Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Nghiên cứu Y học
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC SỨC KHOẺ
CHO BÀ MẸ CÓ CON BỊ SỐT TẠI KHOA HÔ HẤP
BỆNH VIỆN NHI THANH HOÁ
Trương Thị Thuỳ Dung*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ. Đánh giá hiệu quả chương
trình giáo dục sức khoẻ nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ có
con bị sốt điều trị tại khoa Hô Hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 110 bà mẹ có con bị sốt mới nhập khoa
hô hấp điều trị từ ngày 10/06/2013 đến ngày 20/07/2013 bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn.
Kết quả: Trong số 110 bà mẹ có 33,6% bà mẹ có kiến thức đúng, 23,6% bà mẹ có hành vi đúng, 68,1% bà
mẹ lo lắng, lúng túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần I, các bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên với tỉ lệ cao
(77,3%), hành vi đúng 80,9%, số bà mẹ lo lắng, lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ lần II tỉ lệ bà
mẹ có kiến thức đúng tăng lên rất cao 94,5%, hành vi đúng 93,6%, số bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%.
Kết luận: Chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ sốt trong bệnh
viện cũng như trong cộng đồng là một việc làm rất cần thiết và hữu ích. Hiệu quả của chương trình đó là nâng
cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ.
Từ khóa: Giáo dục sức khoẻ, sốt.
ABSTRACT
EVALUATING THE EFFECTIVENESS OF EDUCATION PROGRAME
FOR MOTHERS WHO HAVE FEVER’S CHILDREN
IN RESPIRATORY DEPARTMENT, THANH HOA PEADIATRIC HOSPITAL
Truong Thi Thuy Dung* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 53 ‐ 59
Objectives: To survey knowledge, behavior and attitude of mothers who take care children, to evaluate the
effectiveness of education program, to develop the knowledge, behavior of mothers.
Methods: Cross – descriptive study; interview with questionnaire for 110 mothers who have childrens
admitted in respiratory department from 10/6/2013 – 20/7/2013.
Results: This study revealed that before education program, 33.6% mothers have right knowledge, 23.6%
mothers have right behavior, and 68.1% mothers often feel anxiety, confuse and worry when the children have
fever. After the first program, mothers who have right knowledge have growth up to 73.3%, right behavior up to
80.9%, only 2.7% mothers claimed that they still feel anxiety. After the second program, mothers have right
knowledge and right behavior have growth up to 94.5% and 93.5% respectively. Only 0.9% mother felt worry
and anxiety.
Conclusion: Education program to providing knowledge, behavior, skill to mother in order to taking care
patients in the hospitals and in the community are necessary and benefit. The effectiveness of this program is
improving the knowledge, behavior for mother to take care their children.
Key words: Knowledge, behavior, attitude, fever.
* Bệnh viện Nhi Thanh Hóa.
Tác giả liên lạc: CNĐD Trương Thị Thùy Dung, ĐT: 0974280246, Email:
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa
53
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt là triệu chứng thường gặp nhất của trẻ
em, hầu hết sốt là hậu quả của nhiễm khuẩn (vi
khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm). Trẻ sốt > 39°C
tỉ lệ co giật là 42,2%, trong đó có 10% số ca co
giật kết thúc để lại di chứng.
Do lạm dụng thuốc hạ sốt nên tình trạng
ngộ độc paracetamol có xu hướng gia tăng. Tỉ lệ
tử vong do ngộ độc Paracetamol đứng hàng thứ
2 trong các trường hợp ngộ độc thuốc.
Là người trực tiếp chăm sóc trẻ, vì vậy việc
nâng cao nhận thức, thái độ hành vi của các bà
mẹ trong việc chăm sóc trẻ sốt có ý nghĩa vô
cùng to lớn. Nó làm giảm biến chứng, rút ngắn
thời gian điều trị, giảm chi phí điều trị, giảm mệt
mỏi, căng thẳng cho người bệnh và thân nhân
người bệnh, làm giảm tỉ lệ tử vong do dùng
thuốc chưa đúng. Mặt khác lợi ích của giáo dục
sức khỏe (GDSK) đối với nhân viên y tế là làm
giảm cường độ làm việc, tăng thêm sự hài lòng
của người bệnh. Đồng thời góp phần nâng cao
nhận thức của cộng đồng nói chung về chăm sóc
sức khoẻ trẻ em. Như vậy vai trò của giáo dục
sức khoẻ cho các bà mẹ là rất to lớn. Tuy nhiên
chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này ở
Thanh Hoá.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
trên các bà mẹ có con < 5 tuổi bị sốt điều trị tại
khoa hô hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả một số yếu tố liên quan đến nhận
thức, thái độ, hành vi của các bà mẹ có con bị
sốt.
Đánh giá những thay đổi về kiến thức, thái
độ, thực hành của các bà mẹ có con bị sốt sau khi
được GDSK về chăm sóc trẻ sốt.
TỔNG QUAN
Sốt khi thân nhiệt đo ở hậu môn ≥ 37,8°C
tương đương nhiệt độ ở miệng là ≥ 37,5°C, cặp ở
nách là ≥ 37,2°C.
Dụng cụ đo thân nhiệt trong nghiên cứu này
là nhiệt kế thuỷ ngân. Vị trí đo thân nhiệt là ở hố
54
nách.
Hành vi đúng của các bà mẹ về chăm sóc trẻ
sốt bao gồm: Chườm ấm cho trẻ, mặc thoáng
quần áo, cho trẻ uống thêm nước và điện giải.
Sử dụng thuốc hạ sốt đúng cách. Xử trí co giật
do sốt cao.
Kỹ thuật chườm ấm: cho trẻ nằm ngửa trên
giường, pha và kiểm tra nước ấm (t0 khoảng
37°C). Nhúng 5 khăn vào thau nước ấm, vắt hơi
ráo. Đặt 2 khăn ở hõm nách, 2 khăn ở bẹn và
một khăn lau khắp người. Thay khăn mỗi 2 – 3
phút.
Thực hành sử dụng thuốc hạ sốt: cho trẻ
uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ ≥ 38,5°C, liều 10 –
15 mg/kg cân nặng, khoảng cách thời gian giữa
các lần dùng thuốc là 4 – 6 giờ.
Xử trí co giật do sốt cao: Khi trẻ co giật, đặt
trẻ ở tư thế nằm ngửa đầu nghiêng một bên, nới
rông quần áo, không giữ tay hay chân trẻ. Đặt
một vật mềm chèn giữa hai hàm răng (với trẻ có
răng). Hút đờm rãi nếu tăng tiết. theo dõi tím tái.
Đưa trẻ đến cơ sở y tế.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
110 bà mẹ có con < 5 tuổi bị sốt mới nhập
viện điều trị tại khoa hô hấp Bệnh viện Nhi
Thanh Hoá thời gian từ 10/06/2013 đến
20/07/2013.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mô tả cắt ngang.
Lập bảng phỏng vấn các bà mẹ bằng bộ câu
hỏi thiết kế sẵn.
GDSK về chăm sóc trẻ sốt cho các bà mẹ 2
lần/tuần.
Phỏng vấn lần 1: lần 2: lần 3 tương ứng với
trước GDSK: Sau GDSK lần 1: sau GDSK lần 2.
Có bổ sung câu hỏi về lợi ích của chương trình
GDSK đối với bà mẹ, kiến nghị của bà mẹ về
chương trình GDSK trong GDSK lần 2.
Xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê thông
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
thường.
Nghiên cứu Y học
bà mẹ là công chức, viên chức.
Xử lý số liệu bằng các phần mềm Excell.
60
KẾT QUẢ
57.2
52.7
50
40
Các yếu tố liên quan đến nhận thức, hành
vi, thái độ của các bà mẹ
12.7
6.3
10
N
%
18 – 35 tuổi
Kiến thức đúng
25
30,9
n = 81
Hành vi đúng
16
19,8
> 35 tuổi
Kiến thức đúng
12
41,4
n = 29
Hành vi đúng
10
34,5
* Nhận xét: Nhóm bà mẹ trong độ tuổi sinh
đẻ 18 – 35 tuổi chiếm tỉ lệ cao 73,6%. Xong tỉ lệ
bà mẹ trong độ tuổi này có hành vi đúng chiếm
tỉ lệ thấp 19,8%, kiến thức đúng chỉ chiếm 30,9%.
Như vậy bà mẹ tuổi càng cao kỹ năng chăm sóc
con đúng càng cao.
0
Ti vi
Internet
Không
có TT
Nguồn TT
Biểu đồ 1. Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà
các bà mẹ đã tiếp cận.
* Nhận xét: Kết quả biểu đồ 1 cho thấy bà mẹ
tiếp cận nguồn thông tin từ tivi, internet là chủ
yếu.
Nguồn TT
100
91
80
Bảng 2. Trình độ văn hoá.
Trình độ văn hoá
23.6
20
Bảng 1. Phân bố theo độ tuổi.
Tuổi
31.8
30
60
N
%
Từ cấp II trở xuống
Kiến thức đúng
20
31,3
n = 64
Hành vi đúng
13
20,3
Cấp III trở lên
Kiến thức đúng
17
37,0
n = 46
Hành vi đúng
13
26,1
* Nhận xét: Qua kết quả nghiên cứu cho
thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa trình độ học
vấn với kiến thức đúng và hành vi đúng của bà
40
20
0
3.6
0.9
4.5
Tivi
Bâo
Internet
0
NVYT
Khác
Biểu đồ 2. Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà
các bà mẹ mong muốn được tiếp cận nhất.
* Nhận xét: 91% bà mẹ mong muốn được
mẹ.
tiếp cận nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt từ
Bảng 3. Đặc điểm về nghề nghiệp.
chương trình GDSK do nhân viên y tế trực tiếp
Nghề nghiệp
N
%
Tự do và nông nghiệp
Kiến thức đúng
9
37,5
N = 49
Hành vi đúng
6
24,7
Công nhân
Kiến thức đúng
10
45,5
N = 22
Hành vi đúng
7
31,8
Công chức, viên chức
Kiến thức đúng
18
46,1
N = 39
Hành vi đúng
13
33,3
* Nhận xét: Nhóm bà mẹ làm nông nghiệp
và nghề tự do chiếm số lượng lớn nhưng lại có
thực hiện.
Đánh giá kiến thức chăm sóc trẻ sốt của các
bà mẹ trước và sau khi GDSK.
Bảng 4. Kiến thức về định nghĩa sốt.
Trước Sau GDSK Sau GDSK
GDSK
lần 1
lần 2
n
%
n
%
n
%
Sờ bằng tay thấy nóng 14 12,7
5
4,6 0
0
Đo nhiệt độ ở nách ≥
37 33,6 98 89,1 104 94,5
37,2°C
Đo nhiệt độ ở nách ≥
48 43,7
7
6,3 6
5,5
38,5°C
Không biết – ý kiến khác 11 10,1
0
0
0
0
Định nghĩa sốt
hành vi đúng và kiến thức đúng thấp hơn nhóm
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa
55
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Nghiên cứu Y học
Bảng 5.Nguyên nhân gây sốt.
* Nhận xét: Trước GDSK đa số các bà mẹ
hiểu sai về định nghĩa sốt (66,4%), có 12,7% bà
Trước Sau GDSK Sau GDSK
mẹ chỉ sờ bằng tay thấy ấm đã nhận định con bị
Nguyên nhân gây sốt
sốt. Sau GDSK không có bà mẹ nào không kẹp
nhiệt độ mà nhận định con bị sốt, 94,5% bà mẹ
Thay đổi thời tiết
hiểu đúng định nghĩa sốt.
có nguyên nhân từ bệnh truyền nhiễm. phần lớn
bà mẹ cho rằng sốt do trẻ mọc răng hoặc thay
lần 1
n
n
%
n
%
0
0
0
0
%
62 56,4
Bệnh truyền nhiễm
Trước GDSK chỉ có 20% bà mẹ nghĩ rằng sốt
GDSK
22
20
lần 2
110 100
110 100
Mọc răng
15 13,6
2
1,8
0
0
Không biết
24 21,8
0
0
0
0
đổi thời tiết. Sau GDSK 100% bà mẹ hiểu đúng
nguyên nhân gây sốt.
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Sốt ≥ 38,5°C
94.5
Sốt nhe-vừa 3
ngày k đỡ
77.3
60.6
Co giật
Cả 3 ý trên
15.5
10
1.8
6.3
5.8
Trước gdsk
Đến csyt càng
sớm càng tốt
12.7
0
10
0
0
Sau gdsk 1
0
0
0
5.5
0
K đến csyt
Sau gdsk 2
Biểu đồ 3. Thời điểm đưa con đến cơ sở y tế khám
* Nhận xét: Trước GDSK hầu hết bà mẹ cho
rằng đưa con đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt.
Sau GDSK 94,5% bà mẹ xác định đúng và đủ các
100
thời điểm đưa trẻ đến CSYT.
98.2
92.7
sốt cao ≥ 39°C
80
co giật
60
40
20
0
47.8
40.4
4.7
0
7.1
Trước gdsk
1.8 4.6 0
Sau gdsk 1
0.9
0 1.8 0
Tinh thần lơ
mơ-li bì
cả 3 dấu hiệu
trên
Không biết
0
Sau gdsk 2
Biểu đồ 4. Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ bị sốt.
* Nhận xét: Qua kết quả nghiên cứu ta thấy
trước GDSK có 52,2% bà mẹ nhận biết đúng dấu
56
hiệu nguy hiểm khi trẻ có sốt, trong số đó chỉ có
7,1% bà mẹ nhận biết đúng và đủ các dấu hiệu
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
nguy hiểm, sau GDSK lần 2 tỉ lệ này đã tăng lên
gần như tuyệt đối (98,2%).
Đánh giá thực hành chăm sóc trẻ sốt của
các bà mẹ trước và sau khi GDSK.
Trước GDSK 6,3% bà mẹ cho rằng không
cần xử trí gì khi trẻ bị sốt, 1,8% bà mẹ chườm
đá lạnh, 2,7% bà mẹ mặc thêm quần áo cho
con, có tới 82,7% bà mẹ tự mua thuốc hạ sốt
mà không hỏi y kiến bác sĩ. Sau GDSK gần
như 100% bà mẹ xử trí trẻ sốt đúng cách.
Nghiên cứu Y học
Bảng 6. Hành vi xử trí trẻ sốt.
Xử trí khi trẻ bị sốt
Chườm ấm
Chườm đá, lạnh
Mặc thêm quần áo
Nới rộng-mặc thoáng
quần áo
Bù nước điện giải
Tự mua thuốc hạ sốt
Đưa đến csyt càng
sớm càng tốt
Không xử trí gì
Trước
GDSK
n
%
68 61,8
2
1,8
3
2,7
Sau GDSK Sau GDSK
lần 1
lần 2
n
%
n
%
110 100 110 100
0
0
0
0
0
0
0
0
53
48,1
91
82,7
110
100
47
91
42,7
82,7
98
14
89,1
12,7
110
7
100
6,3
32
29
7
6,3
1
0,9
7
6,3
0
0
0
0
Bảng 7. Thực hành các kỹ thụât chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ trên mô hình.
Thực hành đúng
Sử dụng thuốc
Chườm ấm
Mặc thoáng quần áo
Đo nhiệt độ
Bù nước - điện giải
Xử trí co giật
Thời điểm dùng thuốc
TG giữa các lần dùng thuốc
Đúng hàm lượng
Đúng đường dùng
* Nhận xét: Trước GDSK bà mẹ thực hành
kỹ thuật chăm sóc trẻ sốt đúng hầu hết chiếm
tỉ lệ thấp và rất thấp, sau GDSK hành vi chăm
sóc trẻ sốt đúng tăng lên và tăng cao sau
GDSK lần 2.
Đánh giá thái độ của các bà mẹ có con bị
sốt trước và sau khi GDSK.
70
68.1
Lo lắng, lúng
60
50
40
10
0
Sau GDSK L1
n
%
91
82,7
110
100
108
98,2
95
86,4
93
84,5
91
82,7
101
91,8
100
80,9
96
87,3
Tất cả bà mẹ đều nói rằng chương trình
GDSK do nhân viên y tế thực hiện rất hữu ích,
vừa dễ hiểu, ngắn gọn và là nguồn thông tin
đáng tin cậy. 100% bà mẹ mong muốn có tài liệu
phát tay và được tư vấn GDSK ít nhất 1lần trong
một đợt điều trị.
Bảng 8. Bảng đánh giá chung về kiến thức, thái độ,
hành vi của các bà mẹ.
Trước
GDSK
n
2.7
0.9
Trước GDSK Sau GDSK L1 Sau GDSK L2
Biểu đồ 5:.Thái độ của các bà mẹ có con bị sốt.
* Nhận xét: Tỉ lệ các bà mẹ lo lắng, lúng túng
khi con bị sốt giảm rõ rệt sau khi được GDSK.
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa
Sau GDSK L2
n
%
103
93,6
110
100
110
100
110
100
105
95,5
104
94,5
107
97,3
106
96,4
109
99,1
Đánh giá lợi ích chương trình GDSK và
kiến nghị của bà mẹ.
Mức độ
30
20
Trước GDSK
n
%
38
33,8
68
61,8
81
73,6
32
29
26
23,6
28
25,4
30
27,2
51
46,3
42
38,2
Sau GDSK Sau GDSK lần
lần 1
2
%
n
%
n
%
33,6
85
77,3
104
94,5
26
23,6
100
80,9
103
93,6
Thái độ lo lắng,
75
lúng túng
68,1
3
2,7
1
0,9
Kiến thức đúng 37
Hành vi đúng
* Nhận xét: Sau GDSK lần 1 và lần 2 nhóm
bà mẹ có kiến thức đúng chung, hành vi đúng
chung tăng dần và tăng lên rất cao. Kiến thức
57
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
đúng chung là 94,5%, hành vi đúng chung
93,6%. Sau lần GDSK thứ 2 tỉ lệ bà mẹ có thái độ
lo lắng, lúng túng khi con bị sốt giảm còn 0,9%.
BÀN LUẬN
Qua kết quả điều tra cho thấy các bà mẹ
trong độ tuổi sinh đẻ chiếm tỉ lệ 73,6% là cao
hơn nhóm bà mẹ khác nhưng tỉ lệ bà mẹ có kiến
thức đúng và hành vi đúng trong độ tuổi này lại
chiếm tỉ lệ thấp hơn (19,8%).
Đa số các bà mẹ có trình độ văn hoá từ cấp
II trở xuống (58,1%), phần đông các bà mẹ làm
nghề nông do đó cũng ảnh hưởng đến nhận
thức của bà mẹ. Cho nên cần có một chương
trình GDSK phù hợp nhằm nâng cao kiến thức,
hành vi chăm sóc trẻ sốt phổ biến ở vùng nông
thôn và cho nhóm bà mẹ trong độ tuổi sinh đẻ là
việc làm rất cần thiết.
Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà bà
mẹ đã tiếp cận được chủ yếu qua tivi (52,7%),
internet (57,2%). Thông tin tiếp cận từ nhân viên
y tế chiếm tỉ lệ thấp 31,8%. Xong có tới 91% bà
mẹ trả lời rằng nguồn thông tin về chăm sóc trẻ
sốt mà họ mong muốn được tiếp cận nhất là
nguồn thông tin từ nhân viên y tế vì đó là nguồn
thông tin đáng tin cậy nhất, vừa ngắn gọn vừa
dễ hiểu.
Đánh giá hiệu quả của GDSK
Về kiến thức
Kiến thức về định nghĩa sốt: Trước GDSK
chỉ có 33,6% bà mẹ hiểu đúng về định nghiã
sốt. Có tới 12,7% bà mẹ không kẹp nhiệt độ và
chỉ sờ bằng tay thấy nóng đã nhận định con bị
sốt. sau GDSK lần 1 có 89,1% bà mẹ hiểu đúng
định nghĩa sốt, tỉ lệ này tăng cao sau GDSK lần
2 (94,5%).
Nguyên nhân gây sốt: Một tỉ lệ lớn các bà
mẹ trả lời sốt là do trẻ mọc răng, do thay đổi thời
tiết, 21,8% bà mẹ không biết nguyên nhân. Chỉ
có 20% bà mẹ nghĩ tới nguyên nhân bệnh truyền
nhiễm. Sau GDSK 100% bà mẹ hiểu rõ hầu hết
sốt đều có nguyên nhân từ bệnh truyền nhiễm.
Việc đưa con đến cơ sở y tế: Hầu hết các bà
mẹ nói rằng đưa trẻ đến cơ sở y tế càng sớm
58
càng tốt, chỉ có 6,3% bà mẹ xác định đúng và đủ
các thời điểm đưa trẻ đến cơ sở y tế. Sau GDSK
lần 1 số bà mẹ xác định đúng và đủ các thời
điểm đưa con đến cơ sở y tế tăng (77,3%), sau
GDSK lần 2 tỉ lệ này tăng cao 94,5%.
Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ sốt:
Chỉ có 7,1 % bà mẹ nhận biết đúng và đủ các
dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ sốt, tỉ lệ này tăng lên
một cách rõ rệt 92,7% sau GDSK lần 1, đặc biệt
tăng cao sau GDSK lần 2.
Sau khi được GDSK, tỉ lệ bà mẹ có kiến thức
đúng và đầy đủ tăng lên một cách có ý nghĩa.
Về thực hành chăm sóc trẻ sốt
Tỉ lệ bà mẹ chưa biết cách chăm con như
chườm đá, lạnh (1,8%), mặc thêm quần áo
(2,7%), tự mua thuốc hạ sốt khi chưa hỏi ý kiến
bác sĩ (82,7%) giảm đi một cách có ý nghĩa sau
khi được GDSK.
Sau GDSK tỉ lệ bà mẹ thực hành chườm ấm
đúng cách tăng (từ 33,8% lên 82,7% và sau
GDSK lần 2 tăng lên 93,6%. Sau 2 lần GDSK
100% bà mẹ đo nhiệt độ đúng cách, 100% bà mẹ
biết cách pha dung dịch điện giải và thực hành
bù nước điện giải đúng. Thực hành sử dụng
thuốc và xử trí co giật đúng cũng tăng cao sau
GDSK.
Về thái độ
Tỉ lệ bà mẹ có thái độ lo lắng, lúng túng
giảm từ 68,1% xuống còn 2,7% sau GDSK lần 1
và sau GDSK lần 2 là 0,9%. Tất cả các bà mẹ đều
ghi nhận chương trình GDSK do nhân viên y tế
thực hiện rất hữu ích, vừa dễ hiểu, ngắn gọn và
là nguồn thông tin đáng tin cậy, đã cung cấp
những thông tin cần thiết cho bà mẹ trong việc
nâng cao hiểu biết cũng như thực hành chăm
sóc trẻ sốt từ đó giúp họ bớt lo lắng, bình tĩnh xử
trí trẻ sốt tốt hơn. 100% bà mẹ mong muốn có tài
liệu phát tay và được tư vấn GDSK ít nhất 1lần
trong một đợt điều trị.
Giáo dục sức khỏe là một công tác khó làm
và khó đánh giá kết quả, nhưng nếu làm tốt sẽ
mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí ít nhất.
Cũng từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy giáo
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
dục sức khỏe là một quá trình nên cần tiến hành
thường xuyên, liên tục, lâu dài bằng nhiều biện
pháp khác nhau chứ không phải là một công
việc có thể làm một lần là xong. Vì vậy, để thực
hiện công tác giáo dục sức khỏe chúng ta phải có
sự đầu tư thích đáng, hết sức kiên trì thì mới
đem lại hiệu quả cao.
KẾT LUẬN
Qua đề tài nghiên cứu cho thấy: Trong số
110 bà mẹ tham gia nghiên cứu chỉ có 33,6% bà
mẹ có kiến thức chung đúng, 23,6% bà mẹ có
hành vi đúng chung, 68,1% bà mẹ lo lắng,lúng
túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần 1 các
bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên với tỉ lệ cao
(77,3%), hành vi đúng là 80,9%, số bà mẹ lo lắng,
lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ
lần 2 tỉ lệ bà mẹ có kiến thức chung đúng tăng
lên rất cao 94,5%, hành vi đúng chung 93,6%, số
bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%.
Sau GDSK có sự tăng lên một cách có ý
nghĩa về tỉ lệ các bà mẹ có kiến thức đúng và
thực hành đúng, giảm đi tỉ lệ bà mẹ lo lắng mất
bình tĩnh khi trẻ sốt đặc biệt là sau GDSK lần 2.
Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa GDSK lần 1 và
GDSK lần 2.
Kết quả cũng cho thấy có mỗi liên hệ có ý
nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp, tuổi, trình độ
học vấn, với kiến thức đúng và hành vi đúng.
KIẾN NGHỊ
Giáo dục sức khỏe chính là quá trình dạy
học có mối quan hệ qua lại 2 chiều do đó sau
mỗi lần GDSK cần đánh giá lại lượng thông tin
Nghiên cứu Y học
bà mẹ thu thập được để kịp thời điều chỉnh bổ
sung những thông tin thiếu sót qua GDSK lần
sau. Như vậy GDSK không phải chỉ làm một
lần là xong.
Nên xây dựng một chương trình GDSK
phù hợp và thực hiện phổ biến hơn ở các vùng
nông thôn và nhóm bà mẹ ở độ tuổi sinh đẻ.
Cần có tài liệu phát tay để bà mẹ theo dõi và
đọc lại nhiều lần.
Bệnh viện, y tế cơ sở cần xem chương trình
GDSK là một nội dung của kế hoạch hoạt động
cũng như chỉ tiêu phấn đấu, để đưa hiệu quả
GDSK tới cộng đồng.
Chương trình GDSK phải được tổ chức thực
hiện một cách thường xuyên, liên tục, lâu dài
bằng nhiều biện pháp khác nhau.
GDSK nên thực hiện ở từng khoa phòng
bệnh viện, tại cộng đồng dân cư, và làm sao cho
các chương trình giáo dục sức khỏe thêm sinh
động và thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Vì
vậy, để thực hiện công tác giáo dục sức khỏe
chúng ta phải có sự đầu tư thích đáng, hết sức
kiên trì thì mới đem lại hiệu quả cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
Bệnh viện Nhi Đồng 1 (2007). Kỹ thuật điều dưỡng nhi khoa.
Nhà xuất bản y học, tr. 21 – 22.
Bệnh viện nhi Trung Ương ‐ Viện nghiên cứu sức khoẻ trẻ em.
Sốt ở trẻ em. Bài giảng chuyên khoa định hướng nhi.
Ngày nhận bài báo:
09‐10‐2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11‐11‐2013.
Ngày bài báo được đăng:
16‐12‐2013.
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa
59