bào mô đệm, không có sự
đa dạng tế bào hoặc hình ảnh nhân chia cũng là
những yếu tố đê chẩn đoán phân biệt u xơ tuyến
và u diệp thể vú. Không giống như u diệp thể, u
xơ tuyến có vỏ bao thật sự(14).
Một trong số các đặc điểm của u diệp thể
luôn được nhấn mạnh là sự không đồng nhất
các thành phần mô đệm trong tổn thương. Tỷ lệ
giữa số lượng mô đệm và ống tuyến thay đổi từ
vị trí này đến vị trí kế cận khác. Trong khi đó u
xơ tuyến không thấy sự biến đổi này trên 1 khu
vực rộng hơn(10). Vì vậy cần phải lấy nhiều mẫu
hơn để có được một chẩn đoán chính xác(12).
Khi trình độ dân trí tăng, bệnh nhân sẽ được
phát hiện u ở thời điểm sớm hơn, khi u đang
còn ở những kích thước nhỏ, nên việc phân biệt
giữa u xơ tuyến và u diệp thể chắc chắn sẽ là
một vấn đề quan trọng, để quyết định cho việc
điều trị bệnh nhân như thế nào.
R.Jackline(8) đã đưa ra các khuyến cáo phải

cần được xem các u xơ tuyến vú đều có thể là
u diệp thể vú cho đến khi có những bằng
chứng ngược lại nếu có những đặc điểm nghi
ngờ sau đây:
+ U đột ngột tăng kích thước sau 1 thời gian
dài “yên ổn”.
+ U xơ tuyến có kích thước trên 3 cm hoặc
bệnh nhân trên 35 tuổi.
+ FNA có sự hiện diện mô đệm tăng sinh
tế bào.

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh

Nghiên cứu Y học

Vấn đề hóa mô miễn dịch đối với u diệp
thể
Một số tác giả cho rằng hóa mô miễn dịch và
sinh học phân tử chưa có giá trị rõ ràng trong
chẩn đoán u diệp thể vú(10). Các tế bào mô đệm
của u (+) với vimentine cũng có thể (+) với
desmin và S-100 protein.75%(+) với actin đặc
hiệu cơ(19, 20).
Sự đột biến gen p53 được cho rằng có vai trò
quan trọng trong sự tiến triển u. Sự bộc lộ P53
gia tăng một cách có ý nghĩa trong những
trường hợp u diệp thể giáp biên và u diệp thể ác
so với u diệp thể lành tính nhưng lại không có
sự khác biệt có ý nghĩa giữa u giáp biên ác với u
ác(4). Mặc dù P53 có liên quan đén tính ác của u,

5/9 trường hợp u P53 (+) nhưng cũng không thể
áp dụng đê pnân biệt giữa U diệp thể và u xơ
tuyến(16, 14).
Đối với kháng nguyên Ki 67 trong u diệp thể
cho thấy 5% - 25% dương tính trong các trường
hợp u lành tính và 15% – 100% dương tính trong
u ác tính(22). Trong khi đó trong một nghiên cứu
khác lại cho thấy tỷ lệ Ki 67 (+) dao động từ 1,3%
- 4,7% ở u diệp thể lành tính, 6% - 16% u giáp
biên và 12% - 50% trường hợp u ác tính.
Một số tác giả cho rằng giá trị Ki 67 và P53
cao trong những trường hợp tái phát và cho di
căn và có thể đóng vai trò trong việc tiên đoán
và tiên lượng và đưa ra điều trị hỗ trợ cho bệnh
nhân bị u diệp thể ác sau phẫu thuật(23).
Tuy nhiên việc xác định Ki 67 trong chẩn
đoán u diệp thể vẫn còn đang tranh cãi(8). Trong
những trường hợp u diệp thể tái phát tỷ lệ ki 67
dương tính thay đổi khá rộng rãi từ <1% - 60%
như vậy Ki 67 dương tính không thật sự có ý
nghĩa để xem là một yếu tố dự báo sự tái u(11). Ki
67 chỉ có thể hỗ trợ trong những chẩn đoán
phân biệt giữa u xơ vú và u diệp thể(1).
CD117 (c – kit) cũng có bộc lộ trên các tế bào
mô đệm. Nó gia tăng trong những trường hợp u
diệp thể ác tính hơn là u diệp thể lành tính, 5%-

121



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011

46% CD117 dương tính trong u lành và 40% 100% trong u ác(22, 4).
Một vài tác giả cho rằng sự bộc lộ quá mức
của CD117 có liên quan đến tái phát u(22), nhưng
trong một nghiên cứu khác lại cho rằng CD117
không liên quan đến tái phát hoặc di căn trong u
diệp thể(4). Cũng như P53 sự khác biệt trong bộc
lộ CD117 giữa u giáp biên và u ác không có ý
nghĩa(4). Những cơ chế động học của CD117 trên
u diệp thể chưa được kết luận ra vì những điểm
đột biến của gen CD117 trên GIST không giống
như ở u diệp thể.
ER – PR cũng được đánh giá trên thành
phần biểu mô, PR thường được bộc lộ hơn ER,
ER và PR dương tính từ 43% - 84% ở thành phần
biểu mô và ít hơn 5% ở thành phần mô đệm.
Chúng thường bộc lộ ở mức độ thấp trong
những trường hợp u diệp thể ác tính và giáp
biên hơn là u diệp thể lành tính(22). Đối với thành
phần mô đệm, thường âm tính với α ERvà PR
nhưng lại dương tính với β ER, chúng thường
dương tính trên những bệnh nhân lớn tuổi(22).

tính hay thay đổi nhưng nó vẫn là một phương
pháp được áp dụng nhiều nhất(22).

Đối với Her – 2/Neu, 12% - 16% dương thính

trong những trường hợp u diệp thể lành tính,
56% - 63% dương tính đối với u diệp thể ác tính,
8% - 16% u diệp thể có sự bộc lộ quá mức EGFR
được phát hiện qua hóa mô miễn dịch(2).

1.
2.

Hóa mô miễn dịch và sinh học phân tử chưa
có giá trị và vẫn còn hạn chế trong chẩn đoán xác
định u diệp thể(5, 22, 1). Sự đánh giá các chẩn đoán
sinh học bằng hóa mô miễn dịch chưa có đủ ý
nghĩa trong việc làm rõ các yếu tố tiên lượng(22,4).
P53, ki-67 và c kit chỉ hỗ trợ một phần trong
việc phân biệt lành tính và giáp biên ác tính của
u diệp thể(11). Tham số giải phẫu bệnh lâm sàng
có ý nghĩa duy nhất trong việc dự báo sự tái
phát của u vẫn là bờ của diện cắt dương tính
hay không(11). Chẩn đoán u diệp thể và lượng
giá mức độ grade trên cơ sở những tính chất mô
bệnh học vẫn chưa được kết luận đầy đủ và có

122

KẾT LUẬN
Qua 20 trường hợp u diệp thể tuyến vú
được chẩn đoán tại Bệnh Viện C Đà Nẵng và
Bệnh Viện Phụ Nữ Đà Nẵng cho thấy:
- U chiếm tỷ lệ 2,3% trong tổng số bệnh lý
về vú.

- 60% trường hợp gặp ở lứa tuổi 40 –50 tuổi.
- 45% u t khu trú ở ¼ trên ngoài vú.
- U lớn hơn 5cm chiếm 60% trường hợp.
- 40% u giáp biên ác, 10% u ác.
Tỷ lệ phù hợp giữa chẩn đoán lâm sàng, tế
bào học với mô bệnh học còn thấp. Một số
trường hợp chẩn đoán phân biệt giữa u diệp thể
và u xơ tuyến vú còn gặp khó khăn, đánh giá sụ
tiến triển lâm sàng và sự có mặt thành phần mô
đệm quá phát là yếu tố quan trọng để chẩn đoán
u diệp thể tuyến vú.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

3.
4.

5.

6.

7.

8.
9.

10.
11.

Altaf FJ (2004). Phyllode tumor. Bahrain Med Bull 2004;226(3).

Bhargay PRK (2009). Phyllode tumor of the breast:
Clinicopathological Analysis of Recurrent vs Nonrecurrent cases.
Asian Journal of Surgery, Vol 32 issue 4 october 2009: 224-228.
Bhattarai S (2000). Phyllode tumor of the breast a cytohistologic
study of 80 cases. Acta cytol 2000;44: 790-796.
Esposito NN (2006). Phyllode tumor A clinicopathologic and
immunohistochemical study of 30 cases. Arch pathol lab med
2006;130:1516-1521.
Giri D (2009). Recurrent challenges in the evaluation of
fibroepithelial lesions- Arch Pathol Lab Med, vol 133, May 2009:
713-721.
HaussounaJB (2006). Phyllode tumor of the breast: a case serries
of 106 patients. The AmericanJournal of Surgery 2006(1992):141147.
Huỳnh Hồng Hạnh, Nguyễn Chấn Hùng (2005). Bướu diệp thể
vú: chẩn đóan và điều trị. Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
Chuyên đề ung bướu học –phụ bản tập 9 số 4: 437-443.
Jacklin RK (2006). Optimising preoperative diagnosis in phyllode
tumor of the breast. J.Clinical pathol 2006;59:454-459.
Karim RZ.(2009). Phyllode tumor of the breast: A
clinicopathological analysis of 65 cases from single insitution. The
Breast 18(2009):165-170.
Koenner FC (2009). Phyllode tumor. Diagnosis problem in
breast pathology 329-341. Sauners Elservier.
Lehard MS (2008). Phyllode tumor of breast: clinical follow up of
33 cases of rare disease. Eu.J.Obstetrics & gynec and reproductive
Biology 138:217- 221.

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
12.
13.
14.
15.

16.

17.

Muttarak M (2006). Phylollde tumor of the breast. Biomed
ImagingInterv.J 2006;2 (2): 233.
Nguyễn Sào Trung (1992). Hình thái Giải phẫu bệnh –lâm sàng
của bướu Diệp thể vú. Hình thái học tập 2 số 2: 13-15.
Parker SJ, Harris SA (2001). Phyllode tumor. Postgrad Med
2001;77:428-435.
Reinfuss M (1996). The treatment and prognosis of patients with
Phyllode tumor of breast: An analysis of 170 cases. Cancer
1996;77: 910- 916.
Shabalova IP (1997). Phyllode tumor: Cytologic and Histologic
presentation of 22 cases and immunohistochemical
demonstration of P53. Cytopathology, 8:177-187.
Shahida Khatoon (2008). Clinical pattern and Management
outcome of phyllode tumor of breast. J.Surgery
Pakistan(international) 13(1)- January- March:16-18.

Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh

18.
19.


20.

21.

22.
23.

Nghiên cứu Y học

Spitz DJ (2002). Breast. Haber Differential Diagnosis in Surgical
pathology-P 607-608 Hardcover.
Stebbing JK (1995). Diagnosis and management of phyllode
tumor of the breast: experience of 33 cases at a specialist centre.
Ann Rcolle Surg Engl 1995;77:181-184.
Tạ văn Tờ (2004). Giải phẫu bệnh và tế bào học ung thư vú trong: PGS TS Nguyễn Bá Đức. Bệnh Ung thư vú trang 172-176.
Nhà xuất bản Y học Hà nội.
Tô minh Châu (2005). Đối chiếu tế bào học giải phẫu bệnh bướu
diệp thể. Y học thành phố Hồ chí Minh phụ bản tập 9 số 4,2005:
51-53.
Tse GMK (2010). Phyllode tumor of Breast: an update. Breast
Cancer 17: 29-34.
Võ Đăng Hùng (2005). Điều trị bướu Diệp thể vú. Y học thành
phố Hồ chí Minh phụ bản tập 9 số 1, 2005: 137-145.

123




×