Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu mối tương quan giữa nồng độ homocystein huyết tương với một số yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 8 trang )

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016

NGHIÊN CỨU MỐI TƢƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ
HOMOCYSTEIN HUYẾT TƢƠNG VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ
NGUY CƠ Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỲ NHỒI MÁU NÃO
Nguyễn Văn Tuấn*; Nguyễn Minh Hiện*; Phạm Văn Trân*
TÓM TẮT
Mục tiêu: nghiên cứu mối tương quan giữa tăng homocystein máu với một số yếu tố nguy
cơ (YTNC) hay gặp của đột quỵ nhồi máu não (NMN). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu
bệnh chứng trên 136 bệnh nhân (BN) đột quỵ NMN, trung bình 65,6 ± 10,33 tuổi; tỷ lệ đột quỵ
NMN nam/nữ = 1,83. Nhóm chứng: 136 người lớn không bị đột quỵ não, có các YTNC tương
đương nhóm bệnh. Kết quả: YTNC của nhóm NMN gồm tăng huyết áp (61,0%), tăng
homocystein huyết tương (42,6%), tăng triglycerid (41,2%), tăng cholesterol (36,6%), giảm
HDL-C (32,3%), nghiện thuốc lá (24,3%), đái tháo đường (21,1%), béo phì (19,1%), tăng LDL-C
(17,2%) và lạm dụng rượu (14,0%). Tăng homocystein huyết tương (> 15 µmol/l) là YTNC độc
lập của NMN với OR = 3,0 [95% CI; 1,75 - 5,16] và p < 0,0001. Nhóm bệnh có mối tương quan
thuận mức trung bình giữa nồng độ homocystein với huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương
(r = 0,3; p < 0,001; r = 0,346 với p < 0,0001); có mối tương quan thuận mức yếu với chỉ số BMI
(r = 0,173 và p < 0,05), tương quan nghịch mức yếu với LDL-C (r = -0,236 và p < 0,05). Không
có sự tương quan giữa tăng homocystein với tuổi, giới, đái tháo đường, cholesterol, HDL-C và
triglycerid. Kết luận: ở BN đột quỵ NMN, có mối tương quan thuận giữa nồng độ homocystein
huyết tương với tăng huyết áp và chỉ số BMI; tương quan nghịch với LDL-C.
* Từ khóa: Đột quỵ nhồi máu não; Homocystein; Yếu tố nguy cơ.

Study on Relationship between Plasma Homocysteine Concentration
and some Risk Factors in Patients with Ischemic Stroke
Summary
Objectives: To search relationship between the increased blood homocysteine levels and
some common risk factors of cerebral infarction. Subjects and methods: Case-control study on
136 patients with ischemic stroke, mean age 65.6 ± 10.33; ratio of male/female = 1.83; the
control group included 136 adults without stroke, the risk factors were similar to the study group.


Results: Risk factors of cerebral infarction group was hypertension (61.0%), increased plasma
homocysteine (42.6%), hypertriglyceridemia (41.2%), hypercholesterolemia (36.6%), decreased
HDL-C (32.3%), smoke (24.3%), diabetes mellitus (21.1%), obesity (19.1%), increased LDL-C
(17.2%) and abuse alcohol (14.0%). Increased plasma homocysteine (> 15 μmol/l) are
independent risk factors of cerebral infarction with OR = 3.0 [95% CI; 1.75 to 5.16] and
p < 0.0001.
* Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Tuấn ()
Ngày nhận bài: 20/10/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 29/12/2015
Ngày bài báo được đăng: 04/01/2016

145


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016
In the disease group, there was a positive correlation between medium levels of homocysteine
and SBP and DBP (r = 0.3, p < 0.001; r = 0.346, p < 0.0001); weak positive correlation with BMI
(r = 0.173 and p < 0.05) and weak negative correlation with LDL-C (r = -0.236 and p < 0.05).
There was no correlation between increased plasma homocysteine concentrations with age,
gender, diabetes, cholesterol, HDL-C and triglyceride. Conclusion: There is a positive
correlation between plasma homocysteine level and hypertension and BMI; inversely correlated
with LDL-C in patients with ischemic stroke.
* Key words: Ischemic stroke; Homocysteine; Risk factor.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Homocystein được xác định là YTNC
của bệnh tim mạch và đột quỵ não. Cơ
chế gây xơ vữa động mạch do tăng
homocystein máu liên quan đến tạo thành
các sản phẩm có tính oxy hóa. Trong

máu, homocystein tự oxy hóa tạo thành
cystein-homocystein disulfid và những
sản phẩm có tính oxy hóa mạnh như
hydrogen peroxid và superoxid. Các sản
phẩm có tính oxy hóa mạnh gây rối loạn
chức năng nội mạc mạch máu, kích thích
tăng sinh của tế bào cơ trơn mạch máu,
thúc đẩy peroxid hóa lipid và oxy hóa
cholesretol-LDL [2, 7, 8]. Như vậy, tăng
homocystein máu là một trong những yếu
tố khởi đầu cho hình thành và phát triển
xơ vữa động mạch, hậu quả cuối cùng là
biến chứng tắc động mạch nói chung và
đột quỵ NMN nói riêng.
Xơ vữa động mạch là một quá trình
phức tạp, có sự tham gia của nhiều
YTNC. Tăng homocystein máu là một
trong những tác nhân đầu tiên làm tổn
thương nội mạc động mạch, phát động
quá trình xơ vữa động mạch và đột quỵ
não. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có
nhiều nghiên cứu về tương tác giữa
homocystein với các YTNC khác. Xuất
phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài này nhằm: Tìm hiểu
mối tương quan giữa nồng độ
146

homocystein máu với một số YTNC ở BN
đột quỵ NMN.

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
* Nhóm bệnh: 136 BN lần đầu tiên bị
đột quỵ NMN, mắc bệnh trong 2 tuần đầu
của bệnh. Điều trị nội trú tại Khoa Đột
quỵ, Bệnh viện Quân y 103 từ 3 - 2014
đến 10 - 2015.
- Tiêu chuẩn chọn BN: theo tiêu chuẩn
lâm sàng của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO, 1989) [1]. Cận lâm sàng dựa vào
hình ảnh chụp cắt lớp vi tính sọ não có
hình ảnh đột quỵ NMN.
- Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh lý gây tăng
nồng độ homocystein máu như ung thư,
bệnh vảy nến nặng, suy giáp, suy gan,
ghép tạng, suy thận mạn. Bệnh tim mạch
trước đột quỵ đang sử dụng một số thuốc
chống động kinh và chống ung thư.
* Nhóm chứng: 136 đối tượng chọn
ngẫu nhiên, khỏe mạnh, hoặc có các
YTNC đột quỵ như tăng huyết áp, đái
tháo đường, rối loạn mỡ máu, nghiện
thuốc lá, lạm dụng rượu, béo phì; nhưng
chưa có biến chứng đột quỵ não, nhồi
máu cơ tim và tắc động mạch ngoại vi.
BN khám ngoại trú tại Phòng Khám bệnh;
điều trị tại Khoa Tim mạch, Khoa Nội tiết,



TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016

Bệnh viện Quân y 103. Tiến hành trong
cùng thời gian với nhóm bệnh, sau khi đã
hiệu chỉnh về tuổi, giới, tăng huyết áp, đái
tháo đường.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phân tích bệnh-chứng và mô tả cắt
ngang. Thống kê và phân tích số liệu trên
phần mềm thống kê SPSS. 18.0; Epi.info
3.2.4 và Epical 2000.

* Phương pháp định lượng nồng độ
homocystein máu:
Định lượng nồng độ homocystein máu
lúc đói theo kỹ thuật miễn dịch đo độ đục.
Chạy trên máy AU 400 - Beckman Coulter
- Olympus (Nhật Bản, 2007) làm tại Khoa
Sinh hoá, Bệnh viện Quân y 103. Nồng
độ homocystein huyết tương ở người
bình thường từ 3,7 - 13,9 µmol/l; tăng
homocystein huyết tương khi > 15 μmol/l.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
1. Đặc điểm phân bố theo tuổi và giới.
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 65,60 ± 10,33, tương đương với nhóm chứng
64,26 ± 10,53 tuổi (p > 0,05). Phân bố theo nhóm tuổi 10 năm, không thấy khác biệt
giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Nhóm tuổi 50 - 79 chiếm đa số (84,6%) và nhóm tuổi
hay gặp nhất từ 60 - 69 (37,5%).


Tỷ lệ nam giới
Tỷ lệ nữ giới

Nhóm bệnh

Nhóm chứng

Biểu đồ 1: Đặc điểm phân bố giới của nhóm đối tượng nghiên cứu.
Ở nhóm đột quỵ não, tỷ lệ nam là 89/136 (65,4%), tỷ lệ nữ: 47/136 (34,6%). Tỷ lệ
đột quỵ não ở nam/nữ = 1,83. Nhóm chứng: tỷ lệ nam/nữ là 1,51. Không khác biệt về
giới giữa nhóm bệnh và nhóm nghiên cứu.
147


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016

2. Đặc điểm phân bố một số YTNC của đột quỳ não.
Bảng 1: Đặc điểm về YTNC của nhóm bệnh và nhóm chứng.
Nhóm bệnh
(n = 136)

Nhóm chứng
(n = 136)

n

%

n


%

Tăng huyết áp

83

61,0

81

59,6

Đái tháo đường

30

22,1

34

25,0

Cholesterol > 5,2 mmol/l

48/131

36,6

47/133


35,3

LDL-C > 3,9 mmol/l

22/128

17,2

17/116

14,7

Triglycerid > 2,3 mmol/l

54/131

41,2

54/132

40,9

HDL-C ≤ 0,9 mmol/l

41/127

32,3

41/116


35,3

Nghiện thuốc lá

33

24,3

30

22,1

Lạm dụng rượu

19

14,0

18

13,2

Thừa cân

31

22,8

36


26,4

Béo phì

26

19,1

19

14,0

Tăng homocystein

58

42,6

27

19,9

YTNC

Tỷ lệ gặp YTNC ở cả hai nhóm tương
đương nhau, khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Trong đó ở nhóm
bệnh, tăng huyết áp là YTNC hay
gặp nhất (61,0%), triglycerid (41,2%),
cholesterol (36,6%) và giảm HDL-C

(32,3%). Tuy nhiên, khác biệt rõ rệt
về tăng homocystein máu giữa nhóm
bệnh và nhóm chứng (p < 0,0001).
Nguyễn Văn Chương (2007) nghiên
cứu trên 1.105 BN đột quỵ não chung cho
thấy, tỷ lệ tăng huyết áp 51,28%; rối loạn
mỡ máu 32,07%; đái tháo đường 16%;
tiền sử đột quỵ não 10,67%; béo phì 3,33%;
uống nhiều rượu 12,3%; nghiện thuốc lá
11,7%; bệnh gout 3,7% và Migrain 29,06%
[1]. Nguyễn Văn Thông và CS (2010)
nghiên cứu trên 534 BN đột quỵ NMN
thấy: tăng huyết áp 67,2%; đái tháo
148

p

> 0,05

> 0,05

> 0,05

< 0,0001

đường 12,6%; hút thuốc lá 7,7%; nghiện
rượu 6%; tăng cholesterol (45,3%); tăng
triglycerid 28,7%; tăng LDL-C: 37,4% [2].
Phạm Thị Thanh Hòa (2010) nghiên cứu
về các YTNC trên 2.145 BN đột quỵ não,

trong đó NMN có 1.260 BN. Tỷ lệ tăng
huyết áp 71,36%; rối loạn lipid máu 31,03%;
nghiện thuốc lá 34,53%; nghiện rượu
26,49%; đái tháo đường 10,95% và béo
phì 1,03% [3]. Nghiên cứu của Perry,
H Refsum và CS (1995) thực hiện tại Anh
với 107 BN đột quỵ NMN, kết quả tăng huyết
áp 67,3%; hút thuốc lá 58,9%; nghiện
rượu 16,8% và đái tháo đường 4,7%.
Như vậy, tỷ lệ YTNC ở các nghiên cứu
có sự khác biệt, nhưng YTNC thường
gặp nhất của đột quỵ là tăng huyết áp
(> 50%), rối loạn lipid máu và tăng
homocystein máu.


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016

3. Nồng độ homocystein huyết tƣơng và nguy cơ đột quỳ NMN.
Bảng 2: Nồng độ homocystein huyết tương trung bình.
Nhóm
Homocystein

Nhóm bệnh
(n = 136)

Nhóm chứng
(n = 136)

Chỉ số p


Nồng độ homocystein trung bình (µmol/l)

15,01 ± 4,67

12,22 ± 4,38

0,000

Nồng độ homocystein trung bình của
nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng có ý
nghĩa thống kê (p < 0,0001).
Nghiên cứu của J Perry, H Refsum và
CS (1995) thực hiện tại Anh với 107 BN
đột quỵ NMN tuổi trung bình 54,0 ± 5,0;
nồng độ homocystein trung bình (13,7

µmol/l) cao hơn nhóm chứng (11,9
µmol/l) (p < 0,05) [9]. Moghaddasi và CS
(2010) nghiên cứu trên 80 BN đột quỵ
NMN và 60 người nhóm chứng ở Iran, kết
quả: nồng độ homocystein nhóm đột quỵ
não là 21,1 ± 9,8 μmol/l, nhóm chứng:
13,5 ± 3,2 μmol/l [8].

Bảng 3: Nguy cơ bị đột quỵ nhồi máu do tăng nồng độ homocystein máu.
Nhóm bệnh
(n = 136)

Nhóm chứng

(n = 136)

> 15 µmol/l

58 (42,6%)

27 (19,9%)

≤ 15 µmol/l

78

109

Homocystein

Tăng nồng độ homocystein huyết
tương (> 15 µmol/l) là YTNC đột quỵ nhồi
máu ở nhóm bệnh với tỷ suất chênh (OR)
là 3,0 và p < 0,0001.
Nguyễn Đức Hoàng (2005) nghiên cứu
trên 108 BN đột quỵ não tại Huế thấy: tuổi
trung bình 62,35 ± 13,02; nồng độ
homocystein máu trung bình ở nhóm đột
quỵ não (17,27 ± 7,48 mol/l) cao hơn nhóm
chứng (10,79 ± 2,73 mol/l) (p < 0,001).
Chọn điểm cắt tăng homocystein > 15
μmol/l, OR = 11,8 với p < 0,001 [2].
Nghiên cứu của Cao Phi Phong (2005)
trên 220 BN đột quỵ NMN tại Thành phố

Hồ Chí Minh, kết quả: mức homocystein
trung bình ở nhóm bệnh cao hơn nhóm
chứng (13,28 ± 5,59 so với 9,67 ± 3,07
với p < 0,01) và OR là 5,29 (95% CI; 2,40
- 11,64; p < 0,001) [5]. Jyrki K. Virtanena
và CS (2005), tiến hành nghiên cứu thuần
tập để đánh giá hậu quả của nồng độ
homocystein và axít folic với nguy cơ đột

p

OR

95% CI

Chi-square

0,000

3,0

1,75 - 5,16

16,44

quỵ, kết quả: nồng độ homocystein huyết
thanh trung bình 10,0 ± 3,4 µmol/l. Nguy
cơ đột quỵ não bất kỳ với chỉ số HR
(hazard rate ratio) là 2,77 (CI 95% CL,
1,23 - 6,24); nguy cơ đột quỵ NMN với

HR = 2,61 (95% CI: 1,02 - 6,71) [10].
Như vậy, các nghiên cứu đều cho thấy
nồng độ homocystein ở nhóm bệnh cao
hơn nhiều so với nhóm chứng có ý nghĩa
thống kê. Tuy nhiên, một số nghiên cứu
khác nhau có mức homocystein huyết
tương khác nhau. Điều này có thể do đặc
điểm về nhóm tuổi, vùng dịch tễ, thói
quen sinh hoạt và tiêu chuẩn ở phòng xét
nghiệm khác nhau. Mặt khác, khả năng
mắc bệnh với OR trong nghiên cứu này
thấp hơn của Cao Phi Phong (OR = 5,29)
và Nguyễn Đức Hoàng (OR = 11,8). Sở
dĩ có sự khác nhau này là do cách chọn
đối tượng nghiên cứu, chúng tôi chọn
mẫu có sự tương đồng về các YTNC như
tuổi, giới, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu.
149


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016

4. Mối tƣơng quan giữa tăng nồng độ homocystein máu với một số YTNC của
đột quỳ NMN.
Bảng 4: Mối tương quan giữa homocystein với một số YTNC không thay đổi được
và YTNC do lối sống.
Nhóm bệnh

Tƣơng quan giữa
homocystein


Nhóm chứng

Hệ số r

p

Hệ số r

p

0

0,48

0,42

0,000

Giới tính nam

0,14

0,14

0,17

0,039

BMI


0,173

0,033

0

0,98

Nghiện thuốc lá

0

0,45

0

0,75

Lạm dụng rượu

- 0,141

0,10

0

0,47

Tuổi


Ở nhóm bệnh, không có sự tương
quan giữa tăng homocystein với tuổi, giới,
nghiện thuốc lá và lạm dụng rượu; có
mối tương quan thuận mức độ yếu với chỉ
số BMI (r = 0,17 và p < 0,05). Trong
khi đó, ở nhóm chứng có mối tương quan
thuận mức trung bình giữa nồng độ
homocystein với tuổi (r = 0,42 và
p < 0,0001) và mối tương quan yếu
giữa homocystein với giới nam (r = 0,17
và p < 0,05).

Như vậy, nồng độ homocystein tăng
theo tuổi và giới nam ở nhóm chứng, nhưng
nhóm bệnh không có mối tương quan này.
Điều này chứng tỏ nồng độ homocystein
máu tăng đều có thể gây nguy cơ đột quỵ
mà không phụ thuộc vào tuổi và giới.
Tăng nồng độ homocystein máu có mối
tương quan thuận với BMI ở nhóm bệnh,
điều này cho thấy có sự kết hợp giữa béo
phì và tăng homocystein máu, do đó làm
gia tăng nguy cơ đột quỵ não.

Bảng 5: Mối tương quan giữa nồng độ homocystein máu với một số YTNC có thể
thay đổi được.
Tƣơng quan giữa
homocystein


Nhóm bệnh

Nhóm chứng

Hệ số r

p

Hệ số r

p

Huyết áp tâm thu

0,30

0,0003

0,41

0,000

Huyết áp tâm trương

0,346

0,000

0,36


0,000

0

0,95

0

0,72

Cholesterol

- 0,173

0,067

0,1

0,17

LDL-C

- 0,236

0,011

0,1

0,33


- 0,1

0,41

0

0,89

0

0,83

- 0,1

0,25

Đái tháo đường

Triglycerid
HDL-C

150


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016

Nhóm bệnh có mối tương quan thuận
mức trung bình giữa nồng độ homocystein
với huyết áp tâm thu và huyết áp tâm
trương (r = 0,3 với p < 0,001; r = 0,346

với p < 0,0001); có mối tương quan
nghịch mức yếu với LDL-C (r = -0,236 và
p < 0,05). Nhóm chứng có mối tương
quan thuận ở mức trung bình giữa nồng
độ homocystein với huyết áp tâm thu và
huyết áp tâm trương (r = 0,41 và r = 0,36
với p < 0,0001). Không có mối tương
quan với các chỉ số lipid máu.
Andrew G. Bostom và CS trong nghiên
cứu Framingham (1999) đánh giá nồng
độ homocystein và đột quỵ não ở người
cao tuổi thấy: nồng độ homocystein tương
quan với tuổi (r = 0,212 với p < 0,001),
huyết áp tâm thu (r = 0,111 với p < 0,001).
[6]. Theo Unhee Lim và Patricia A Cassano
(2002), nồng độ homocystein liên quan
độc lập với huyết áp. Cứ tăng mỗi
5 µmol/l homocystein thì huyết áp tâm
trương và tâm thu tăng 0,5 - 0,7 mmHg ở
nam và 0,7 - 1,2 mmHg ở nữ.
Trên cả nhóm bệnh và nhóm chứng,
nồng độ homocystein tương quan thuận
với huyết áp. Sở dĩ có mối tương quan
này là do tăng nồng độ homocystein máu
làm tổn tương nội mạc động mạch, từ đó
gây xơ vữa động mạch, xơ cứng động
mạch và tăng huyết áp. Tăng homocystein
máu không có mối tương quan với
cholesterol, triglycerid và HDL-C ở cả hai
nhóm; có mối tương quan nghịch mức

yếu với LDL-C ở nhóm bệnh. Tuy nhiên,
chúng tôi chưa lý giải được mối tương
quan này, có thể do cách chọn mẫu, do
ảnh hưởng của điều trị hoặc có sự liên
quan trong cơ chế bệnh sinh của xơ vữa
động mạch.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 136 BN bị đột quỵ
NMN và 136 ca chứng, chúng tôi rút ra
một số kết luận:
- Tuổi trung bình của nhóm bệnh
65,6 ± 10,33; tỷ lệ đột quỵ NMN nam/nữ
= 1,83.
- YTNC ở nhóm bệnh: tăng huyết áp,
tăng homocystein, triglycerid, tăng
cholesterol máu, giảm HDL-C; đái tháo
đường và tăng LDL-C; nghiện thuốc lá;
béo phì và lạm dụng rượu.
- Tăng homocystein huyết tương (> 15
µmol/l) là YTNC độc lập của NMN với OR
= 3,0 [95% CI: 1,75 - 5,16] và p < 0,0001.
- Ở nhóm bệnh, có mối tương quan
thuận mức trung bình giữa nồng độ
homocystein với huyết áp tâm thu và
huyết áp tâm trương (r = 0,3 với p <
0,001; r = 0,346 với p < 0,0001); có mối
tương quan thuận mức độ yếu giữa
homocystein với chỉ số BMI (r = 0,173 và
p < 0,05); có mối tương quan nghịch mức

yếu với LDL-C (r = -0,236 với p < 0,05).
- Không có mối tương quan giữa tăng
homocystein với tuổi, giới, đái tháo
đường, cholesterol, HDL-C và triglycerid.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Chương. Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và điều trị đột quỵ não tại
Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103.
Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, Số đặc biệt
tháng 11/2007. 2007, tập 2, tr.25-33.
2. Nguyễn Văn Thông. Nghiên cứu hiệu
quả điều trị của Aggrenox trên BN đột quỵ
NMN giai đoạn cấp. Tạp chí Y - Dược học
Quân sự. 2010, số 2, tr.52-58.

151


TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016
3. Phạm Thị Thanh Hòa, Nguyễn Minh
Hiện, Nguyễn Văn Tuấn. Nghiên cứu một số
YTNC qua 2.145 trường hợp đột quỵ não cấp
điều trị tại Khoa Đột quỵ Bệnh viện Quân y
103. Tạp chí Y Dược lâm sàng 108. 2010,
tập 5, số đặc biệt, tr.162-169.
4. Nguyễn Đức Hoàng. Nghiên cứu nồng
độ homocystein máu. YTNC mới của tai biến
mạch máu não tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Luận
án Tiến sỹ Y học. 2005.
5. Cao Phi Phong. Mối quan hệ giữa tăng

homocystein huyết tương và NMN. Tạp chí Y
học Thành phố Hồ Chí Minh. 2005, tập 9, phụ
bản của số 1, tr.127-132.
6. Andrew G. Bostom, Irwin H. Rosenberg,
Halit Silbershatz et al. Nonfasting plasma total
homocysteine levels and stroke incidence in
elderly persons: The Framingham study.
Annals of Internal Medicine. 1999, 131 (5),
pp.352-355.

152

7. Verhoef P, Hennekens CH, Malinow MR
et al. A prospective study of plasma
homocyst(e)ine and risk of ischemic
stroke. Stroke. 1994, 25, pp.1924-1930.
8. Moghaddasi M, Mamarabadi
Mirzadeh S et al. Homocysteine, vitamin
and folate levels in Iranian patients
ischemic stroke. Neurol Res. 2010, 32
pp.953-956.
9. Perry IJ, Refsum H,
Prospective study of serum
concentration and risk of
aged British men. 1995,
1395-1398.

M,
B12
with

(9),

Morris RW et al.
total homocysteine
stroke in middleLancet, 346, pp.

10. Virtanen JK, Voutilainen S, Happonen
P et al. Serum homocysteine, folate and risk
of stroke: Kuopio ischaemic heart disease risk
factor (KIHD) study. Eur J Cardiovasc Prev
Rehabil. 2005, 12 (4), pp.369-375.



×