Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân một trường hợp sarôm tạo xương giàu đại bào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.43 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP SARÔM TẠO XƯƠNG GIÀU ĐẠI BÀO 
Trần Minh Thông*, Phạm Quang Thông* 

TÓM TẮT 
Báo cáo bàn luận về trường hợp sarcôm tạo xương giàu đại bào ‐ một bệnh lý hiếm gặp thuộc nhóm sarcôm 
tạo xương qui ước. Bệnh nhân nam 22 tuổi, quốc tịch Campuchia, có một khối u đầu dưới xương đùi trái, rất 
đau, sưng, hạn chế vận động khớp gối, kèm theo triệu chứng sốt và sụt cân. Đặc biệt, hình ảnh vi thể có rất nhiều 
đại bào, dễ dẫn đến chẩn đoán nhầm với u đại bào xương. Kết luận chẩn đoán dựa trên giải phẫu bệnh, hình ảnh 
học và thông tin lâm sàng. 
Từ khóa: sarcôm tạo xương giàu đại bào, sarcôm tạo xương qui ước, u đại bào xương. 

SUMMARY 
CASE REPORT: GIANT CELL RICH OSTEOSARCOMA 
Tran Minh Thong, Pham Quang Thong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 594 ‐ 599 
This  report  discusses  a  case  of  giant  cell  rich  osteosarcoma,  which  is  a  rare  variant  of  conventional 
osteosarcoma. This patient is a 22 year old male Cambodian, who had a tumor in lower extremity of left femur 
with pain, swelling, limited joint mobility, fever and weight loss. Especially, microsections showed a lot of giant 
cells and were easy to be misdiagnosed as giant cell tumor. The exact diagnosis was based on histopathological 
diagnosis, imaging tests and clinical information. 
Keywords: giant cell rich osteosarcoma, conventional osteosarcoma, giant cell tumor. 
Những vị trí khác là xương sọ hoặc xương hàm 
TỔNG QUAN 
(8%) và xương chậu (8%)...(15). 
Sarcôm tạo xương là một ung thư phát triển 
Nguyên  nhân  của  bệnh  sarcôm  tạo  xương 
từ tế bào tạo xương có nguồn gốc trung mô và 


đến nay vẫn chưa xác định. Tuy nhiên bệnh có 
tạo  chất  dạng  xương  ác  tính.  Bệnh  chiếm  tỉ  lệ 
một  số  yếu  tố  nguy  cơ  rõ  rệt.  Sự  phát  triển 
25% các ung thư nguyên phát ở xương(16). Nguy 
xương  nhanh  trong  thời  kì  thiếu  niên  làm  tăng 
cơ mắc bệnh ở giới nam cao hơn giới nữ với tỉ lệ 
nguy cơ bệnh. Chất phóng xạ làm tăng nguy cơ 
1,5‐2/1(5).  Phân  bố  tuổi  của  sarcôm  tạo  xương 
sarcôm tạo xương thứ phát. Những bệnh nghịch 
thường có 2 đỉnh, với đỉnh tuổi thứ nhất là 10‐14 
sản  xương  như  bệnh  Paget,  nghịch  sản  sợi,  u 
tuổi tương ứng với thời kì dậy thì. Đình tuổi thứ 
sụn,  đa  lồi  xương  di  truyền  và  u  nguyên  bào 
hai  là  người  trưởng  thành  trên  65  tuổi,  thường 
võng  mạc  (dòng  tế  bào  mầm)  là  những  yếu  tố 
kèm theo bệnh lí ác tính khác như bệnh Paget. Tỉ 
nguy cơ liên quan đến đột biến gen.  
suất  mới  mắc  mỗi  năm  là  5,4/106  ở  nam  và 
Triệu chứng bệnh xuất hiện vài tuần đến vài 
4,0/106 ở nữ. U thường phát triển từ vùng hành 
tháng  trước  khi  được  chẩn  đoán.  Theo  một 
xương gần đĩa tăng trưởng của xương dài. Vị trí 
nghiên  cứu  trên  102  bệnh  nhân  sarcôm  tạo 
u thường được xem là gần gối xa khuỷu do hay 
xương,  92%  bệnh  nhân  có  triệu  chứng  đau  tại 
gặp  nhất  ở  xương  đùi  (42%,  với  75%  ở  đầu 
chỗ, 85% căng đau, 56% đau từng cơn khi nghỉ 
dưới), xương chày (19%, với 80% ở đầu trên) và 
ngơi 
và  21%  đau  về  đêm.  39%  bệnh  nhân  sờ 

xương  cánh  tay  (10%,  với  90%  ở  đầu  trên). 
* Khoa Giải Phẫu bệnh, BV Chợ Rẫy  
Tác giả liên lạc: BSCKII Trần Minh Thông, ĐT: 0918202941, Email:  

594

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
được  khối  u.  Khi  di  chuyển  khớp,  39%  bệnh 
nhân  đau  và  23%  bệnh  nhân  bị  giới  hạn  vận 
động khớp. Triệu chứng sốt chiếm 3%. 5% bệnh 
nhân  bị  teo  cơ.  31%  bệnh  nhân  đi  lại  khập 
khiễng. 47% bệnh nhân gặp chấn thương tại thời 
điểm bắt đầu xuất hiện triệu chứng(18). 
Về hình ảnh học, sarcôm tạo xương cho các 
hình  ảnh  như  khuyết  do  hủy  xương,  tăng  đậm 
độ do tăng sinh xương, phản ứng màng xương 
ác tính, vỡ vỏ xương… Không thể chỉ dùng một 
đặc điểm hình ảnh riêng lẻ để chẩn đoán bệnh. 
Trên  XQ,  hình  ảnh  tổn  thương  của  sarcôm  tạo 
xương  có  thể  chỉ  là  hủy  xương  (khoảng  30%), 
tạo xương (khoảng 45%) và dạng hỗn hợp. Phản 
ứng  màng  xương  cho  hình  ảnh  tam  giác 
Codman. U lan rộng qua màng xương có thể tạo 
thành  hình  ảnh  tia  sáng  mặt  trời  (khoảng  60% 
bệnh  nhân).  Dạng  sarcôm  tạo  xương  dạng  dãn 
mạch xa thường có dạng nang và có thể lầm với 
một nang xương phình mạch(7). CT scan giúp xác 

định vị trí và xâm  lấn  của  u  tốt  hơn.  Cũng  cần 
thực hiện XQ hoặc CT‐scan ngực để đánh giá di 
căn phổi. 
Về đại thể, sarcôm tạo xương thường là tổn 
thương lớn, đường kính hơn 5cm, phá vỡ màng 
xương và có thể lan rộng ra vùng mô mềm cũng 
như  vùng  nội  tủy.  Có  thể  thấy  những  ổ  tế  bào 
ung  thư  ở  vị  trí  xa  trong  khoang  tủy  xương 
bệnh.  Hình  ảnh  u  thay  đổi  theo  độ  biệt  hóa  và 
thường  lốm  đốm  nhiều  màu.  Có  thể  thấy  hình 
ảnh phản ứng màng xương dạng gai hoặc phiến 
xương.  Thường  thấy  hình  ảnh  những  ổ  chảy 
máu và hoại tử, những vùng lớn chứa đầy máu. 
Về  vi  thể,  cấu  trúc  giống  như  trung  mô 
xương  nguyên  thủy,  gồm  những  đám  tế  bào 
không  biệt  hóa,  đa  diện  hoặc  hình  thoi,  bào 
tương rõ, nhiều nhân quái, nhân chia. Tế bào u 
họp  thành  bè  tạo  nên  mô  xương  hoặc  dạng 
xương  kèm  mô  liên  kết  rất  giàu  mạch  máu. 
Cũng  có  thể  thấy  những  đám  mô  sụn,  mô  sợi, 
mô nhầy, đại bào nhiều nhân giống hủy cốt bào, 
nhiều vùng chảy máu(16).  
Sarcôm tạo xương giàu đại bào lần đầu tiên 
được  mô  tả  bởi  Bathurst  và  cộng  sự  năm  1986, 

Nghiên cứu Y học

thuộc  nhóm  sarcôm  tạo  xương  qui  ước.  Theo 
một số nghiên cứu, tỉ lệ bệnh chiếm từ 1‐3% tổng 
số  sarcôm  t) 

bào  này  đều  có  nhân  giống  nhau,  hình  bầu 
Hình ảnh giải phẫu bệnh 
dục,  ít  nhân  chia.  Có  nhiều  tế  bào  có  nhân 
Đại  thể:  Bệnh  phẩm  gồm  4  mẫu  mô  kích 
không điển hình và nhân chia, hình thành  chất 
thước 0,5x1 cm, màu trắng, mềm. 
dạng xương, sụn không trưởng thành 

Vi thể 

Hình ảnh vi thể chính của u gồm nhiều đại 
bào  xương  và  tế  bào  đơn  nhân.  Cả  hai  loại  tế 

596

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 

Nghiên cứu Y học

 
Hình 2: Đại bào có nhiều nhân giống hủy cốt bào. 
Nhuộm H&E x100: 

Hình 4: Dương tính ở bào tương của các tế bào ung 
thư Nhuộm Vimentin x100: 

BÀN LUẬN 

Quan  sát  tiêu  bản  của  bệnh  nhân  này,  ghi 
nhận đầu tiên của bác sĩ giải phẫu bệnh là có rất 
nhiều  đại  bào  trên  các  vi  trường,  từ  đó  có  thể 
hướng đến chẩn đoán u đại bào xương. Đây là 
một  loại  u  giáp  biên  ác,  chiếm  tỉ  lệ  4  ‐  5%(17), 
đứng  thứ  3  trong  u  xương  nguyên  phát,  sau 
sarcôm tạo xương và u sụn xương..  
Trong trường hợp bệnh nhân này, xuất hiện 
nhiều tế bào có nhân không điển hình và nhân 
chia,  hình  thành  chất  dạng  xương,  sụn  không 
trưởng  thành,  vị  trí  ở  hành  xương.  Từ  đó  lại 
hướng đến chẩn đoán bệnh thuộc nhóm sarcôm 
tạo xương qui ước. Đồng thời cùng với sự xuất 
hiện nhiều đại bào, chúng tôi nghĩ nhiều đây là 
sarcôm tạo xương giàu đại bào. Một số đặc điểm 
của sarcôm tạo xương giàu đại bào không có ở u 
đại  bào  xương  như:  sự  tạo  thành  chất  dạng 

Hình 3: Nhân chia không điển hình Nhuộm H&E 
x400. 

 
Hình 5: Mô chất dạng xương màu hồng trên mô nền 
bướu Nhuộm H&E x200: 
xương  trực  tiếp  từ  tế  bào  ung  thư,  hiện  tượng 
thoái sản của một số tế bào đệm(12,13).  
Một bệnh khác cũng cần xét đến là bướu mô 
bào  sợi  ác  tính.  Đây  là  một  dạng  sarcôm  có 
nguồn  gốc  không  rõ  từ  cả  mô  mềm  và  xương, 
lần đầu tiên được mô tả năm 1961 bởi Kauffman 

và Stout. Dạng đa hình của bướu mô bào sợi ác 
tính có dạng những bó nhỏ tế bào thoi tỏa ra từ 
một  điểm  trung  tâm  chen  kẽ  với  những  tế  bào 
khổng lồ tân tạo. Trong một nửa số trường hợp, 
bướu  mô  bào  sợi  ác  tính  lại  chứa  những  ổ  nhỏ 
chất  dạng  xương  và  đại  bào  nhiều  nhân.  Tuy 
nhiên, thành phần tăng sinh chính là mô bào sợi 
có kiểu sắp xếp nan hoa(3), không giống cách sắp 
xếp  tế  bào  trong  trường  hợp  này.  Từ  đó  giúp 
chúng tôi loại trừ bướu mô bào sợi ác tính. 
Trong nhóm sarcôm tạo xương qui ước, đại 
bào xếp lan tỏa và chỉ chiếm tỉ lệ tối đa 1‐2%(12). 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

597


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Trong trường hợp này, số lượng đại bào rất cao, 
giúp  phân  biệt  sarcôm  tạo  xương  giàu  đại  bào 
với  những  loại  khác  trong  nhóm  sarcôm  tạo 
xương qui ước. 
Về hóa mô miễn dịch, không có loại dấu ấn 
nào  giúp  chẩn  đoán  xác  định  sarcôm  tạo 
xương giàu đại bào. Hầu hết sarcôm tạo xương 
dương  tính  với  vimetin.  Những  protein  của 

chất  nền  xương  như  osteocalcin,  và 
osteonectin hiện diện trong sarcôm tạo xương, 
do  đó  dấu  ấn  của  chúng  có  tỉ  lệ  dương  tính 
cao. Một số dấu ấn khác như S100, actin, EMA 
có tỉ lệ dương tính thấp hơn trong sarcôm tạo 
xương.  Tuy  nhiên  các  dấu  ấn  này  không  đặc 
hiệu  cho  sarcôm  tạo  xương,  do  đó  việc  sử 
dụng để chẩn đoán phân biệt với những bướu 
xương khác còn gặp hạn chế. 
Về x‐quang, vị trí của u là vùng hành xương, 
khối u có bờ không rõ, kèm hùy xương, xơ hóa 
và phản ứng màng xương. Những hình ảnh này 
phù  hợp  với  sarcôm  tạo  xương  hơn  u  đại  bào 
xương  và  bướu  mô  bào  sợi  ác  tính.  U  đại  bào 
xương  có  vị  trí  thường  ở  vùng  đầu  xương  ở 
người trưởng thành, bờ không xơ hóa, không có 
phản ứng màng xương. Bướu mô bào sợi ác tính 
lại  ít  khi  có  phản  ứng  màng  xương  và  hiếm  có 
hiện tượng canxi hóa chất nền(9).  
Về đặc điểm dịch tễ, bệnh nhân nam 22 tuổi, 
thuộc nhóm tuổi có nguy cơ cao nhất của sarcôm 
tạo xương giàu đại bào là ở thập niên niên thứ 
ba(6).  U  đại  bào  xương  thường  gặp  hơn  ở  nữ,  ở 
lứa tuổi 20‐40(11). Đối với bướu mô bào sợi ác tính 
có tỉ lệ xấp xỉ nhau ở cả hai giới, thường xảy ra ở 
lứa tuổi trung niên với độ tuổi trung bình là 50. 
Về  các  đặc  điểm  lâm  sàng,  bệnh  nhân  có 
khối  u  ở  vùng  dưới  xương  đùi  phải,  rất  đau, 
sưng,  nhiều  đợt  sốt  cao,  sụt  cân,  giới  hạn  vận 
động khớp gối. Những triệu chứng này phù hợp 

với  sarcôm  tạo  xương,  tuy  nhiên  cũng  gặp  ở 
nhiều  bệnh  lí  bướu  xương  khác,  trong  đó  có  u 
đại bào xương và bướu mô bào sợi ác tính.  
Dựa vào các đặc điểm nêu trên giúp chúng 
tôi chẩn đoán đây là một trường hợp sarcôm tạo 
xương giàu đại bào. Sarcôm tạo xương có độ ác 

598

tính cao, có thể di căn đến nhiều cơ quan, nhiều 
nhất  là  phổi  và  xương.  Trên  bệnh  nhân  này 
chúng  tôi  có  thực  hiện  x‐quang  ngực  thẳng. 
Hình ảnh trên phim chưa phát hiện bất thường. 
Tuy nhiên, điều này cũng không giúp loại trừ di 
căn  vì  khoảng  80%  bệnh  nhân  đã  có  di  căn  ở 
mức  độ  vi  thể  ở  thời  điểm  chẩn  đoán(10),  trong 
khi hình  ảnh  học  chỉ  có  thể  phát  hiện  8‐15%  di 
căn(8,19). Mặc dù alkaline phosphatase trong máu 
tăng  trong  sarcôm  tạo  xương,  không  có  xét 
nghiệm  máu  nào  giúp  phát  hiện  di  căn  của 
sarcôm tạo xương ở mức độ vi thể.  
Chính vì vậy, việc điều trị sarcôm tạo xương 
cần phẫu trị, thường là đoạn chi và có thể phối 
hợp  thêm  hóa  trị  trong  phần  lớn  trường  hợp. 
Vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh chỉ định và 
thời  gian  bắt  đầu  thực  hiện  hóa  trị  trước  hoặc 
sau phẫu thuật. Khi được điều trị thích hợp gồm 
phẫu  trị  và  hóa  trị,  tỉ  lệ  sống  sau  5  năm  là  55‐
60%(2,4). Những yếu tố làm giảm tiên lượng bệnh 
là vị trí gần đường giữa trục cơ thể, u kích thước 

lớn, di căn và quá trình điều trị kém đáp ứng với 
hóa trị. 

KẾT LUẬN 
Như  đã  đề  cập,  sarcôm  tạo  xương  giàu  đại 
bào là một bệnh hiếm gặp. Trên vi thể, bệnh lại 
rất  dễ  chẩn  đoán  nhầm,  đặc  biệt  với  u  đại  bào 
xương  là  một  bệnh  thường  gặp  trong  nhóm 
bướu xương. Do đó cần quan sát kĩ hình ảnh vi 
thể  cũng  như  kết  hợp  thêm  thông  tin  về  hình 
ảnh  học  và  lâm  sàng  để  kết  luận  chẩn  đoán. 
Diễn  tiến  gần  giống  với  các  bệnh  khác  thuộc 
nhóm sarcôm tạo xương qui ước. Hiện nay vẫn 
chưa có hướng dẫn cụ thể trong điều trị sarcôm 
tạo xương giàu đại bào, do đó việc điều trị bệnh 
tương  đối  giống  với  điều  trị  sarcôm  tạo  xương 
qui  ước.  Di  căn  có  tỉ  lệ  cao,  lại  khó  phát  hiện 
bằng  phương  tiện  cận  lâm  sàng,  do  đó  tiên 
lượng bệnh rất khó khăn.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

Bathurst, N.; Sanerkin, N. (1986). Osteoclast‐rich osteosarcoma. 
Bi J Radiol, 59: 667‐673. 
Bentzen, SM; Poulsen, H.X; Kaae. S; Jensen O.M.; Johansen, H.; 
Mouridsen,  H.T.  et  al.  (1988).  Prognostic  factors  in 
osteosarcomas. A regression analysis, cancer 62: 194–202. 


Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 
3.
4.
5.
6.

7.

8.

9.

10.

11.

Dahlin,  D.C.  (1978).  General  aspects  and  data  on  6221  cases. 
Bone tumours, 1: 307‐314, 
Davis, AM; Bell, R.S.; Goodwin, P.J. (1994). Prognostic factors 
in osteosarcoma: a critical review. J. Clin. Oncol, 12: 423–431. 
Forest,  M  (1997).  Osteosarcoma.  In:  Forest,  M.  Orthopedic 
surgical pathology, p203. Churchill Living Stone, Edinburgh. 
Gambarotti,  Marco;  Donato,  Maurizio;  Alberghini,  Marco; 
Vanel,  Daniel  (2011).  A  strange  giant  cell  tumor.  European 
Journal of Radiology, 77: 3–5,  
Jerome,  J.  Terrence  Jose;  Varghese,  Mathew;  Sankaran,  Balu 
(2007).  Chondroblastic  Osteosarcoma  of  the  Lower  Tibia:  a 

case report. The Foot and Ankle Online Journal 3, 2:1. 
Kaste,  S.C.;  Pratt,  C.B.;  Cain,  A.M.;  Jones‐Wallace,  D.J.;  Rao, 
B.N.  (1999).  Metastases  detected  at  the  time  of  diagnosis  of 
primary  pediatric  extremity  osteosarcoma  at  diagnosis: 
imaging features. Cancer, 86: 1602–1608. 
Link  TM,  Haeussler  MD,  Poppek  S,  Woertler  K,  Blasius  S, 
Lindner  N,  Rummeny  EJ.  (1998).  Malignant  fibrous 
histiocytoma  of  bone:  conventional  X‐ray  and  MR  imaging 
features. Skeletal Radiol, 27:552‐558 
Link, M.P.; Goorin, A.M.; Miser, A.W.; Green, A.A.; Pratt, C.B.; 
Belasco, J.B. et al. (1986). The effect of adjuvant chemotherapy 
on  relapse‐free  survival  in  patients  with  osteosarcoma  of  the 
extremity. N. Engl. J. Med, 314: 1600–1606.  
Mendenhall, W. M., Zlotecki, R. A., Scarborough, M. T., Gibbs, 
P. C., & Mendenhall, N. P. (2006). Giant Cell Tumor of Bone. 
 

12.
13.

14.

15.
16.

17.

18.

19.


Nghiên cứu Y học

American Journal of Clinical Oncology, 29: 96‐99. 
Mirra,  J.M.  (1989).  Clinical,  radiologic  and  pathologic 
correlations. Bone tumors: 326‐331. 
Nascimento, A.G. and Huvos, A.G. (1979). Primary malignant 
giant cell tumor of bone. A study of eight cases and review of 
the literature. Cancer, 44: 1393‐1402. 
Nikolin  BL,  Dugandæija  T,  Salma  S,  et  al  (2005).  Some 
epidemiological  characteristics  of  malignant  fibrous 
histiocytoma  in  the  province  of  Vojvodina.  Arch  Oncol  13, 
1:16‐17. 
Ottaviani  G,  Jaffe  N.  (2010).  The  Epidemiology  of 
Osteosarcoma. Cancer Treatment and Research, 152: 3‐13. 
Trần  Phương  Hạnh  (1997).  Osteosarcoma.  In:  Trần  Phương 
Hạnh.  Từ  điển  giải  nghĩa  bệnh  học,  ấn  bản  lần  2:  473‐474, 
Trường Đại Học Y Dược TP.HCM, TP.HCM. 
Turcotte RE, Wunder JS, Isler MH, Bell RS, Schachar N, Masri 
BA,  Moreau  G,  Davis  AM  (2002.)  Giant  cell  tumor  of  long 
bone: a Canadian sarcoma group study. Clin Orthop Relat Res, 
1(397): 248–258. 
Widhe B, et al (2000). Initial Symptoms and Clinical Features in 
Osteosarcoma  and  Ewing  Sarcoma.  The  Journal  of  Bone  & 
Joint Surgery, 82:667‐667. 
Yonemoto  T;  Tatezaki  S;  Ishii  T;  Satoh  T;  Kimura  H;  Iwai  N 
(1998). Prognosis of osteosarcoma with pulmonary metastases 
at initial presentation is not dismal. Clin. Orthop: 194 – 199. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012


599



×