Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
HÌNH ẢNH LÂM SÀNG VÀ THÔNG TIN DỊCH NÃO TUỶ
Ở BỆNH NHÂN VIÊM MÀNG NÃO DO CRYPTOCOCCUS NEOFORMANS
CÓ HAY KHÔNG CÓ NHIỄM HIV
Lê Tự Phương Thảo*, Nguyễn Huy Dũng**, Nguyễn Thanh Hiệp*, Nguyễn Hữu Lân**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tỷ lệ mắc viêm màng não do Cryptococcus neoformans tăng lên trong những năm gần đây, cả
ở người HIV dương tính và âm tính. Hiện có ít báo cáo về bệnh viêm màng não do Cryptococcus neoformans ở
bệnh nhân Việt Nam có hoặc không có nhiễm HIV.
Mục tiêu: Mô tả hình ảnh lâm sàng và thông tin dịch não tủy ở bệnh nhân bị viêm màng não do
Cryptococcus neoformans có hoặc không có nhiễm HIV.
Chất liệu và phương pháp: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu loạt lâm sàng trên những bệnh nhân bị viêm
màng não do Cryptococcus neoformans đồng ý làm xét nghiệm HIV, tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ năm
2007 đến năm 2013.
Kết quả: 85 bệnh nhân được chẩn đoán viêm màng não do Cryptococcus neoformans, dựa trên kết quả soi
và/hoặc cấy dịch não tủy tìm thấy Cryptococcus neoformans. Triệu chứng viêm màng não/viêm não‐màng não
thường gặp nhất là đau đầu (80%), buồn nôn hoặc nôn (51,76%), thay đổi ý thức từ lú lẫn đến hôn mê
(22,35%), cổ gượng (20%). Tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng này không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm
bệnh nhân HIV dương tính và nhóm bệnh nhân HIV âm tính. Sốt rất ít gặp ở nhóm bệnh nhân HIV dương tính
so với nhóm bệnh nhân HIV âm tính (45,45% so với 78,95%; p < 0,02). Bệnh nhân HIV dương tính có số lượng
bạch cầu dịch não tủy (5 tế bào/μL so với 78 tế bào/μL; p < 0,0001), lượng protein dịch não tủy (0,30 ± 0,23 g/L
so với 0,71 ± 0,58; p < 0,0001) thấp hơn và tỷ lệ tế bào lympho trong dịch não tủy (99 ± 6%, so với 79 ± 32%; p
< 0,0001), lượng chloride dịch não tuỷ (113,79 ± 7 vs. 110,06 ± 6,4; p < 0,03) theo thứ tự cao hơn so với bệnh
nhân HIV âm tính.
Kết luận: Nghiên cứu này chứng minh viêm màng não do Cryptococcus có thể xảy ra ở bệnh nhân HIV
dương tính hoặc bệnh nhân không có bệnh nền rõ ràng. Các triệu chứng thường gặp nhất là đau đầu, sốt, buồn
nôn hoặc nôn. Xét nghiệm dịch não tuỷ (lượng protein, lượng chloride, số lượng tế bào bạch cầu, tỷ lệ tế bào
lymphô) có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân có hay không có nhiễm HIV.
Từ khóa: viêm màng não do Cryptococcus neoformans, vi rút gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người.
ABSTRACT
CLINICAL SPECTRUM AND CEREBROSPINAL FLUID DATA IN CRYPTOCOCCUS NEOFORMANS
MENINGITIS IN PATIENTS WITH OR WITHOUT HIV.
Le Tu Phuong Thao, Nguyen Huy Dung, Nguyen Thanh Hiep, Nguyen Huu Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 214 ‐ 220
Background: The incidence of Cryptococcus neoformans meningitis has increased in recent years, both in
human immunodeficiency virus (HIV) positive and negative patients. There are scanty reports of Cryptococcus
neoformans meningitis (CNM) in Vietnamese patients with or without HIV.
Objective: To describe the clinical spectrum and cerebrospinal fluid variations in cryptococcus neoformans
meningitis in patients with or without HIV.
* Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP. Hồ Chí Minh. ** BV Phạm Ngọc Thạch, TP. Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hữu Lân
214
Email:
ĐT: 0913185885
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
Materials and Methods: We performed a case series study at Pham Ngoc Thach hospital from 2007 to
2013 on Cryptococcus neoformans meningitis Vietnamese patients who agreed for HIV testing.
Results: Eighty five patients were diagnosed of CNM, based on cerebrospinal fluid (CSF) microscopy and/or
culture. The most common meningitis/meningoencephalitis symptoms are headache (80%), nausea or vom‐
iting (51.76%), altered consciousness ranging from confusion to a comatose state (22.35%), neck stiffness (20%).
These symptoms are not statistically significant between HIV positive and HIV negative. Fever is much less
observed in HIV‐positive patients than in HIV‐negative patients (45.45% vs. 78.95%, p < 0.02). HIV‐positive
patients have lower CSF white blood cell count (5 cell/μL vs. 78 cell/μL; p < 0,0001), CSF protein level (0.30 ±
0.23 g/L vs. 0.71 ± 0.58; p < 0.0001) and a higher CSF relative lymphocyte count (99 ± 6 % vs. 79 ± 32 %; p <
0.0001), CFS chloride level (113.79 ± 7 vs. 110.06 ± 6.4 respectively; p < 0.03) than the HIV‐negative patients.
Conclusion: This study demonstrated that Cryptococcal meningitis can occur in patients with HIV positive
or without any apparent underlying diseases. The most common symptoms were headache, fever and nausea or
vomiting. CSF examinations (protein level, white blood cell count, relative lymphocyte count) did show
significant differences between the patients with and without HIV.
Key words: Cryptococcal neoformans meningitis, Human immunodeficiency virus (HIV).
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng nhằm rút kinh
ĐẶT VẤN ĐỀ
nghiệm chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời giúp cải
Cryptococcosis là bệnh do nhiễm nấm
thiện tiên lượng, giảm tử vong cho bệnh nhân.
Cryptococcus neoformans xâm lấn gây nên, bệnh
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
xảy ra trên khắp thế giới, với hình thức gây bệnh
từ xâm lấn phổi không triệu chứng đến viêm
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả loạt
não‐màng não đe dọa tính mạng bệnh nhân, gây
lâm sàng các trường hợp bệnh nhân nhập viện
tử vong cao(7,13). Cryptococcus xảy ra ở người bị
tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ tháng 01‐
suy giảm miễn dịch do một trong những
2007 đến tháng 5‐2013, đồng ý làm xét nghiệm
nguyên nhân như nhiễm HIV, điều trị
chẩn đoán HIV, có chẩn đoán xác định viêm
glucocorticoid kéo dài, cấy ghép nội tạng, bệnh
màng não do Cryptococcus neoformans dựa vào
ác tính, bệnh sarcoidosis, và ở người có miễn
xét nghiệm tìm thấy nang nấm Cryptococcus
dịch hoàn chỉnh không có bất kỳ bệnh lý nền rõ
neoformans trên tiêu bản soi dịch não tủy nhuộm
(7)
ràng . Có những bàn cãi về điều trị viêm não
mực tàu hoặc dựa vào xét nghiệm tìm thấy nấm
màng não do Cryptococcus ở 3 nhóm bệnh nhân
hạt men mọc trên môi trường Sabouraud ở nhiệt
nguy cơ: (1) người nhiễm HIV, (2) người được
độ phòng và ở nhiệt độ 370C, kèm với phản ứng
ghép tạng, (3) người không nhiễm HIV và
urease dương tính, nếu soi âm tính.
không ghép tạng. Nhiễm Cryptococcus đặt ra
Tất cả bệnh nhân đều được ghi nhận tiền sử
nhiều khó khăn, thách thức trong tiếp cận chẩn
bệnh tật, bệnh lý đi kèm tại thời điểm nhập viện,
đoán và điều trị do có ít phát triển thuốc mới, ít
triệu chứng lâm sàng, chụp X‐quang phổi qui
nghiên cứu về bệnh này trong thời gian gần đây.
ước, xét nghiệm đàm trực tiếp tìm AFB, xét
Tuy nhiên, nếu chẩn đoán được thực hiện sớm,
nghiệm glucose máu cùng lúc với chọc dò dịch
nếu bác sĩ lâm sàng tuân thủ các nguyên tắc cơ
não tủy. Lấy máu làm xét nghiệm huyết thanh
bản của những hướng dẫn quản lý bệnh nhiễm
chẩn đoán HIV.
Cryptococcus của Hội Bệnh lý Nhiễm khuẩn Hoa
Chọc dò dịch não tủy nhận định màu sắc
kỳ năm 2010, nếu bệnh nền của bệnh nhân được
và làm xét nghiệm glucose, chloride, protid,
kiểm soát tốt, bệnh nhân nhiễm Cryptococcus có
soi trực tiếp tìm AFB, Cryptococcus neoformans,
thể được điều trị thành công trong phần lớn các
vi khuẩn không lao, số lượng và tỷ lệ các
trường hợp(13). Vì vậy, chúng tôi thực hiện
thành phần tế bào.
nghiên cứu này nhằm mục tiêu xác định những
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
215
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa
và nhập vào máy vi tính, sử dụng phần mềm
Stata 10 để xử lý. Thống kê mô tả bao gồm tỷ lệ,
trung bình, trung vị của các biến số khác nhau.
Chúng tôi sử dụng phép kiểm χ2 để so sánh tỷ lệ
khác biệt cho các biến định tính. Sử dụng kiểm
định thống kê “Shapiro test” để xác định giả
thiết phân phối chuẩn của một biến số. Nếu biến
số có phân phối chuẩn, sử dụng phép kiểm t với
2 mẫu độc lập. Nếu biến số không có phân phối
chuẩn, sử dụng kiểm định Mann‐Whitney. Tất
cả các phương pháp kiểm định giả thuyết được
thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định hai bên.
Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) để chấp nhận
hay bác bỏ giả thuyết thống kê.
KẾT QUẢ
Có 85 bệnh nhân viêm màng não do
Cryptococcus neoformans đủ tiêu chuẩn thu dung
vào nghiên cứu, bao gồm 18 nữ, 67 nam, tuổi
trung bình 31 ± 12 tuổi (từ 1 tuổi đến 71 tuổi,
tuổi trung vị 29 tuổi). Tuổi trung bình của nữ là
30 ± 16 tuổi (từ 1 tuổi đến 71 tuổi, tuổi trung vị
28 tuổi). Tuổi trung bình của nam là 32 ± 11 tuổi
(từ 1 tuổi đến 64 tuổi, tuổi trung vị 29 tuổi).
Không có khác biệt theo giới tính về tuổi của
bệnh nhân nghiên cứu (p > 0,3). Có 66 bệnh
nhân nhiễm HIV với tuổi trung bình là 30 ± 8
tuổi (từ 8 tuổi đến 60 tuổi, tuổi trung vị 28 tuổi).
19 bệnh nhân HIV âm tính với tuổi trung bình là
35 ± 21 tuổi (từ 1 tuổi đến 71 tuổi, tuổi trung vị
42 tuổi). Không có khác biệt về tuổi của bệnh
nhân HIV dương tính và bệnh nhân HIV âm
tính (p > 0,1).
Các bệnh lý đi kèm đang được điều trị tại
thời điểm nhập viện của 85 bệnh nhân bị viêm
màng não do Cryptococcus neoformans hoàn toàn
liên quan đến lao, chủ yếu là lao phổi, nhưng chỉ
có 3 bệnh nhân tìm được AFB trong xét nghiệm
đàm soi trực tiếp (2 bệnh nhân HIV dương tính,
1 bệnh nhân HIV âm tính). Có hai trường hợp
lao hạch (1 bệnh nhân HIV dương tính, 1 bệnh
nhân HIV âm tính) và một trường hợp lao màng
phổi (HIV dương tính) có chẩn đoán xác định
bằng mô học. Các bệnh lý đi kèm đang được
216
điều trị tại thời điểm nhập viện của bệnh nhân
HIV dương tính và bệnh nhân HIV âm tính
được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1: Bệnh lý đi kèm của bệnh nhân bị viêm màng
não do Cryptococcus neoformans
Triệu chứng lâm sàng
Lao phổi
Lao màng não
Lao phổi + lao màng não
Lao hạch
Lao màng phổi
HIV dương
(n = 66)
31
3
3
2
1
HIV âm
(n = 19)
4
2
0
0
0
Các triệu chứng màng não thường gặp của
85 bệnh nhân bị viêm màng não do Cryptococcus
neoformans là đau đầu (80%, 68/85 bệnh nhân),
buồn nôn, nôn (51,76%, 44/85 bệnh nhân), cổ
gượng (20%, 17/85 bệnh nhân). Rối loạn ý thức
xuất hiện ở 22,35% (19/85) bệnh nhân. 45/85
(52,94%) bệnh nhân có triệu chứng sốt. Triệu
chứng lâm sàng của bệnh nhân HIV dương tính
và bệnh nhân HIV âm tính được trình bày trong
bảng 2.
Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng bệnh nhân bị viêm
màng não do Cryptococcus neoformans
Triệu chứng
lâm sàng
Sốt
Đau đầu
Buồn nôn, nôn
Cổ gượng
Rối loạn ý thức
Co giật
Mờ mắt
Chóng mặt
Ho
Đau ngực
Tiêu chảy
Khó thở
HIV dương
(n = 66)
30
56
35
15
14
6
2
0
13
1
1
0
HIV âm
(n = 19)
15
12
9
2
5
1
0
1
3
1
0
1
p
< 0,02
> 0,05
> 0,7
> 0,3
> 0,6
=1
=1
> 0,3
Dịch não tủy của bệnh nhân bị viêm màng
não do Cryptococcus neoformans thường có màu
trắng trong (chiếm 63,53%), tiếp đến là màu
trắng đục (chiếm 32,94%), trắng hồng (chiếm
2,35%), đỏ (chiếm 1,18%); chỉ số trung bình
glucose máu là 6 ± 1,39mmol/L (từ 3 đến
12,4mmol/L), glucose dịch não tủy 1,89 ±
1,01mmol/L (từ 0,1 đến 4,2mmol/L), tỷ lệ glucose
máu/glucose dịch não tủy là 0,33 ± 2 (từ 0,01 đến
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
0,8, trung vị 0,33), chloride dịch não tủy 112,97 ±
7mmol/L (từ 94 đến 126mmol/L), protid dịch
não tủy 0,39 ± 0,38g/L (từ 0,08 đến 2,3g/L, trung
vị 0,25g/L), số lượng bạch cầu dịch não tủy 153 ±
667/mm3 (từ 2 đến 5760/mm3, trung vị là 5/mm3)
với 83 (97,65%) bệnh nhân có tế bào lympho
trong dịch não tủy, 10 (11,76%) bệnh nhân có tế
bào thoái hóa trong dịch não tủy, 1 (1,18%) bệnh
nhân có tế bào bạch cầu đa nhân trung tính
trong dịch não tủy. Trong 83 bệnh nhân có tế
bào lympho trong dịch não tủy, tỷ lệ tế bào
lympho chiếm 94,66 ± 17,74% (từ 20 đến 100%,
trung vị 100%). Trong 10 bệnh nhân có tế bào
thoái hóa trong dịch não tủy, tỷ lệ tế bào thoái
hóa chiếm 51,5 ± 37,94% (từ 5 đến 100%, trung vị
65%). Chỉ có 1 bệnh nhân có tế bào bạch cầu đa
nhân trong dịch não tủy với tỷ lệ tế bào bạch cầu
đa nhân trung tính là 80%.
Màu sắc, giá trị trung bình của glucose,
chloride, protid, trung vị của số lượng bạch cầu,
thành phần tế bào trong dịch não tủy, tỷ lệ
glucose dịch não tủy/glucose máu của bệnh
nhân HIV dương tính và bệnh nhân HIV âm
tính được trình bày trong bảng 3.
Bảng 3: Màu sắc và kết quả xét nghiệm sinh hóa, tế
bào dịch não tủy bệnh nhân bị viêm màng não do
Cryptococcus neoformans.
HIV dương HIV âm
p
(n = 66)
(n = 19)
+Màu sắc:
-Trắng trong
42
12
-Trắng đục
22
6
-Trắng hồng
2
0
-Đỏ
0
1
+Xét nghiệm sinh hóa:
Glucose (mmol/L)
1,93 ± 0,98 1,77 ± 1,11 > 0,5
Glucose dịch não tủy
0,34 ± 0,19 0,32 ± 0,23 > 0,5
Glucose máu
Chloride (mmol/L)
113,79 ± 7 110,06 ± 6,4 < 0,03
Protein (g/L)
0,30 ± 0,23 0,71 ± 0,58 <0,0001
+Xét nghiệm tế bào:
-Số lượng bạch cầu
5
78
< 0,0001
(/mm3)
-Tỷ lệ tế bào lympho
99 ± 6
79 ± 32
< 0,0001
(%)
(n = 65)
(n = 18)
-Tỷ lệ tế bào bạch cầu
n=0
80 (n = 1)
đa nhân trung tính (%)
> 0,9
-Tỷ lệ tế bào thoái hóa 15 (n = 3) 70 (n = 7)
Xét nghiệm
Xét nghiệm
Nghiên cứu Y học
HIV dương
(n = 66)
HIV âm
(n = 19)
p
(%)
BÀN LUẬN
Nấm Cryptococcus có nhiều loài nhưng chủ
yếu thường gặp loại Cryptococcus neoformans gây
bệnh Cryptococcosis, còn gọi là bệnh nấm
Blastomycose châu Âu. Bệnh này được nhà khoa
học Busse và Buschkle phát hiện từ năm 1892.
Ngoài nấm Cryptococcus neoformans thường gây
bệnh, loài nấm Cryptococcs albidus và
Cryptococcus laurentii cũng có khả năng gây bệnh
nhưng ít gặp hơn. Nấm Cryptococcus neoformans
là loại nấm men. Chúng có hai chủng loại là
Cryptococcus neoformans var. neoformans với các
type huyết thanh A và D, Cryptococcus
neoformans var. gattii với các type huyết thanh B
và C; có thể phân biệt bằng phản ứng sinh hoá
hoặc kỹ thuật sinh học phân tử(9). Vị trí thường
bị nhiễm khuẩn Cryptococcus neoformans nhất là
hệ thần kinh trung ương và phổi(8,11,12). Nhiễm
khuẩn xảy ra khi hít Cryptococcus neoformans vào
đường hô hấp, lan tỏa trong máu và định vị tại
hệ thống thần kinh trung ương, gây ra bệnh
viêm màng não/ viêm não‐màng não(2,4). Viêm
màng não do Cryptococcus neoformans gây tử
vong nếu không điều trị. Vì vậy, yêu cầu phải
nhận diện, chẩn đoán và điều trị nhanh chóng
để giảm tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên, ngay tại Hàn
quốc, sự hiểu biết về bệnh viêm màng não là ít
và người ta cũng thực hiện những nghiên cứu
đánh giá đặc điểm lâm sàng, kết quả xét nghiệm
ban đầu khi nhập viện của bệnh nhân viêm
màng não do Cryptococcus neoformans ở bệnh
nhân có hay không có nhiễm HIV, để giúp chẩn
đoán nhanh hơn, chính xác hơn, điều trị thích
hợp và có kết quả tốt hơn(7).
Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh viêm màng não do
Cryptococcus neoformans đã giảm ở bệnh nhân
HIV đang điều trị thuốc kháng siêu vi HIV,
bệnh nhiễm khuẩn do Cryptococcus neoformans
vẫn còn là nguyên nhân tử vong hàng đầu do
HIV tại những nước đang phát triển(5). Nhiễm
khuẩn do Cryptococcus neoformans thường xảy ra
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
217
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
ở những bệnh nhân HIV có số lượng tế bào
lympho CD4 < 100 tế bào/μL(3,14).
Trong nghiên cứu của Lee S.J. và cộng sự,
tuổi của bệnh nhân rất đa dạng (từ 25 tuổi đến
73 tuổi, trung vị 47,5 tuổi), nam giới chiếm ưu
thế, đặc biệt trong nhóm bệnh nhân HIV dương
tính (7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi
trung bình của bệnh nhân viêm màng não do
Cryptococcus neoformans là 31 ± 12 tuổi (từ 1 tuổi
đến 71 tuổi, trung vị 29 tuổi). Bệnh thường gặp ở
nam giới với tỷ lệ nam:nữ là 67:18. Tỷ lệ nam:nữ
trong nhóm bệnh nhân HIV dương tính là 54:12,
trong nhóm bệnh nhân HIV âm tính là 13:6. Tuy
nhiên, khác biệt về giới tính giữa nhóm bệnh
nhân HIV dương tính và nhóm bệnh nhân HIV
âm tính không có ý nghĩa thống kê (p > 0,2).
Tuổi trung bình của nữ là 30 ± 16 tuổi (từ 1 tuổi
đến 71 tuổi, trung vị 28 tuổi), của nam là 32 ± 11
tuổi (từ 1 tuổi đến 64 tuổi, trung vị 29 tuổi).
Không có khác biệt theo giới tính về tuổi của
bệnh nhân nghiên cứu (p > 0,3). Tuổi trung bình
của bệnh nhân HIV dương tính bị viêm màng
não do Cryptococcus neoformans là 30 ± 8 tuổi (từ
8 tuổi đến 60 tuổi, trung vị 28 tuổi). Tuổi trung
bình của bệnh nhân HIV âm tính bị viêm màng
não do Cryptococcus neoformans là 35 ± 21 tuổi (từ
1 tuổi đến 71 tuổi, trung vị 42 tuổi). Không có
khác biệt về tuổi trung bình của bệnh nhân HIV
dương tính và bệnh nhân HIV âm tính (p > 0,1).
Trong nghiên cứu của Lee S.J. và cộng sự, đái
tháo đường, suy thận, xơ gan giai đoạn cuối là
những yếu tố nguy cơ chính của viêm màng não
do Cryptococcus neoformans ở bệnh nhân HIV âm
tính. Tuy nhiên, 20% bệnh nhân tham gia nghiên
cứu không có yếu tố nguy cơ, gây khó khăn
trong hướng chẩn đoán viêm màng não do
Cryptococcus neoformans(7). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, 77,65% bệnh nhân bị nhiễm HIV, là
yếu tố nguy cơ chính gây suy giảm miễn dịch
tạo nền cho Cryptococcus neoformans gây bệnh
viêm màng não; 22,35% bệnh nhân viêm màng
não do Cryptococcus neoformans có xét nghiệm
HIV âm tính và không có yếu tố nguy cơ gây
suy giảm miễn dịch. Liên quan đến bệnh lý đi
kèm, tại thời điểm trước nhập viện, có hai
218
trường hợp lao hạch và một trường hợp lao
màng phổi có chẩn đoán xác định bằng mô học
là chính xác, có 5 bệnh nhân được chẩn đoán và
điều trị như lao màng não, 35 bệnh nhân được
chẩn đoán và điều trị như lao phổi, 3 bệnh nhân
được chẩn đoán và điều trị như lao màng não
kết hợp lao phổi, nhưng tất cả 85 bệnh nhân
nghiên cứu đều không tìm thấy vi khuẩn lao
trong dịch não tủy và chỉ có 3 bệnh nhân tìm
thấy AFB trong đàm soi trực tiếp, mặc dù tất cả
các bệnh nhân được chẩn đoán lao phổi đều có
tổn thương nhu mô phổi. Như vậy, 8 bệnh nhân
được chẩn đoán và điều trị như lao màng não tại
thời điểm nhập viện do chỉ dựa vào thay đổi
sinh hóa, tế bào của dịch não tủy nên có khả
năng chẩn đoán sai. Do bệnh nhân đang trong
tình trạng bệnh nặng đe dọa tính mạng nên
chúng tôi không làm thêm các thủ thuật xâm lấn
lấy mẫu bệnh phẩm hô hấp để chẩn đoán bản
chất của thương tổn phổi. Đây là hạn chế trong
nghiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu của
Lee S.J. và cộng sự, bệnh nhân HIV dương tính
có bệnh đi kèm là lao (27,3%), viêm phổi do
Pneumocystis carinii (36,4%), Kaposi sarcoma (9%)
và xơ gan (9%); bệnh nhân HIV âm tính có bệnh
đi kèm là viêm phổi do Pneumocystis carinii
(22,2%), giảm CD4 vô căn (11,1%), xơ hóa mô kẽ
phổi (11,1%), đái tháo đường (33,3%), bệnh thận
giai đoạn cuối (22,2%), viêm gan mạn tính (HBV,
HCV) (22,2%)(7).
Theo Lee S.J. và cộng sự, sốt, đau đầu là
triệu chứng thường gặp nhất(3,6,7,13). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, triệu chứng thường gặp nhất
cũng là đau đầu (xuất hiện ở 80% bệnh nhân),
sốt (xuất hiện ở 52,94% bệnh nhân). Chúng tôi
ghi nhận bệnh nhân HIV dương tính ít có triệu
chứng sốt hơn bệnh nhân HIV âm tính (45,45%
so với 78,95%; p < 0,02). Có thể giải thích hiện
tượng này theo Graybill J.R., Saag M.S. và cộng
sự là do bệnh nhân nhiễm HIV có phản ứng
viêm ít hơn bệnh nhân không nhiễm HIV(3,14).
Tỷ lệ bệnh nhân có thay đổi trạng thái tâm lý
là 40% tổng số bệnh nhân nghiên cứu và 45,5%
số bệnh nhân HIV dương tính trong nghiên cứu
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
của Lee S.J. và cộng sự(7), từ 13% đến 25% bệnh
nhân trong nghiên cứu của Cox G.M.(1), Kisenge
P.R.(6). 15% bệnh nhân có triệu chứng nôn, buồn
nôn trong nghiên cứu của Lee S.J. và cộng sự(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 22,35% bệnh
nhân bị rối loạn ý thức, 51,76% bị buồn nôn,
nôn, 20% có cổ gượng. Không có khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn ý
thức, buồn nôn, nôn, cổ gượng giữa nhóm bệnh
nhân HIV dương tính và HIV âm tính.
Trong nghiên cứu của Lee S.J. và cộng sự,
25% bệnh nhân có khó thở, có thể do liên quan
đến viêm phổi do Pneumocystis carinii chứ không
phải do Cryptococcus neoformans lan tỏa toàn
thân(7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có
18,82% bệnh nhân có triệu chứng ho, 2,35% bệnh
nhân có triệu chứng đau ngực, 1,18% bệnh nhân
có triệu chứng khó thở. Tất cả các bệnh nhân
này đều có tổn thương phổi. Vì vậy, triệu chứng
hô hấp có thể do tổn thương phổi.
Theo nghiên cứu của Graybill J.R., Saag M.S.,
bệnh nhân không nhiễm HIV có số lượng tế bào
trong dịch não tủy cao hơn, lượng đường trong
dịch não tủy thấp hơn so với bệnh nhân nhiễm
HIV(2,4). Trong nghiên cứu của Lee S.J. và cộng
sự, hầu hết các xét nghiệm tại thời điểm nhập
viện như CRP huyết thanh, dịch não tủy, hiệu
giá kháng nguyên Cryptococcus neoformans,
đường trong dịch não tủy, số lượng tế bào trong
dịch não tủy và tỷ lệ cấy Cryptococcus neoformans
trong dịch não tủy dương tính không khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa bệnh nhân nhiễm HIV
và bệnh nhân không nhiễm HIV, nhưng bệnh
nhân nhiễm HIV có tỷ lệ cấy Cryptococcus
neoformans trong máu dương tính cao hơn so với
bệnh nhân không nhiễm HIV (45,5% so với
11,1%; p = 0,046), cho thấy gánh nặng bệnh tật
do Cryptococcus neoformans cao hơn ở bệnh nhân
nhiễm HIV(7). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy dịch não tuỷ của bệnh nhân HIV
dương tính có lượng protid, số lượng bạch cầu
thấp hơn, lượng chloride, tỷ lệ tế bào lympho
cao hơn bệnh nhân HIV âm tính một cách có ý
nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Odongo‐
Nghiên cứu Y học
Aginya E.I. và cộng sự nhận thấy màu sắc dịch
não tủy của bệnh nhân viêm màng não do
Cryptococcus neoformans đều có màu đục, nhưng
phần nổi lên bề mặt thì trong hoặc không
màu(10). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có
32,94% bệnh nhân có dịch não tủy trắng đục,
63,53% bệnh nhân có dịch não tủy trắng trong.
Không có khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân có dịch
não tủy trắng đục hay trắng trong giữa nhóm
bệnh nhân HIV dương tính và nhóm bệnh nhân
HIV âm tính (p > 0,9). Có 2,35% bệnh nhân có
dịch não tủy trắng hồng, 1,18% có dịch não tủy
đỏ, khả năng do xuất huyết màng não/não bị
viêm nhiễm.
Để kết luận, kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy bệnh viêm màng não do
Cryptococcus neoformans có thể xảy ra không chỉ
ở các bệnh nhân nhiễm HIV, mà còn ở những
bệnh nhân không có bất kỳ tác nhân gây bệnh
rõ ràng. Các triệu chứng thường gặp nhất là
đau đầu, sốt, buồn nôn, nôn, cổ gượng. Tỷ lệ
bệnh nhân bị sốt trong nhóm HIV âm tính cao
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm HIV âm
tính. Dịch não tuỷ của bệnh nhân HIV dương
tính có lượng protid, số lượng bạch cầu thấp
hơn, lượng chloride, tỷ lệ tế bào lympho cao
hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với bệnh
nhân HIV âm tính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
Cox GM, Perfect JR (1997). Cryptococcus neoformans var
neoformans and gattii and Trichosporon species. In: Edward
L.A.(editor). Topley and Wilson’s Microbiology and
Microbial Infections, 9th edition, Arnold Press, London.
Diamond RD, May JE, Kane MA, et al. (1974). The role of the
classical and alternate complement pathways in host defenses
against Cryptococcus neoformans infection. J Immunol, 112:
2260‐2270.
Graybill JR, Sobel J, Saag M, et al. (2000). Diagnosis and
management of increased intracranial pressure in patients
with AIDS and cryptococcal meningitis. The NIAID Mycoses
Study Group and AIDS Cooperative Treatment Groups. Clin
Infect Dis, 30: 47‐54.
Igel HJ, Bolande RP (1966). Humoral defense mechanisms in
cryptococcosis: substances in normal human serum, saliva,
and cerebrospinal fluid affecting the growth of Cryptococcus
neoformans. J Infect Dis, 116: 75‐83.
Jarvis JN, Harrison TS (2007). HIV associated cryptococcal
meningitis. AIDS, 21: 2119‐2129.
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
219
Nghiên cứu Y học
6.
7.
8.
9.
10.
11.
220
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Kisenge PR, Hawkins AT, Maro VP, et al. (2007). Low CD4
count plus coma predicts cryptococcal meningitis in
Tanzania. BMC Infect Dis: 7‐39.
Lee SJ, Choi HK, Son J et al. (2011). Cryptococcal Meningitis
in Patients with or without Human Immunodeficiency Virus:
Experience in a Tertiary Hospital. Yonsei Med J, 52(3): 482‐
487.
Levitz SM (1991). The ecology of Cryptococcus neoformans
and the epidemiology of cryptococcosis. Rev Infect Dis, 13:
1163‐1169.
Enrique LJP (2012). Fungal Infections in Immunosuppressed
Patients. In: Metodiev K.(editor). Immunodeficiency: 149‐176,
InTech, Rijeka.
Odongo‐Aginya EI, Kironde F, Luryamamoi K et al. (2000).
Detection of Cryptococcus neoformans in Cerebrospinal Fluid
from Meningitis Patients Associated with HIV/AIDS in
Uganda. Trop Med, 42 (3/4): 201‐204.
Pappas PG, Perfect JR, Cloud GA, et al. (2001). Cryptococcosis
in human immunodeficiency virus‐negative patients in the
era of effective azole therapy. Clin Infect Dis, 33: 690‐699.
12.
13.
14.
Perfect JR, Casadevall A (2002). Cryptococcosis. Infect Dis
Clin North Am, 16: 837‐874.
Perfect JR, Dismukes WE, Dromer F et al. (2010). Clinical
Practice Guidelines for the Management of Cryptococcal
Disease: 2010 Update by the Infectious Diseases Society of
America. Clinical Infectious Diseases, 50: 291‐322.
Saag MS, Powderly WG, Cloud GA, et al. (1992). The NIAID
Mycoses Study Group; the AIDS Clinical Trials Group.
Comparison of amphotericin B with fluconazole in the
treatment of acute AIDS‐associated Cryptococcal meningitis. N
Engl J Med, 326: 83‐89.
Ngày nhận bài báo
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:
15‐06‐2013
10‐07‐2013
25–09‐2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch