Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Mang thai trên bệnh nhân sau ghép thận: Báo cáo 05 trường hợp tại Bệnh viện Bạch Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.48 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018

MANG THAI TRÊN BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN:
BÁO CÁO 05 TRƢỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Đỗ Gia Tuyển1; Đặng Thị Việt Hà1; Nguyễn Thị An Thủy1
TÓM TẮT
Mục tiêu: báo cáo 05 bệnh nhân mang thai sau ghép thận tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng
và phương pháp: mô tả cắt ngang, hồi cứu 05 trường hợp mang thai và sinh con trong số
200 bệnh nhân sau ghép thận tại Khoa Thận - Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 12 - 2011
đến 7 - 2018. Kết quả: bệnh nhân mang thai sau ghép thận trên 24 tháng, creatinin máu trước
mang thai từ 65 - 121 µmol/l, không có tăng huyết áp, không có protein niệu, không có thiếu
máu và nồng độ tacrolimus trong máu trước mang thai ổn định, đều dùng phác đồ thuốc chống
thải ghép medrol + prograf + MMF. Trong thời gian mang thai, cả 5 bệnh nhân đều không xuất
hiện tình trạng tăng huyết áp, tiền sản giật và đái tháo đường thai kỳ, chuyển dùng phác đồ
thuốc chống thải ghép medrol + prograf + imurel. 4/5 bệnh nhân sinh con thành công, 1 bệnh
nhân đang mang thai ở tuần thứ 25. 4/5 bệnh nhân đều mổ đẻ, 2/4 trẻ sinh đủ tháng (38 tuần),
2/4 trẻ sinh thiếu tháng (37 tuần). Trẻ sinh nặng 2.500 - 2.800 gr. Chức năng thận trước, trong
khi mang thai và sau sinh 3 tháng đều không có thay đổi khác biệt (p > 0,05). Bệnh nhân đều
quay trở lại dùng cellcept thay cho imurel ngay sau sinh. Kết luận: mang thai và sinh đẻ ở bệnh
nhân sau ghép thận có những nguy cơ cho cả mẹ và thai nhi, cần phải kế hoạch từ trước và
theo dõi điều trị cẩn thận.
* Từ khóa: Ghép thận; Mang thai.

Pregnancy after Kidney Transplantation: Reporting 05 Cases at
Bachmai Hospital
Summary
Objectives: To report five pregnant patients after renal transplantation at Bachmai Hospital.
Subjects and methods: A cross-sectional descriptive, retrospective study on 05 cases of
pregnancy out of 200 patients after kidney transplantation from December 2011 to July 2018 at
Nephrology - Urology Department, Bachmai Hospital. Results: Five cases had pregnancy after
renal transplantation more than 24 months, serum creatinine concentration before pregnancy


from 65 - 121 µmo/L, without hypertension, proteinuria, anemia and serum tacrolimus level was
stable, with immunosuppressive therapy medrol + prograf + MMF. During the time of pregnancy,
there was no hypertension, preeclampsia and gestational diabetes mellitus at five patients and
they were converted to use immunosuppressive therapy medrol + prograf + imurel. 4/5 pregnant
women gave births successfully, one patient at 25 weeks of her third gestation. Birth weight was
from 2,500 - 2,800 gr. None of these infants were infected with fetus CMV. Allograft function
before, during gestation and after delivery 3 months was stable. All pregnancy also returned to
use cellcept after delivery. Conclusion: There are many risks for maternal and fetus at patient
with pregnancy and delivery after renal transplant, they should be counselled concerning the
possibility and risks of pregnancy after kidney transplantation at each regular visit.
* Keywords: Kidney transplantation; Pregnancy.
1. Bệnh viện Bạch Mai
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thị An Thủy ()
Ngày nhận bài: 20/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/09/2018
Ngày bài báo được đăng: 04/10/2018

96


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên 90% bệnh nhân nữ mắc bệnh
thận mạn tính, đặc biệt suy thận mạn giai
đoạn phải lọc máu chu kỳ gây mất ham
muốn tình dục, rối loạn kinh nguyệt hoặc
mất kinh… Nguyên nhân là do prolactin
có nồng độ cao trong máu do giảm đào
thải ở thận; từ đó làm tăng nồng độ LH
(luteinizing hormone) và FSH (Follicular
stimulating hormone), giảm nồng độ

estradiol và progesterone. Gonadotropins
tăng dai dẳng do mất khả năng hồi tiếp
âm tính của trục hạ đồi và tuyến yên, LH
vắng mặt thành từng đợt dẫn đến mất
rụng trứng, do đó giảm khả năng sinh đẻ
và có thể làm mẹ [1, 2]. Trong số những
phụ nữ lọc máu, có đến 73% BN có rối
loạn kinh nguyệt, một nửa trong số họ có
biểu hiện mất kinh [2]. Thụ thai rất hiếm
khi xảy ra ở những BN đã lọc máu
(khoảng từ 0,9 - 7% BN lọc máu), thậm
chí sau khi thụ thai, tỷ lệ sinh con thành
công cũng thấp, chỉ 20 - 40% [3]. Tuy
nhiên, khả năng sinh sản được hồi phục
sau ghép thận do chức năng các hormon
quay lại hoạt động bình thường sau ghép
nhờ hồi phục nhanh chóng trục dưới đồi tuyến yên - sinh dục [4]. Mang thai sau
ghép thận khá phổ biến, xảy ra ở khoảng
12% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Tỷ lệ
mang thai thành công gặp trên 90% BN
sau 3 tháng đầu của thai kỳ [5], tỷ lệ sinh
con thành công có thể lên đến 72 - 80%
[3] ở người nhận thận ghép. Trường hợp
phụ nữ mang thai đầu tiên thành công
được báo cáo là một người nhận thận
ghép cùng huyết thống từ người chị em
sinh đôi năm 1958. Từ đó, rất nhiều phụ
nữ mang thai thành công được báo cáo ở
người nhận thận ghép. Tuy nhiên, việc
mang thai ở người nhận thận có nhiều rủi

ro [1]. Đó là do ảnh hưởng của việc mang

thai lên chức năng thận ghép và sử dụng
thuốc ức chế miễn dịch ở phụ nữ có thai
nhằm tránh nguy cơ thải ghép, tránh diễn
biến xấu khác lên người nhận thận ghép
như nhiễm trùng, thiếu máu, tăng huyết
áp (THA), … đặc biệt, giữ được thai nhi
cho BN ghép thận là vấn đề được các
thầy thuốc lâm sàng quan tâm.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu.
Trong số 200 BN ghép thận đang
được theo dõi điều trị tại phòng khám
ghép thận ngoại trú, Bệnh viện Bạch Mai,
chúng tôi nghiên cứu 4 BN đã sinh con và
1 BN đang mang thai.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
* Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt
ngang, hồi cứu tại Khoa Thận - Tiết niệu,
Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 12 - 2011
đến tháng 7 - 2018.
* Các bước tiến hành:
Tất cả BN nghiên cứu được tiến hành
theo các bước thống nhất, thu thập số
liệu về:
+ Tình trạng BN trước khi mang thai:
nồng độ creatinin máu, tacrolimus, protein
niệu, hemoglolin máu, tình trạng THA,

phác đồ thuốc chống thải ghép …
+ Tình trạng BN trong quá trình mang
thai: nồng độ creatinin máu, protein niệu,
hemoglobin máu, tình trạng THA, đái tháo
đường thai kỳ, tiền sản giật, phác đồ thuốc
chống thải ghép, nồng độ tacrolimus...
+ Tình trạng BN sau khi đẻ 3 tháng:
nồng độ creatinin máu, protein niệu,
hemoglolin máu, nồng độ tacrolimus, tình
trạng THA, phác đồ thuốc chống thải ghép…
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 16.0.
97


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung về ngƣời nhận thận trƣớc khi mang thai.
Bảng 1:
Thông tin

BN 1

BN 2

BN 3

BN 4

BN 5


28

33

27

35

29

Mang thai sau ghép

36 tháng

24 tháng

48 tháng

26 tháng

36 tháng

Creatinin máu trước
mang thai (µmol/l)

121

89

68


65

96

THA trước mang thai

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

Protein niệu trước mang
thai

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)


Medrol + prograf
+ cellcept

Medrol +
prograf +
cellcept

Medrol +
prograf +
cellcept

Medrol +
prograf+
myfortic

Medrol +
prograf +
cellcept

1 tháng

5 ngày

>2 tháng

4 tháng

3 tháng

5/6 (mẹ cho)


3/6 (mẹ
cho)

4/6 (cùng
huyết
thống)

3/6 (không
cùng
huyết thống)

3/6 (mẹ cho,
ghép tại Hàn
Quốc)

88 (α-thalassemia)

151

130

149

148

5.1

6.7


5.1

7.0

7.7

Tuổi BN khi mang thai

Phác đồ thuốc chống thải
ghép dùng trước mang
thai
Thời gian chuyển đổi
thuốc trước mang thai
Số cặp HLA hòa hợp khi
ghép
Hgb (g/l)
Tacrolimus (ng/ml)

Các BN mang thai đều trong độ tuổi sinh đẻ (27 - 35 tuổi), mang thai sau ghép
> 24 tháng. Cả 5 BN đều có chức năng thận ổn định, không có THA, không có protein
niệu, không thiếu máu và nồng độ tacrolimus trong máu trước mang thai ổn định, đều
dùng phác đồ thuốc chống thải ghép medrol + prograf + MMF.
2. Các nguy cơ về phía ngƣời nhận thận mang thai.
Bảng 2:
Nguy cơ

BN 1

BN 2


BN 3

BN 4

BN 5

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

Phù

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

Protein niệu


(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

Đái tháo đường thai kỳ

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

Phác đồ thuốc chống
thải ghép (trước có thai)

Medrol +
prograf +
imurel

Medrol +

prograf +
imurel

Prograf +
imurel

Prograf +
imurel

Medrol +
prograf +
imurel

103,22 ± 12,26

89,11 ± 10,42

78,33 ±
7,19

78,11 ±
6,43

84,83 ±
6,49

THA
Tiềnsản
giật


Creatinin máu (µmol/l)

98


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
Nhiễm khuẩn
tiết niệu
(bạch cầu niệu)

Cao

(-)

(-)

(-)

(-)

(-)

Thấp

Bạch cầu: 500

(-)

Bạch cầu:
125


(-)

Bạch cầu:
125

Hgb (g/l)

88,67 ± 7,14

124,56 ±
13,62

115,00 ±
18,45

125,89 ±
10,17

123,67 ±
13,84

Tacrolimus (ng/ml)

3,34 ± 1,09

2,53 ± 0,78

3,67 ±
0,75


3,36 ±
0,72

4,13 ±
1,07

Trong quá trình mang thai, cả 5 BN đều không xuất hiện tình trạng THA, tiền sản
giật và ĐTĐ thai kỳ, đều chuyển sang dùng phác đồ thuốc chống thải ghép medrol +
prograf + imurel. Không BN nào xuất hiện suy chức năng thận ghép trong quá trình
mang thai. Nồng độ tacrolimus máu giảm thấp. 3/5 BN xuất hiện tình trạng nhiễm
khuẩn tiết niệu thấp (bạch cầu niệu (+)). 1/5 BN xuất hiện tình trạng thiếu máu trong
khi mang thai.
3. Các nguy cơ về phía thai nhi trên ngƣời nhận thận.
Bảng 3:
Nguy cơ
Đẻ

Thai

BN 1

BN 2

BN 3

BN 4

BN 5


Mổ

+

+

+

+

(Chưa đẻ)

Sống

+

+

+

+

25 tuần

37 tuần

37 tuần
38 tuần

38 tuần


Thường

Lưu
Tuần thai

Non
Đủ tháng

Cân nặng sơ sinh

2,5 kg

2,7 kg

2,8 kg

2,5 kg

(-)

(-)

(-)

(-)

Nhiễm CMV bào thai

(-)


4/5 BN sinh con thành công, 1 BN đang mang thai ở tuần thứ 25. Cả 4/5 BN đều mổ
đẻ, 2/4 BN sinh đủ tháng (38 tuần), 2/4 BN sinh thiếu tháng (37 tuần). Cả 4 trẻ đều có
cân nặng sơ sinh từ 2,5 - 2,8 kg. Không có trẻ nào bị nhiễm CMV bào thai.
4. Chức năng thận trƣớc, trong mang thai và sau đẻ 3 tháng ở BN ghép thận.

Bảng 4:
BN
BN 1

BN 2

BN 3

BN 4

BN 5

121

89

68

65

96

Creatinin (µmol/l)
Trước mang thai

Trong mang thai
Sau đẻ 3 tháng

103,22 ± 12,26 89,11 ± 10,42 78,33 ± 7,19 78,11 ± 6,43 84,83 ± 6,49
121

105

84

85

(Chưa đẻ)

Chức năng thận trước, trong khi mang thai và sau sinh 3 tháng đều không thay đổi
khác biệt. Không BN nào xuất hiện suy chức năng thận ghép.
99


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
5. Nồng độ tacrolimus trước, trong mang thai và sau sinh 3 tháng ở BN ghép thận.
Bảng 5:
BN

BN 1

BN 2

BN 3


BN 4

BN 5

Trước mang thai

5,1

6,7

5,1

7,0

7,7

Trong mang thai

3,34 ± 1,09

2,53 ± 0,78

3,67 ± 0,75

3,36 ± 0,72

4,13 ± 1,07

Sau đẻ 3 tháng


5,7

4,4

5,9

5,9

(Chưa sinh)

Tacrolimus (ng/ml)

Nồng độ tacrolimus máu giảm trong thời gian mang thai ở cả 5 BN, tăng trở lại sau sinh.
6. Tình trạng thiếu máu trước, trong mang thai và sau đẻ 3 tháng ở BN ghép thận.
Bảng 6:
BN

BN 1

BN 2

BN 3

BN 4

BN 5

Trước mang thai

88


151

130

149

148

Trong mang thai

88,67 ± 7,14

Sau đẻ 3 tháng

87

136

124

150

(Chưa sinh)

> 0,05

> 0,05

> 0,05


> 0,05

> 0,05

Hgb (g/l)

p

124,56 ± 13,62 115,00 ± 18,45 125,89 ± 10,17 123,67 ± 13,84

Nồng độ Hgb máu trước, trong mang thai và sau sinh ở mọi BN không thay đổi khác
biệt có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
1. Thông tin chung về ngƣời nhận
thận trƣớc khi mang thai.
Ngày nay, việc mang thai sau ghép
thận ngày càng phổ biến ở người nhận
thận. Tuy nhiên việc mang thai có thành
công hay không thì BN cần có kế hoạch
chuẩn bị kỹ lưỡng và phải được tư vấn
đầy đủ để quá trình mang thai diễn ra
thuận lợi. Trong nghiên cứu của chúng tôi
(bảng 1), BN mang thai đều trong độ tuổi
sinh đẻ (từ 27 - 35 tuổi) (18 - 49 tuổi),
mang thai sau ghép > 24 tháng. Hướng
dẫn của KDIGO (2009) và Hiệp hội Ghép
thận Mỹ khuyến cáo việc mang thai nên
chờ đợi 1 - 2 năm sau ghép ở BN có chức
năng thận ổn định (mức lọc cầu thận

100

> 40 ml/phút và protein niệu < 1 g/ngày)
[2, 6].
Cả 5 BN của chúng tôi đều có chức
năng thận ổn định (creatinin máu dao
động từ 65 - 121 µmol/ll), không có THA,
không có protein niệu và nồng độ
tacrolimus trong máu trước mang thai ổn
định (dao động từ 5,1 - 7,7 ng/ml). Đây là
những yếu tố tiên lượng giúp mang thai
thành công. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
các yếu tố này bao gồm huyết áp ổn định,
creatinin máu ≤ 1,4 mg/dl (123 µmol/l) và
protein niệu < 500 mg/24 giờ trước mang
thai. Bên cạnh đó, thời gian lọc máu
trước ghép hoặc tiền sử của người hiến
thận sống không phải là yếu tố tiên lượng
cho mang thai thành công [2, 7].


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
1/5 BN của chúng tôi ghép không cùng
huyết thống, tuy nhiên cũng hòa hợp
HLA 3/6. Cả 4/5 BN đều không có tình
trạng thiếu máu trước khi mang thai, chỉ
1 BN có tình trạng thiếu máu trước mang
thai (Hgb 88 g/l), BN này được phát hiện
mắc α-thalassemia sau ghép, nhận thận
từ người em gái sinh đôi, cũng mắc

α-thalassemia thể nhẹ trước đó (bảng 1).
Các BN đều dùng phác đồ thuốc chống
thải ghép medrol + orograf + MMF trước
khi mang thai, có thời gian chuyển đổi
thuốc chống thải ghép trước khi mang
thai khoảng 1 tháng.
2. Các nguy cơ về phía ngƣời mẹ
khi mang thai.
Hiện nay, các thông tin về khả năng
gây độc tính và gây quái thai của thuốc
ức chế miễn dịch còn hạn chế. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, 3/5 BN chuyển
sang dùng phác đồ thuốc chống thải ghép
medrol + prograf + imurel, 2/5 BN chỉ
dùng prograf + imurel (bảng 2). Các nghiên
cứu đều khuyến cáo thuốc ức chế miễn
dịch duy trì ở phụ nữ có thai là nhóm ức
chế calcineurin (tacrolimus/cyclosporine),
azathioprine và liều thấp của prednisolone
vì phác đồ này tương đối an toàn [12]. 4/5
BN của chúng tôi có thời gian chuyển
sang dùng imurel thay cho cellcept 1
tháng trước khi mang thai, chỉ có 1 BN
thay đổi thuốc 5 ngày thì phát hiện đã
mang thai. Việc sử dụng MMF làm tăng
nguy cơ sảy thai và liên quan với bất
thường trong cấu trúc của thai nhi bao
gồm bất thường ở tay chân và mặt như
thiểu sản móng, ngón thứ 5 ngắn, khe hở
môi và vòm miệng, thoát vị hoành bẩm

sinh, bệnh tim bẩm sinh. Vì vậy, chống
chỉ định sử dụng MMF ở phụ nữ có thai

và được khuyên ngừng ít nhất 6 tuần
trước khi thụ thai [2, 3, 4, 8]. Khi có ý định
mang thai, BN được tư vấn chuyển đổi
thuốc MMF sang azathioprin và duy trì
suốt quá trình mang thai. Sau sinh, các
BN được chuyển sang sử dụng lại MMF,
thường từ ngay trong tuần đầu sau sinh.
Steroid có lẽ liên quan đến tăng tần
suất vỡ ối sớm ở người nhận thận, thuốc
có thể làm trầm trọng thêm tình trạng tăng
huyết áp ở người mẹ. Liều prednisone
> 20 mg/ngày cũng liên quan đến nhiễm
trùng nghiêm trọng ở người mẹ [8]. Các
thuốc ức chế calcineurin bao gồm
tacrolimus và cyclosporine tương đối an
toàn trong thời kỳ mang thai. Thuốc ức
chế calcineurin qua được nhau thai và đi
vào vòng tuần hoàn của thai nhi; nồng độ
trong máu phát hiện ở thai nhi bằng một
nửa so với mẹ [9]. Tỷ lệ bất thường bẩm
sinh ở thai nhi ở những phụ nữ dùng
thuốc ức chế calcineurin xấp xỉ 4 - 5% so
với tỷ lệ được báo cáo trong dân số
chung là 3 - 4%. Tuy nhiên ở trẻ sơ sinh,
cyclosporine có thể làm cho tế bào T
không trưởng thành và giảm số lượng
tế bào B, dẫn đến phát triển các bệnh tự

miễn.
Trong số 5 BN nghiên cứu, 3 BN xuất
hiện tình trạng nhiễm khuẩn tiết niệu
(bạch cầu niệu thấp từ 125 - 500 tế
bào/µl), không có BN nào bị nhiễm khuẩn
tiết niệu cao (bảng 2). Nhiễm trùng tiết
niệu là loại nhiễm trùng do vi khuẩn phổ
biến nhất và lên tới 40% ở người ghép
tạng mang thai do sử dụng thuốc ức chế
miễn dịch, trào ngược, ứ nước thận, giãn
đài bể thận và niệu quản [2]. Nghiên cứu
của Siham El Houssni cũng cho thấy tỷ lệ
nhiễm trùng đường tiết niệu xảy ra ở 33%
101


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
phụ nữ mang thai [11]. Do đó, nên sàng
lọc nhiễm khuẩn tiết niệu ở mỗi lần thăm
khám và cấy nước tiểu nếu cần thiết.

4. Biến thiên nồng độ creatinin máu,
Hgb máu và tacrolimus trong quá trình
mang thai và sau sinh.

Trong quá trình mang thai, cả 5 BN
đều không xuất hiện tình trạng THA, tiền
sản giật và đái tháo đường thai kỳ. Các
nghiên cứu khác cũng cho thấy việc
mang thai ở BN ghép thận gây biến

chứng THA ở người mẹ (60 - 80%), từ đó
làm tăng nguy cơ của tiền sản giật (20 30%), đẻ non, thai chậm phát triển trong
tử cung và tăng nguy cơ mất tạng ghép,
các biến chứng này (tiền sản giật, đái
tháo đường thai kỳ, sinh non) giảm xuống
< 50% nếu BN mang thai sau 2 năm ghép
thận [9, 10, 11].

Tỷ lệ thải ghép ở phụ nữ mang thai
cũng không khác biệt so với người nhận
thận không mang thai sau 10 năm theo
dõi (19% so với 21%) [2]. Các yếu tố
nguy cơ liên quan đến việc mất tạng ghép
bao gồm THA, creatinin máu trước mang
thai ≥ 1,4 mg/dl (123 µmol/l) và protein
niệu/24 giờ > 500 mg [1, 11]. Nồng độ
creatinin trong nghiên cứu dao động
(trung bình 84,83 ± 6,49 µmol/l) nhưng
vẫn tương đối ổn định qua từng tháng và
không BN nào xuất hiện tình trạng suy
chức năng thận ghép trong quá trình
mang thai. Davison báo cáo độ thanh thải
creatinin 24 giờ tăng ở phụ nữ mang thai
khỏe mạnh so với người nhận thận ghép
ở tuần thứ 10 của thai kỳ (38% so với
34%). Nghiên cứu của Elham El Houssni
cũng cho thấy nồng độ creatinin máu
giảm đáng kể trong quý thứ hai của thai
kỳ [11]. Do số lượng BN của chúng tôi
còn ít nên không quan sát thấy thay đổi

này qua các tháng. Nồng độ hemoglobin có
xu hướng giảm dần, gây tình trạng thiếu
máu trong 9 tháng mang thai. Tuy nhiên,
chúng tôi không thấy khác biệt có ý nghĩa
thống kê về Hb trước, trong và sau sinh 3
tháng (bảng 6).

3. Các nguy cơ về phía thai nhi.
Trong số những BN theo dõi tại
Bệnh viện Bạch Mai, 4/5 BN đã mang thai
và sinh con thành công, 1 BN đang mang
thai ở tuần thứ 25. Cả 4/5 BN đều mổ đẻ.
Các nghiên cứu khác cũng cho thấy tỷ lệ
mổ đẻ chiếm > 50% ở BN sau ghép thận
[3]. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
2/4 trẻ sinh đủ tháng, 2/4 trẻ sinh thiếu
tháng. Các nghiên cứu báo cáo tỷ lệ sinh
con thành công ở người nhận thận từ
71 - 79%, tỷ lệ sinh non là 40 - 60% so
với 5 - 15% ở dân số chung. Trong đó,
nồng độ creatinin cao ≥ 1,7 mg/dl (150
µmol/l) và THA ở mẹ là yếu tố tiên lượng
nguy cơ sinh non [7]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, không có trẻ nào bị nhiễm
CMV bào thai (bảng 3). Nhiễm CMV bào
thai được chẩn đoán bằng cấy dịch ối.
Nhiễm CMV nguyên phát ở mẹ làm bệnh
lây truyền sang thai với tỷ lệ 40 - 50%, tuy
nhiên nhiễm trùng thứ phát ít có nguy cơ
ảnh hưởng đến thai (~ 2%) [12].

102

Nồng độ của thuốc ức chế calcineurin
thường giảm trung bình 23% trong quý
thứ nhất, 39% trong quý thứ hai và 29%
trong quý thứ ba. Do đó, cần theo dõi
thường xuyên nồng độ thuốc này trong
máu trong suốt thời kỳ mang thai với tần
suất 2 tuần/lần trong quý thứ nhất và thứ
hai, hàng tuần trong quý thứ ba. Nồng độ
thuốc này thường quay trở lại bình
thường trong 1 tuần sau sinh [12].


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
Chúng tôi nhận thấy trong thời gian mang
thai, nồng độ tarcrolimus trung bình 3,67
± 0,75 giảm thấp hơn so với trước khi
mang thai (từ 5,1 - 7,7 ng/ml), tuy nhiên
sau khi sinh nồng độ này lại tăng trở lại
về mức như lúc trước khi mang thai
(bảng 5).
KẾT LUẬN
Có thai và sinh đẻ có thể thành công ở
BN sau ghép thận nếu BN có kế hoạch từ
trước, được chuẩn bị và chăm sóc cẩn
thận. Cần thay đổi phác đồ sử dụng thuốc
chống thải ghép: ngừng cellcept trước khi
thụ thai ít nhất 6 tuần và chuyển sang
dùng azathioprine kéo dài suốt thời kỳ

mang thai. Nồng độ thuốc tarcrolimus
trong thời gian mang thai cần điều chỉnh
phù hợp, tránh nguy cơ thải ghép.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Angela Townsend. Pregnancy after kidney
transplant has risks but can successed.
Healthy Cleveland. 2011.
2. Silvi Shah. Overview of pregnancy in
renal transplant patients. International Journal
of Nephrology. 2016.
3. Chittka, Dominik M.D. Pregnacy after
renal transplantation. Transplantation. 2017,
Vol 101, Issue 4, pp.675-678.
4 .Deshpande N.A, James N.T, Kucrika
L.M et al. Pregnancy outcomes in kidney
transplant recipients: A systematic review and
meta-analysis. Am J Transplant 2011, 11,
pp.2388-404.

5. Mahboob Lessan-Pezeshki. Pregnancy
after renal transplantation: Points to consider.
Nephrol Dial Transplant. 2002, 17, pp.703-707.
6. Kasiske B.L, Zeier M.G, Craig J.C et al.
KDIGO clinical practice guideline for the care
of kidney transplant recipients. Sexual and
fertility: Female fertility. Am J Transplant.
2009, 9, Suppl 3: S 106-109.
7. K.Bramham, C.Nelson-Piercy, H.Gao et
al. Pregnancy in renal transplant recipients: A
UK national cohort study. Clinical Journal of

the American Society of Nephrology. 2013,
Vol 8, No 2, pp.290-298.
8. Richman K, Gohh R. Pregnancy after
renal transplantation: A review of registry and
single-center practices and outcomes. Nephrol
Dial Transplant. 2012, 27, pp.3428-3434.
9. R.Venkataramanan, B.Koneru, C.P.Wang,
G.J.Burckart, S.N.Carits T.E. Starzl.
Cyclosporine and its metabolites in mother
and baby. Transplantation. 1988, Vol 46, No 3,
pp.468-469.
10. R.H. Finnell. Teratology: general
considerations and principles. Journal of
Allergy and Clinical Immunology. 1999, Vol 103,
No2, pp.S337-S342.
11. Siham El Houssni. Pregnancy after
renal transplantation: Effects on mother, child
and renal graft function. Saudi J Kidney Dis
Transpl. 2016, 27 (2), pp.227-232.
12. Tissier I, Dreyfus M, Woehl-Jaegle
M.L, el Khadime A, Ndocko M.A, Ritter J.
Pregnancy after renal transplantation.
Obstetrical follow up and long-term outcome
of the renal graft. J Gynecol Obstet Biol
Reprod (Paris). 1999, 28, pp.550-555.

103




×