Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU GIÁ TRỊ CỦA KỸ THUẬT GHI HÌNH
XUNG LỰC XẠ ÂM TRONG DỰ ĐOÁN GIAI ĐOẠN XƠ HÓA GAN
TRÊN BỆNH NHÂN BỊ BỆNH GAN MẠN
Trần Thị Khánh Tường*, Hoàng Trọng Thảng**
TÓM TẮT
Tổng quan và mục tiêu: Xung lực xạ âm (ARFI) là một kỹ thuật mới không xâm lấn dùng để đánh giá
giai đoạn xơ hóa gan trong bệnh gan mãn. Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định giá trị chẩn đoán của ARFI
trong dự đoán giai đoạn xơ hóa ở những bệnh nhân có bệnh gan mãn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 30 bệnh nhân bị bệnh gan mãn
tính, trong đó có 12 trường hợp xơ gan và 18 trường hợp không xơ gan. 20 trường hợp được sinh thiết gan để
đánh giá xơ hóa bằng hệ thống Metavir. Tất cả bệnh nhân đều thực hiện kỹ thuật ARFI và được đo vận tốc sóng
biến dạng (SWV). Các giá trị ngưỡng được xác định bằng cách phân tích đường cong ROC.
Kết quả: Xơ hóa gan xác định bằng giải phẫu bệnh được đánh giá bằng thang điểm METAVIR; F0: 2
trường hợp, F1: 10 trường hợp, F2: 3 trường hợp, F3: 3 trường hợp và F4: 2 trường hợp. 10 trường hợp xơ gan
không sinh thiết gan, được chẩn đoán bởi các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng. ARFI có tương quan đáng kể
với mức độ xơ hóa (Spearman rho: 0,738, p <0,001). Diện tích dưới đường cong ROC 0,98 (khoảng tin cậy 95%:
0,95‐0,99) đối với F2‐F4; 0,93 (0,81‐0,99) đối với F3‐F4 và 0,92 (0,81‐0,99) đối với F4. Giá trị ngưỡng của vận
tốc sóng biến dạng (SWV) như sau: ≥ 1,31 m/ s cho F2‐F4 (độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 83,33%); ≥ 1,48 m/s cho
F3‐F4 (độ nhạy 93,33%, độ đặc hiệu 86,67%) và ≥ 1,58 m/s cho F4 (độ nhạy 91,67%, độ đặc hiệu 83,33%).
Kết luận: Vận tốc sóng biến dạng của ARFI tương quan với mức độ của xơ hóa gan. Kỹ thuật siêu âm đàn
hồi ARFI là một phương pháp mới không xâm lấn và đáng tin cậy để đánh giá xơ hóa gan ở những bệnh nhân có
bệnh gan mãn.
ABSTRACT
ASSESSING PRELIMINARILY THE VALUE OF ACOUSTIC RADIATION FORCE IMPULSE IMAGING
FOR PREDICTION OF STAGING OF LIVER FIBROSIS
IN PATIENTS WITH CHRONIC HEPATIC DISEASE
Tran Thi Khanh Tuong, Hoang Trong Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 159 ‐ 165
Background / Objectives: Acoustic radiation force impulse (ARFI) is a novel noninvasive technology for
the assessment of stage of liver fibrosis in chronic hepatic disease. This study aimed to validate the diagnostic
usefulness of ARFI for prediction of staging of liver fibrosis in patients with chronic liver disease.
Patients and Methods: The study was carried out on 30 patients with chronic hepatic disease including 12
cases of cirrhosis and 18 cases of noncirrhosis. 20 cases underwent a liver biopsy for histological assessment of
liver fibrosis by the Metavir scoring system. All of patients were evaluated by ARFI elastography and was
expressed as the shear wave velocity (SWV). Cut‐off values were determined using receiver‐operating
characteristic (ROC) curves.
Results: Histological liver fibrosis was evaluated by Metavir scoring; F0: 2 cases, F1: 10 cases, F2: 3 cases,
* Bộ môn Nội ‐ Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, ** Bộ môn Nội ‐ Trường Đại học Y Dược Huế
Tác giả liên lạc: ThS BS Trần Thị Khánh Tường , ĐT: 0903164690, Email:
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
159
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
F3: 3 cases and F4: 2 cases. 10 cases of cirrhosis not performed liver biopsy were made diagnosis by clinical
signs, laboratory tests. ARFI quantification correlated significantly with the fibrosis stage (Spearman rho:
0.738,p < 0.001). The areas under the ROC curves were 0.98 (95% confidence intervals: 0.95‐0.99) for F2‐F4,
0.93 (0.81‐0.99) for F3‐F4 and 0.92 (0.81‐ 0.99) for F4. The cut‐off values of the shear wave velocity (SWV) were
as follows: ≥1.31 m/s for F2‐F4 (sensitivity 100%, specificity 83.33%); ≥1.48 m/s for F3‐F4 (sensitivity 93.33%,
specificity 86.67%) and ≥1.58 m/s for F4 (sensitivity 91.67%, specificity 83.33%).
Conclusions: Increasing ARFI velocities correlate with high degree of hepatic fibrosis. Ultrasonic ARFI
elastography is a novel, non‐invasive and reliable method for the assessment of liver fibrosis in patients with
chronic liver disease.
Key words: liver fibrosis, chronic hepatic disease, acoustic radiation force impulse imaging (ARFI).
Elastography: TE) bằng máy Fibroscan®, kỹ
ĐẶT VẤN ĐỀ
thuật ghi hình xung bức xạ âm (Acoustic
Bệnh gan mạn là nguyên nhân quan trọng
Radiation Force Impulse Imaging: ARFI); các
gây bệnh nặng và tử vong trên thế giới(5). Hầu
thang điểm đơn giản như chỉ số APRI, FIB‐4,
hết các nguyên nhân gây bệnh gan mạn đều
Forns, Lok… và các dấu ấn sinh hóa phức tạp
dẫn đến xơ hóa gan. Xơ hóa gan tiến triển đến
mắc tiền như Actitest, Fibrotest, …. ARFI là
xơ gan là biểu hiện chính trong hầu hết các
một kỹ thuật siêu âm đàn hồi rất mới được
bệnh gan mạn. Chẩn đoán, chỉ định điều trị và
nghiên cứu từ 2009, được cài đặt trong dòng
tiên lượng bệnh gan mạn phụ thuộc phần lớn
máy siêu âm Siemens Acuson S2000. Cũng
vào mức độ xơ hóa gan(4). Xơ hóa gan là hậu
như kỹ thuật đo độ đàn hồi thoáng qua, ARFI
quả của tổn thương mạn tính ở gan biểu hiện
đo độ cứng hay độ đàn hồi của gan một cách
bởi sự tích tụ các thành phần chất đệm ngoài
nhanh chóng, không xâm lấn, rẻ tiền và có giá
tế bào (Extracellular matrix), xảy ra cho hầu
trị tương đương trong chẩn đoán mức độ xơ
hết các loại bệnh lý gan mạn bất chấp nguyên
hóa gan nhưng lại vượt trội hơn so với TE vì
nhân(4) . Sự tích tụ các thành phần chất đệm
có thể thực hiện được trên bệnh nhân có báng
ngoài tế bào ảnh hưởng đến cấu trúc gan do sự
bụng, có khoảng gian sườn hẹp và béo phì(2).
tạo thành những sẹo xơ hóa và sau đó là thành
Tại Việt Nam, chúng ta chưa có đề tài nào
lập những nốt tái tạo tế bào gan đưa đến xơ
nghiên cứu giá trị của kỹ thuật ARFI đối chiếu
gan. Xơ gan làm rối loạn chức năng tế bào gan
với kết quả giải phẫu bệnh, do đó chúng tôi
và cản trở dòng máu trong gan gây suy tế bào
thực hiện nghiên cứu này để xác định giá trị
gan và tăng áp tĩnh mạch cửa. Nguyên nhân
của kỹ thuật ARFI trong chẩn đoán mức độ xơ
chính của xơ hóa gan hiện nay là viêm gan vi
hóa gan của bệnh gan mạn so sánh với kết quả
rút B,C mạn, viêm gan rượu và viêm gan
giải phẫu bệnh, từ đó có thể đưa ra những
nhiễm mỡ không do rượu. Cho đến nay, sinh
khuyến cáo về việc áp dụng những phương
thiết gan vẫn được xem là tiêu chuẩn vàng để
pháp này trong thực hành lâm sàng.
chẩn đoán mức độ xơ hóa gan(9). Tuy nhiên,
Mục tiêu nghiên cứu
sinh thiết gan là phương pháp xâm nhập có
‐ Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của kỹ thuật
biến chứng, kết quả có thể bị ảnh hưởng bởi
ARFI trong chẩn đoán xơ hóa gan đáng kể, nặng
kích thước mẫu sinh thiết, vị trí sinh thiết và
và xơ gan trên bệnh nhân bị bệnh gan mạn.
phụ thuộc nhiều vào các nhà giải phẫu bệnh
(GPB)(9,11). Các phương tiện chẩn đoán mức độ
xơ hóa gan không xâm nhập hiện nay tại Việt
Nam gồm siêu âm đàn hồi mô như kỹ thuật đo
độ đàn hồi thoáng qua (Transient
160
‐ Xác định mối tương quan giữa vận tốc
sóng biến dạng (SWV) với mức độ xơ hóa gan.
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
TỔNG QUAN
Mức độ xơ hóa gan theo thang điểm giải
phẫu bệnh Metavir(12) bao gồm F0: không có xơ
hóa khoảng cửa, F1: xơ hóa khoảng cửa, quanh
khoảng cửa, không có vách xơ, F2: xơ hóa quanh
khoảng cửa với vài vách xơ, F3: vách xơ và xơ
hóa bắc cầu nhiều, nhưng chưa đảo lộn cấu trúc
tiểu thùy, chưa xơ gan. F4: vách xơ, xơ hóa bắc
cầu nhiều, đảo lộn cấu trúc tiểu thùy, xơ gan. Xơ
hóa nhẹ F0‐1, xơ hóa đáng kể (significant
fibrosis) khi mức độ xơ hóa ≥ F2 ( F2‐4) và xơ
hóa nặng (advanced fibrosis) khi mức độ xơ hóa
≥ F3 (F 3‐4)(12).
Kỹ thuật ARFI được giới thiệu đầu tiên bởi 2
kỹ sư Mỹ Kathryn Nightingale và Gregg Trahey
năm 2001(7). Kỹ thuật ARFI được tích hợp vào
máy siêu âm dòng Acuson S2000TM từ năm
2008 của hãng Siemens có sẵn ở phòng siêu âm.
Kỹ thuật ARFI đã và đang được nghiên cứu
nhiều từ năm 2009 trong chẩn đoán mức độ xơ
hóa gan tại nhiều nước như Mỹ, các nước Châu
Âu và Châu Á. Tại Việt Nam, kỹ thuật này có
mặt tại Bệnh viện (BV) Medic–Hòa hảo TP HCM
đầu tiên vào tháng 9/ 2011, Huế tháng 11/2011
và Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM tháng
3/2012. Kỹ thuật này hoạt động theo nguyên lý
ghi hình bằng xung xạ âm có thể khảo sát các
mô ở sâu mà không phải ấn đầu dò. Kỹ thuật
ARFI kích thích cơ học mô bằng cách dùng xung
đẩy trong thời gian ngắn (short‐duration push
pulses) trong vùng quan tâm (region of
interesting: ROI ) được chọn. Khi xung qua
vùng ROI gây ra dời chỗ mô, mô dời chỗ và trở
lại vị trí cũ tùy vào đặc điểm cơ học tạo nên sóng
biến dạng (shear wave) thẳng góc xung đẩy. Tốc
độ của mô dời chỗ hay vận tốc sóng biến dạng
(shear wave velocity: SWV) được đo bằng chùm
siêu âm quy ước theo dõi (conventional
sonographic tracking beam) cùng đầu dò
siêu âm dùng để tạo ra lực và phản ánh độ cứng
hay độ đàn hồi của mô . Sóng biến dạng này có
cường độ thấp hơn cường độ xung đè ép (1/100).
Xung đè ép dùng vài trăm chu kỳ và điện thế
khác khi so sánh với xung B‐mode chu kỳ ngắn.
Nghiên cứu Y học
Có thể định lượng được SWV bằng cách ghi lại
mặt sóng biến dạng ở nhiều vị trí và được đo
bằng mét/giây (m/s). SWV tỷ lệ thuận với độ
cứng mô, SWV càng nhanh thì mô khảo sát càng
cứng. Từ SWV sẽ suy ra mức độ xơ hóa gan
được chia thành 4 độ tương ứng với mức độ xơ
hóa gan theo Metavir. Máy siêu âm Siemens
Acuson S2000 với đầu dò cong 2‐4 MHz được
cài đặt kỹ thuật ARFI bằng phần mềm kiểm soát
tạo hình và thuật toán phát hiện hình. Ngoài ra
để định lượng xơ hóa gan, còn dùng thêm phần
mềm định lượng sờ ảo mô (Virtual Touch tissue
quantifcation) cho phép đo SWV trong vùng
quan tâm. ARFI là một kỹ thuật siêu âm đàn hồi
tiên tiến cho phép đánh giá nhanh xơ hóa gan
không xâm lấn, rẻ tiền và hầu như không có
phản ứng bất lợi nào. BN và người làm đều
thoải mái và chỉ mất thời gian khoảng năm phút.
Có được đồng thuận tốt với các người khám
khác. Ngay sau khi đánh giá siêu âm gan,
ARFI cho thông tin về mức độ xơ hóa gan tại
chỗ, mà không cần phải mua thêm máy khác.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang phân tích.
Dân số đích
Bệnh nhân (BN) từ 18 tuổi trở lên bị bệnh
gan mạn ở Việt Nam.
Dân số nghiên cứu
BN từ 18 tuổi trở lên bị bệnh gan mạn được
khám và điều trị tại BV Nhân Dân 115.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả các BN nội và ngoại trú từ 18 tuổi
trở lên được chẩn đoán xác định là bệnh gan
mạn gồm viêm gan mạn và xơ gan tại BV
Nhân Dân 115 .
‐ Các BN được chẩn đoán xác định viêm gan
mạn dựa vào men gan (AST, ALT) tăng ≥ 6
tháng hoặc HBsAg (+), HCV RNA (+) ≥ 6 tháng
có chỉ định sinh thiết gan, được chẩn đoán xác
định dựa vào kết quả giải phẫu bệnh gan.
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
161
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
‐ BN được chẩn đoán xơ gan khi có 1 trong 2
tiêu chuẩn sau:
học Y khoa Phạm Ngọc Thạch tu nghiệp nước
ngoài thực hiện.
(1) Có ≥ 2 triệu chứng của tăng áp cửa (giãn
tĩnh mạch thực quản, tuần hoàn bàng hệ, lách to,
tiểu cầu < 140.000/mm3, siêu âm có tăng áp tĩnh
mạch cửa, báng bụng có độ chênh Albumin
huyết thanh và dịch báng >1.1g/dl) và ≥ 2 triệu
chứng của hội chứng suy tế bào gan (vàng da,
sao mạch, lòng bàn tay son, nữ hóa tuyến vú,
phù, Albumin giảm, INR tăng) và siêu âm hay
CT scan theo dõi xơ gan.
Thu thập số liệu
(2) Kết quả giải phẫu bệnh gan: F4 theo
thang điểm Metavir.
Do đa số BN xơ gan đến khám đều ở giai
đoạn mất bù có chống chỉ định sinh thiết gan
qua da như báng bụng, tiểu cầu giảm, INR kéo
dài, do đó chúng tôi phải áp dụng tiêu chuẩn 1
cho những trường hợp này.
Tiêu chuẩn loại trừ
‐ Mẫu mô gan không đạt chuẩn ( < 5 khoảng
cửa).
‐ Số lần đo SWV thành công < 10 lần hay tỷ
lệ số lần đo thành công < 60%.
Cách tiến hành
‐ Tất cả BN thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và
loại trừ đều ký vào bảng cam kết tham gia
nghiên cứu. Đề tài được thông qua hội đồng
khoa học của BV Nhân Dân 115 và trường Đại
học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
‐ Tất cả BN đều được hỏi bệnh sử, khám lâm
sàng và thực hiện các xét nghiệm cần thiết theo
mẫu thu thập số liệu. Các bệnh nhân có chỉ định
sinh thiết gan và không có chống chỉ định sinh
thiết gan sẽ được tiến hành sinh thiết tại phòng
siêu âm của BV Nhân Dân 115 bằng súng sinh
thiết tự động Bard sản xuất tại Mỹ. Tất cả BN
đều được thực hiện kỹ thuật ARFI cài đặt trên
máy Siemens ACUSON S2000 trong vòng 2 tuần
trước hay sau khi sinh thiết gan tại BV Medic–
Hòa hảo TP HCM. Phân tích mẫu mô sinh thiết
gan do nhà GPB của Bộ môn GPB trường Đại
162
Theo phiếu thu thập mẫu .
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm thống kê STATA 12.
‐ Tính độ nhạy, độ đặc hiệu theo từng giá trị
ngưỡng (cut‐off) của SWV chọn ra giá trị
ngưỡng tốt nhất.
‐ Xác định độ chính xác của SWV trong chẩn
đoán mức độ xơ hóa bằng phân tích đường cong
ROC (Receiver Operating Characteristic) gồm
diện tích dưới đường cong (AUC: Area Under
de ROC Curve), khoảng tin cậy (KTC).
‐ Đánh giá mối tương quan giữa các 2 biến
số bằng tương quan thứ bậc Spearman
(Spearman rho).
‐ So sánh trung bình của 3 nhóm trở lên bằng
phân tích phương sai (One‐way Anova)
‐ Kết quả có ý nghĩa khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ tháng 10/ 2012‐ 3/2013,
chúng tôi thu thập được 30 ca đủ tiêu chuẩn
chẩn đoán. Trong đó 20 ca được chẩn đoán xác
định dựa vào kết quả GPB, 10 ca xơ gan không
sinh thiết gan do báng bụng, được chẩn đoán
theo tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng. 10 ca
xơ gan này được xếp chung với nhóm có kết quả
giải phẫu bệnh là F4 (theo Metavir). 20 ca được
sinh thiết gan đều thành công ( có số khoảng cửa
trên 5) và tất cả 30 BN đo SWV bằng kỹ thuật
ARFI đều thành công, nghĩa là mỗi ca đều được
đo 10 lần và thành công cả 10 lần, giá trị SWV là
giá trị trung bình của 10 lần đo.
Tuổi trung bình 52.63± 12.12
Nữ 10 ca, chiếm tỷ lệ 33%; nam 20 ca, chiếm
tỷ lệ 67%
Nguyên nhân gây bệnh gan mạn gồm 7 ca
do HCV, 4 ca do HBV, 6 ca do rượu, 12 ca do
viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, 1 ca viêm
gan tự miễn.
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
Bảng 1: Một số đặc điểm cận lâm sàng của các mức độ xơ hóa
Đặc điểm
Số ca
ALT(IU/L)
AST
Albumin g/dl
Bilirubin (mg/dl)
INR
SWV
F0
2 (6,67%)
52±24,04
43,5± 30,40
4,63± 0,18
0,79± 0,04
0,93± 0,08
1,27± 0,11
F1
10 (33%)
53,1± 14,79
39,4± 13,68
4,37± 0,59
0,72± 0,15
0,94± 0,05
1,18± 0,14
Bảng 2: Độ chính xác của kỹ thuật ARFI trong chẩn
đoán mức độ xơ hóa gan
AUC
F 2-4
0,98
F 3-4
F4
0,93
Độ lệch chuẩn Khoảng tin cậy 95%
0,02
0,95‐0,99
0,06
0,06
0,92
0,81-0,99
0,81-0,99
Bảng 3: Độ nhạy, độ đặc hiệu của kỹ thuật ARFI
trong chẩn đoán mức độ xơ hóa gan
Giá trị ngưỡng
của SWV (m/s)
Độ nhạy
Độ đặc hiệu
F 2-4
1,31
100%
83,33%
F 3-4
F4
1,48
1,58
93,33%
91,67%
86,67%
83,33%
Mối tương quan giữa SWV của ARFI với
mức độ xơ hóa gan theo thang điểm Metavir ( từ
0 đến 4) có Spearman rho = 0,738 với p <0.0001.
BÀN LUẬN
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Tỷ lệ bệnh nhân nam trong nhóm nghiên
cứu cao gấp 2 lần nữ phù hợp với đa số các
nghiên cứu trong và ngoài nước, tỷ lệ bệnh
gan mạn ở nam cao gấp 1,5‐ 2,2 lần so với nữ(1).
Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của
tác giả trong và ngoài nước(10,1). Nhìn chung,
bệnh lý chủ mô gan mạn tính thường gặp ở
lứa tuổi trung niên.
Một số đặc điểm cận lâm sàng của các mức
độ xơ hóa
Ngoài trừ ALT, giá trị trung bình của các xét
nghiệm khác như AST, Bilirubin, Albumin và
INR có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các
mức độ xơ hóa. Điều này cũng phù với y văn
ngưỡng AST liên quan đến mức độ xơ hóa gan,
còn ALT thì không liên quan(6). Nhóm xơ gan có
F2
3 (10%)
41± 14,52
27,33± 5,13
4,46± 0,17
0,88± 0,09
0,98± 0,03
1,57± 0,34
F3
3 (10%)
29,63± 14,19
28,73± 15,42
4,27± 0,07
0,68± 0,26
0,99± 0,11
1,59± 0,14
F4
12 (40%)
41,17± 14,08
57,08± 13,61
3,26± 0,61
1,85± 0,72
1,67± 0,48
1,83± 0,34
p
0,14
0,0065
0,0002
0,0001
0,0002
0,0001
giá trị INR và Bilirubin cao nhất nhưng giá trị
Albumin lại thấp nhất là do gan giảm sản xuất
Albumin và các yếu tố đông máu phụ thuộc
vitamin K khi có suy tế bào gan trên BN xơ gan.
Tỷ lệ thành công sinh thiết gan và kỹ
thuật ARFI
Tỷ lệ sinh thiết gan thành công ( không biến
chứng, mẫu mô gan đạt chuẩn) là 100%. Tỷ lệ
này cao hơn các nghiên cứu Ngô Thị Thanh
Quýt(10) và một số các nghiên cứu của các tác giả
Fouchert Juliette[10] và cs, Ziol Marianne và cs(15)
tỷ lệ thành công từ 92,3%‐96%. Có thể do chúng
tôi sử dụng súng sinh thiết tự động Bard giúp
lấy mẫu mô gan không bị đứt khúc và dài hơn
(22 mm) so với sinh thiết hút kiểu Menghini của
các tác giả trên.
Tỷ lệ thực hiện thành công kỹ thuật ARFI là
100% cho cả nhóm BN báng bụng (8 ca) và
nhóm không báng bụng. Đây là một lợi thế của
kỹ thuật này so với Fibroscan, do Fibroscan
không thực hiện được trên BN báng bụng và BN
có khoang gian sườn hẹp(2).
Giá trị của ARFI trong chẩn đoán mức độ
xơ hóa gan
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
kỹ thuật ARFI có độ nhạy trên 90% và độ đặc
hiệu trên 80% trong chẩn đoán mức độ xơ hóa
đáng kể, xơ hóa nặng và xơ gan. Bảng 5 cho thấy
kết quả nghiên cứu của chúng tôi về độ nhạy và
độ đặc hiệu tương tự tác giả Takahashi H ở
Nhật, nhưng có khác biệt so với tác giả Sporea I.
Có lẽ do mẫu nghiên cứu của tác giả Sporea I
lớn hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi
và chỉ thực hiện trên BN viêm gan C. Gía trị
ngưỡng để chẩn đoán mức độ xơ hóa đáng kể,
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
163
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
xơ hóa nặng cũng tương tự nghiên cứu của
Takahashi H, tuy nhiên giá trị ngưỡng để dự
đóan xơ gan lại thấp hơn nhiều. Trong nghiên
cứu của chúng tôi có 10 ca xơ gan được chẩn
đoán không dựa vào giải phẫu bệnh do các
trường hợp xơ gan này có chống chỉ định sinh
thiết gan qua da (báng bụng), có lẽ đây là lý do
cho sự khác biệt này. Về độ chính xác của kỹ
thuật dựa vào AUC, chúng tôi nhận thấy kết
quả tương tự nhau trong cả 3 nghiên cứu ( bảng
5). Với AUC > 0,9 trong chẩn đoán 3 mức độ xơ
hóa gan, kỹ thuật ARFI có độ chính xác rất cao .
Bảng 5: So sánh độ nhạy, độ đặc hiệu của ARFI với
các nghiên cứu khác
Tác giả n
Sporea
I và cs 274
(12)
Takaha
shi H 55
(13)
và cs
Chúng
30
tôi
F2-4
F3-4
F4
F2-4
F3-4
F4
Giá trị
Độ đặc
Độ nhạy
ngưỡng
hiệu
1,21
84%
92%
1,58
84%
94%
1,82
92%
90%
1,34
92,4%
80%
1,44
96,2% 79,3%
1,80
94,1% 86,8%
F2-4
1,31
F3-4
F4
100%
AUC
0,90
0,91
0,94
0,94
0,94
0,96
83,33%
0,98
1,48
93,33% 86,67%
0,93
1,58
91,67% 83,33%
0,92
Mối tương quan giữa SWV đo bằng kỹ
thuật ARFI với mức độ xơ hóa gan
Kết quả nghiên cứu cho thấy SWV tương
quan mạnh với mức độ xơ hóa với Spearman
rho = 0,738, SWV tăng tương ứng với mức độ
tăng của xơ hóa gan. Kết quả của chúng tôi cũng
tương tự với kết quả nghiên cứu của tác giả
Sporea I và của Lupsor M có Spearman rho lần
trong chẩn đoán mức độ xơ hóa gan có so với
tiêu chuẩn vàng là sinh thiết gan.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật ARFI của Acuson S2000 đánh giá
giai đoạn xơ hóa gan có độ chính xác cao, có độ
nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán mức
độ xơ hóa đáng kể, xơ hóa nặng và xơ gan. Vận
tốc sóng biến dạng đo bằng kỹ thuật này có mối
tương quan mạnh với mức độ xơ hóa gan. Đây
là một phương pháp mới không xâm lấn và
đáng tin cậy để đánh giá mức độ xơ hóa gan ở
những bệnh nhân có bệnh gan mãn. Do hạn chế
về cỡ mẫu, trong thời gian tới khi đã thu thập
đầy đủ số liệu, chúng tôi sẽ có những khuyến
cáo về việc áp dụng kỹ thuật này trong thực
hành lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
lượt là 0,717 và 0,738.
Lợi thế và hạn chế của đề tài
Trong thời gian ngắn chúng tôi chỉ thu thập
được 30 ca để báo cáo bước đầu giá trị của kỹ
thuật ARFI, nghiên cứu của chúng tôi vẫn đang
tiếp tục tiếp hành để đạt được cỡ mẫu theo tính
toán. Về tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xơ gan,
do hầu hết BN có chống chỉ định sinh thiết gan
qua da nên chúng tôi phải dùng 2 tiêu chuẩn
khác nhau, đây cũng chính là hạn chế của đề tài.
Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đầu tiên ở nước ta
bước đầu đánh giá giá trị của kỹ thuật ARFI
164
7.
8.
9.
10.
Carmen FB, Dan A, Radu U, Dragos C, Cristian B, Marinoschi
G (2009), “Acoustic radiation force imaging sonoelastography
for noninvasive staging of liver fibrosis”, World J Gastroenterol,
15(44), pp. 5525–5532.
Colombo S, Buonocore M, Del Poggio A, Jamoletti C, Elia S,
Mattiello M, Zabbialini D, Del Poggio P (2012), “Head‐to‐
head comparison of transient elastography (TE), real‐time
tissue elastography (RTE), and acoustic radiation force
impulse (ARFI) imaging in the diagnosis of liver fibrosis”, J
Gastroenterol, 47(4), pp. 461‐46
Foucher J., Chateloup E., Vergniol J., Castera L., Le Bail B.,
Adhoute X., et al (2006) “ Diagnosis of cirrhosis by transient
elastography (FibroScan): a prospective study”, Gut, 55, pp.
403‐408.
Friedman SL (2003), “Liver fibrosis ‐ from bench to bedside”,
J. Hepatol, 38(1), pp. S38–S53
Friedman SL (2010), “Evolving challenges in hepatic fibrosis”,
Nat Rev Gastroenterol Hepatol, 7(8), pp. 425
Kamimoto Y, Horiuchi S, Tanase S, Morino Y (1985), “Plasma
clearance
of
intravenously
injected
aspartate
aminotransferase isozymes: evidence for preferential uptake
by sinusoidal liver cells”, Hepatology, 5, pp. 367–375.
Kathryn Nightingale, Mary Scott Soo, Roger Nightingale,
Gregg Trahey (2002), “Acoustic radiation force impulse
imaging: in vivo demonstration of clinical feasibility”,
Ultrasound in Medicine and Biology, 28(2), pp, 227‐235.
Lupsor M, Badea R, Stefanescu H, Sparchez Z, Branda H,
Serban A, Maniu A. Performance of a new elastographic
method (ARFI technology) compared to unidimensional
transient elastography in the noninvasive assessment of
chronic hepatitis C. Preliminary results. J Gastrointestin
LiverDis (2009) Sep;18(3):303‐10.
Michael P Curry, Nezam H Afdhal (2011), “Noninvasive
assessment of hepatic fibrosis”, Uptodate 19.3
Ngô Thị Thanh Quýt, Nguyễn Phương, Lê Thành Lý, Bùi
Hữu Hoàng (2010),” Chẩn đoán mức độ xơ hóa gan bằng
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
11.
12.
13.
14.
phương pháp đo độ đàn hồi gan trên bệnh nhân bệnh gan
mạn”, Y Học TP Hồ Chí Minh, 14, pp. 161‐166
Poynard T., Ratziu V., Bedosa P (2000), “Appropriateness of
liver biopsy”, Gastroenterol, 14, pp. 543‐548
Sempoux C, Rahier J (2004), “Histological scoring of chronic
hepatitis”, Acta Gastroenterol, 67, pp. 290‐293.
Sporea I, Badea R, Sirli R, Lupsor M, Popescu A, Danila M,
Focsa M, Deleanu A (2011), How efficient is acoustic radiation
force impulse elastography for the evaluation of liver
stiffness? “, Hepat Mon, 1(7), pp. 532‐538.
Takahashi H, Ono N, Eguchi Y, Eguchi T, Kitajima Y,
Kawaguchi Y, Nakashita S, Ozaki I, Mizuta T, Toda S, Kudo
S, Miyoshi A, Miyazaki K, Fujimoto K (2010), “Evaluation of
15.
Nghiên cứu Y học
acoustic radiation force impulse elastography for fibrosis
staging of chronic liver disease: a pilot study”, Liver Int, 30(4),
pp. 538‐545.
Ziol M., Handra‐Luca, et al (2005), “Non‐invasive assessment
of liver fibrosis by measurement of stiffness in patients with
chronic hepatitis C”,Hepatology, Vol 41, No 1, pp. 48‐53.
Ngày nhận bài báo
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:
17‐4‐2013
10‐06‐2013
25–09‐2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
165