Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

3 hiệu quả bảo quản tế bào gốc tủy răng của dung dịch chuyên chở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.53 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

3 HIỆU QUẢ BẢO QUẢN TẾ BÀO GỐC TỦY RĂNG CỦA DUNG DỊCH 
CHUYÊN CHỞ 
Lê Hoàng Sơn*, Ngô Thị Quỳnh Lan*, Trần Lê Bảo Hà** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả bảo quản tế bào gốc (TBG) tủy răng bằng dung dịch chuyên 
chở mới, không đắt tiền, pha chế dễ dàng với các thành phần phổ biến ở Việt Nam. 
Vật  liệu  và  phương  pháp  nghiên  cứu:  Dung  dịch  chuyên  chở  được  pha  bằng  cách  hòa  tan  3  ống 
gentamycin 80mg/2ml trong 500ml dung dịch nước muối sinh lý. Nghiên cứu thử nghiệm được thực hiện trên 
43 răng khôn nguyên vẹn thu thập từ các bệnh nhân 18 – 35 tuổi đến nhổ răng tại Khoa Răng Hàm Mặt. Răng 
được loại bỏ mô mềm, tạo rãnh sâu 2mm trên thân – chân răng và bảo quản bằng dung dịch chuyên chở trong 6 
giờ, 9 giờ, 12 giờ ở điều kiện 4°C. Đánh giá mô tủy nhiễm trùng khi môi trường nuôi cấy vẩn đục sau 3 – 5 ngày 
nuôi cấy và mẫu mô tủy xem như đã chết khi không có tế bào phát triển sau 2 tuần nuôi cấy. 
Kết quả: Trong 43 răng khôn, số lượng răng được bảo quản trong 6 giờ, 9 giờ và 12 giờ lần lượt là 14 răng, 
16 răng và 13 răng. Có 1 mẫu trong nhóm 12 giờ bị nhiễm khuẩn sau 5 ngày nuôi cấy. Tỉ lệ mẫu không nhiễm 
đạt 100% ở nhóm 6 giờ và 9 giờ; 92,3% ở nhóm 12 giờ. Tỉ lệ mẫu nuôi cấy cho tế bào bám dính là 92,9% đối với 
nhóm 6 giờ; 75,0% đối với nhóm 9 giờ và 53,8% đối với nhóm 12 giờ. Kết quả flow‐cytometry cho thấy quần thể 
tế bào P4 được phân lập dương tính cao (>99,5%) với các marker của TBG trung mô và biểu hiện khá thấp (7,5% 
‐ 10,6%) với các marker tế bào tạo máu. 
Kết luận: Dung dịch chuyên chở đề nghị có thành phần dễ tìm, pha chế đơn giản và không đắt tiền nhưng 
vẫn có hiệu quả cao trong việc bảo quản sự sống của TBG tủy răng. Các mẫu tủy răng vẫn có thể cho TBG trung 
mô sau 12 giờ bảo quản và hiệu quả bảo quản tương đương với các dung dịch thương mại trong 6 giờ. 
Từ khóa: tế bào gốc tủy răng, dung dịch chuyên chở, flow cytometry, tế bào gốc trung mô, marker 

ABSTRACT 
THE EFFICIENCY OF A NOVEL TRANSPORT SOLUTION IN 
PRESERVING DENTAL PULP STEM CELLS 


Le Hoang Son, Ngo Thi Quynh Lan, Tran Le Bao Ha 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 282 ‐287 
Objectives:  The  purpose  of  this  study  is  that  testing  the  efficiency  of  a  suggested  transport  solution  in 
preserving dental pulp stem cells (DPSCs) in 6, 9, and 12 hours after the teeth were extracted. 
Materials  and  Methods:  A  new  transport  solution  was  fomulated  by  mixing  three  jars  of  gentamycin 
80mg/2mL (in liquid form) with 500ml sterile saline. The solution was poured into several small vials. Forty‐
three extracted intact human third molars were obtained from Oral Surgical Center at the Faculty of Odonto – 
Stomatology. The teeth were divided into three groups: group A (n=14) – stored in 6h, group B (n=16) – stored in 
9h  and  group  C  (n=13)  –  stored  in  12h.  Teeth  were  externally  sterilized  and  DPSCs  were  isolated  using  the 
protocol adapted from Stem Cell laboratory at the University of Sciences. 
Results: The percentage of uncontaminated samples was 100% for group A and B, 92.3% for group C. The 
*

Khoa RHM – Đại học Y Dược TP. HCM
Khoa Sinh Học – Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên – ĐHQG TP. HCM
Thông tin liên hệ: Lê Hoàng Sơn
ĐT: 0933688804

**

282

Email:  

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học


success  rate  for  DPSCs  isolation  was  92.9%  for  group  A,  75.0%  for  group  B  and  53.8%  for  group  C.  Three 
selected passage 4 DPSCs cultures showed high expression of bone – marrow mesenchymal stem – cell (MSC) 
markers (>99.5%) and low expression of specific hematopoietic cells markers (7.5% ‐ 10.6%). 
Conclusion: Suggested solution is not expensive, easy to solube with available ingredients, and effective in 
preserving DPSCs. The pulp of extracted wisdom teeth still has viable MSCs after 12 hours preservation, and the 
effect of transpotation solution is same with commercial ones in 6 hours. 
Keywords: dental pulp stem cells, transport solution, flow cytometry, mesenchymal stem cells, marker 
pha  chế,  không  đắt  tiền  và  có  hiệu  quả  trong 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
việc  bảo  quản  sự  sống  của  TBG  tủy  răng,  tạo 
Tế bào gốc (TBG) là các tế bào có khả năng 
tiền  đề  để  thành  lập  một  ngân  hàng  TBG  tủy 
biệt hóa thành nhiều dòng tế bào trưởng thành. 
răng tại Việt Nam, chúng tôi đề nghị một dung 
TBG được tìm thấy ở nhiều mô khác nhau như 
dịch  chuyên  chở  mới  có  thành  phần  chính  là 
não,  tủy  xương,  máu,  mạch  máu,  da,  gan,  mỡ, 
nước muối sinh lý và gentamycin. Nghiên cứu 
răng,… So với các loại TBG khác, TBG tủy răng 
này được thực hiện với vấn đề quan  tâm  sau: 
có những ưu điểm như dễ thu nhận, không gặp 
Hiệu  quả  bảo  quản  tế  bào  gốc  tủy  răng  của 
những trở ngại về pháp lý và nhân quyền, tỉ lệ 
dung dịch chuyên chở. 
tăng sinh cao, có khả năng biệt hóa thành nhiều 
VẬT LIỆU – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
dạng  tế  bào  khác  nhau  khi  nuôi  cấy  trong  môi 
trường  thích  hợp  và  ít  gây  đáp  ứng  miễn  dịch 
Mẫu nghiên cứu 

khi cấy ghép. Kể từ khi được phân lập và nuôi 
43 răng khôn vừa mới nhổ tại bộ môn Phẫu 
cấy thành công vào năm 2000, nhiều báo cáo về 
Thuật  Miệng,  Khoa  Răng  Hàm  Mặt,  Đại  học  Y 
tiềm  năng  biệt  hóa  của  TBG  tủy  răng  được  các 
Dược TP. HCM. 
nhà  khoa  học  trên  khắp  thế  giới  công  bố.  Song 
Thiết kế nghiên cứu 
song  đó,  bước  đầu,  TBG  tủy  răng  đang  được 
Nghiên  cứu  trong  phòng  thí  nghiệm  (in 
ứng  dụng  trong  việc  điều  trị  một  vài  bệnh  liên 
vitro),  răng  được  bảo  quản  trong  dung  dịch 
quan  đến  thần  kinh,  gan,  tim  trên  động  vật  và 
chuyên 
chở  ở  điều  kiện  4°C  trong  các  khoảng 
cho  kết  quả  khả  quan.  Từ  những  phát  hiện  về 
thời gian: 
khả  năng  biệt  hóa  và  tiềm  năng  sử  dụng  như 
một nguồn vật liệu trong y học tái tạo, các nhà 
(1) Trong 6 giờ. 
khoa học đã nghĩ đến việc bảo quản lạnh chúng. 
(2) Trong 9 giờ. 
Hiện nay, trên thế giới có nhiều ngân hàng TBG 
(3) Trong 12 giờ. 
răng thương  mại  đang  hoạt  động  như  Store‐A‐
Quy trình thực hiện 
Tooth  (Lexington,  MA,  Hoa  Kì),  NDPL 
Chuẩn bị dung dịch chuyên chở 
(Newton,  MA,  Hoa  Kì),  StemSave  (New  York, 
Hoa  Kì),  Three  Bracket  (Hiroshima,  Nhật 

Dung  dịch  chuyên  chở  được  pha  chế  bằng 
Bản),…  Trong  quy  trình  bảo  quản,  dung  dịch 
cách hòa tan 3 ống gentamycin 80mg/2ml trong 
chuyên chở đóng vai trò rất quan trọng. Nó đảm 
500ml  dung  dịch  nước  muối  sinh  lý.  Lắc  đều 
bảo cho răng không bị nhiễm các vi sinh vật như 
chai dung dịch trong 2 phút để tạo môi trường 
vi khuẩn, vi nấm và duy trì sự sống của TBG tủy 
đồng nhất. Sau đó, chiết ra mỗi ống falcon (dung 
răng.  Có  nhiều  dung  dịch  được  sử  dụng  như 
tích 15ml) 5ml dung dịch chuyên chở. 
DMEM, α – MEM, HBSS, PBS,… Tuy nhiên, các 
dung dịch này có giá thành cao, khó pha chế và 
Thu thập mẫu răng 
không phổ biến tại thị trường Việt Nam. 
Các răng khôn còn nguyên vẹn sau khi nhổ 
Nhằm  mục  đích  tạo  một  môi  trường 
được làm sạch phần mô nha chu, bao răng còn 
chuyên  chở  có  các  thành  phần  phổ  biến,  dễ 

Răng Hàm Mặt 

283


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

dính xung quanh. Sau đó, dùng tay khoan siêu 

tốc và mũi khoan tròn có đường kính 2mm tạo 
một  rãnh  trên  thân  –  chân  răng.  Đưa  răng  vào 
ống  falcon  có  dung  dịch  chuyên  chở  và  bảo 
quản trong đá lạnh ở điều kiện 4°C. 

Thu nhận mô tủy răng 
Quy trình được thực hiện trong tủ nuôi cấy 
sinh  học,  tại  Phòng  thí  nghiệm  nghiên  cứu  và 
ứng dụng Tế Bào Gốc, Khoa Sinh Học,  Trường 
Đại học Khoa Học Tự Nhiên. 
Răng  được  khử  trùng  bằng  cách:  sát  trùng 
với Povidine Iod  10%  (Betadine)  trong  10  phút, 
sau đó rửa lại 2 lần bằng dung dịch PBS. Sau đó 
dùng kéo lớn tách đôi răng để thu nhận mô tủy. 

Nuôi cấy sơ cấp mô tủy răng 
Mô  tủy  được  nuôi  sơ  cấp  theo  phương 
pháp  nuôi  cấy  mảnh  mô  của  Trần  Lê  Bảo  Hà 
và cs. (2011). 
Mẫu  tủy  răng  được  cắt  thành  nhiều  mảnh 
nhỏ.  Sau  đó,  đặt  phần  mô  tủy  răng  vào  đĩa  35 
mm  và  ép  vào  bề  mặt  đĩa  bằng  lamelle.  Thêm 
môi trường DMEM/F12 có bổ sung penicillin và 
streptomycin vào đĩa nuôi. Môi trường trong đĩa 
nuôi cấy được thay sau mỗi 2 ngày và ủ ở điều 
kiện 37°C, 5% CO2. 

Nuôi cấy thứ cấp 
Khi tế bào đã phủ đầy bề mặt đĩa nuôi, tiến 
hành cấy chuyền thứ cấp. 

Rửa sạch đĩa nuôi bằng PBS, tiếp đến, dùng 
trypsin/EDTA 0,25% để tách tế bào khỏi bề mặt 
đĩa. Khi tế bào đã bong ra hoàn toàn, thêm môi 
trường  DMEM/F12  vào  dung  dịch  rồi  huyền 
phù.  Sau  đó,  cho  toàn  bộ  dung  dịch  thu  được 
vào  bình  nuôi  cấy.  Quá  trình  ủ  và  thay  môi 
trường được thực hiện tương tự như trong nuôi 
cấy sơ cấp. 
Khi  tế  bào  phát  triển  phủ  đầy  bề  mặt  chai 
nuôi, tiếp tục cấy chuyền để tạo các dòng tế bào 
thứ cấp tiếp theo. 

Nhận  diện  marker  TBG  tủy  răng  người  bằng 
phương pháp flow‐cytometry 
Các  tế  bào  ở  lần  cấy  chuyền  thứ  4  được 

284

nhuộm với 10μl kháng thể có các marker CD34, 
CD73,  CD90,  CD13,  CD14  và  HLA‐DR.  Tiến 
hành đánh giá marker bằng máy FACS Calibur 
sử dụng phần mềm Cell Quest Pro. 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Dung dịch chuyên chở sử dụng 
Nước muối sinh lý là một dung dịch đẳng 
trương với tế bào và mô cơ thể người, tạo môi 
trường  thuận  lợi  cho  sự  trao  đổi  ion  và  lưu 
thông  dịch  nội  –  ngoại  bào.  Vì  tính  thông 
dụng,  không  mắc  tiền,  khả  năng  duy  trì  tình 

trạng  ổn  định  của  tế  bào  của  dung  dịch  phù 
hợp  với  yêu  cầu  đề  tài  hướng  đến  nên  chúng 
tôi  chọn  nước  muối  sinh  lý  là  thành  phần 
chính của dung dịch chuyên chở. 
Gentamycin  là  kháng  sinh  nhóm 
Aminoglycosides,  có  tác  dụng  kiềm  khuẩn  phổ 
rộng. Để phát huy tối đa sự tiện lợi và đơn giản 
khi  pha  chế  dung  dịch,  chúng  tôi  sử  dụng 
gentamycin  dạng  dung  dịch  (gentamycin 
solfato,  80mg/2ml).  Nồng  độ  gentamycin  được 
khuyến cáo sử dụng trong nuôi cấy tế bào động 
vật có vú là 50 μg/ml, nồng độ gây độc tế bào là 
3000 μg/ml. Trong nghiên cứu trước đây, tác giả 
Zhang  W  và  cs.  (2006)  sử  dụng  kháng  sinh 
gentamycin  với  nồng  độ  500  μg/ml.  Vì  vậy, 
chúng  tôi  sử  dụng  gentamycin  ở  nồng  độ  480 
μg/ml (tương ứng pha 3 chai gentamycin trong 
500ml dung dịch nước muối sinh lý). 

Kết  quả  thu  nhận  và  khử  nhiễm  mô  tủy 
răng người 
Bảng 1: Kết quả xử lý mẫu ở các nhóm 
Thời gian
bảo quản

Số mẫu

Số mẫu
nhiễm


% số mẫu
nhiễm

6 giờ

14

0

0%

9 giờ

16

0

0%

12 giờ

13

1

7,7%

Chung

43


1

2,3%

Không có mẫu mô tủy bị nhiễm khuẩn sau 
khi  được  bảo  quản  trong  dung  dịch  chuyên 
chở  6  giờ  và  9  giờ.  Đối  với  nhóm  răng  được 
bảo quản trong 12 giờ, có một mẫu mô tủy bị 
nhiễm  (tỉ  lệ  7,7%),  ghi  nhận  ở  ngày  thứ  3  sau 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
khi  nuôi  cấy.  Mẫu  bị  nhiễm  khuẩn  được  thu 
ngày 11/03/2013, răng khôn hàm dưới bên trái, 
bệnh nhân 24 tuổi, giới tính nữ. Xét chung tất 
cả các răng được thu thập trong nghiên cứu, tỉ 
lệ  mẫu  bị  nhiễm  khuẩn  là  2,3%  (n=43).  Vì 
không  ghi  nhận  được  đặc  điểm  bất  thường  ở 
mẫu nhiễm và sự khác biệt tỉ lệ mẫu nhiễm ở 
ba nhóm không có ý nghĩa thống kê nên chúng 
tôi nghĩ nguyên nhân là do thao tác của người 
thực  hiện  hoặc  dụng  cụ  làm  việc  đã  bị  nhiễm 
khuẩn. 
Theo Perry PC và cs. (2008) khi dùng PBS để 
bảo quản răng, trong 40 răng bảo quản, có 7 mẫu 
bị nhiễm sau 5 ngày nuôi cấy, chiếm tỉ lệ 17,5%. 
Tuy  tác  giả  có  đề  cập  răng  việc  sử  dụng  môi 

trường HTS, PBS và MesenCult có thể bảo quản 
răng  đến  120  giờ  ở  4°C  sau  khi  nhổ  nhưng  tác 
giả không đề cập đến tỉ lệ răng bị nhiễm là bao 
nhiêu. Vậy, môi trường chuyên chở do chúng tôi 
đề nghị có hiệu quả trong việc bảo quản mô tủy 
răng không bị nhiễm khuẩn. 

Kết quả nuôi cấy tế bào tủy răng 
Bảng 2: Kết quả nuôi cấy mảnh mô ở các nhóm 
Thời gian
bảo quản
6 giờ
9 giờ
12 giờ
Chung

Số Số mẫu có tế % số mẫu có tế
mẫu bào bám dính bào bám dính
14
16
13
43

13
12
7
32

92,9%
75,0%

53,8%
74,4%

p*

0,027

Theo Bảng 2, tỉ lệ mẫu nuôi cấy thành công 
giảm  dần  qua  3  nhóm  thời  gian.  Sự  giảm  tỉ  lệ 
mẫu  nuôi  cấy  thành  công  phù  hợp  vì  môi 
trường chuyên chở đề nghị không có chất dinh 
dưỡng  nên  sức  sống  của  tế  bào  sẽ  giảm  đi  khi 
thời gian kéo dài. 
Theo  Perry  BS  và  cs.  (2008),  số  lượng  TBG 
tủy  răng  nuôi  cấy  được  sau  14  ngày  giảm  có  ý 
nghĩa thống kê qua thời gian bảo quản (0 giờ, 24 
giờ, 48 giờ và 72 giờ). Tuy nhiên, theo tác giả sự 
giảm sút này không có ý nghĩa nhiều vì qua thời 
gian  nuôi  cấy,  lượng  TBG  tủy  răng  sẽ  tăng  lên 
nhanh  chóng.  Đồng  thời,  khi  tác  giả  nuôi  cấy 
mẫu ngay sau khi nhổ răng (dùng PBS làm dung 
dịch chuyên chở), chỉ có 31/40 (77,5%) mẫu có tế 

Răng Hàm Mặt 

Nghiên cứu Y học

bào bám dính sau 14 ngày nuôi cấy. Tuy nhiên, 
có  khác  biệt  là  tác  giả  sử  dụng  phương  pháp 
nuôi cấy tế bào đơn. 

Bảng 3: Kết quả nuôi cấy mảnh mô ở nhóm bảo quản 
6, 9, 12 giờ theo vị trí răng 
Thời
gian
bảo
quản
6 giờ
9 giờ
12 giờ
Chung

Hàm trên
Không
Có tế
có tế
bào
bào
5 (100%)
4
(66,7%)
3
(60,0%)
12
(75,0%)

0 (0%)
2 (33,3%)
2 (40,0%)
4 (25,0%)


Hàm dưới
Không
Có tế
có tế
bào
bào
8
1 (11,1%)
(88,9%)
8
2 (20,0%)
(80,0%)
4
4 (50,0%)
(50,0%)
20
7 (25,9%)
(74,1%)

Theo  vị  trí  răng,  tỉ  lệ  mẫu  răng  cho  tế  bào 
bám  dính  ở  2  nhóm  hàm  trên  và  hàm  dưới 
tương  đương  nhau  (75,0%  và  74,1%).  Kết  quả 
này phù hợp vì các răng khôn hàm trên và hàm 
dưới có mầm răng hình thành và khoáng hóa ở 
thời điểm gần như cùng lúc với nhau và đều là 
răng  kế  tiếp.  Mặc  dù  các  răng  khôn  hàm  dưới 
chịu nhiều sang chấn hơn trong khi nhổ, nhưng 
rõ  ràng  tiềm  năng  cho  TBG  tủy  răng  khi  nuôi 
cấy của răng khôn hàm dưới và răng khôn hàm 
trên  là  như  nhau.  Như  vậy,  khi  tiểu  phẫu  nhổ 

răng  khôn,  nếu  không  cắt  răng  sẽ  không  ảnh 
hưởng xấu đến sức sống của các tế bào trong tủy 
răng. 
Từ  quá  trình  quan  sát  các  mẫu  nuôi  cấy, 
chúng tôi nhận thấy xuất hiện tế bào bám dính 
trên đĩa nuôi sau 3 – 15 ngày nuôi cấy tùy theo 
mẫu.  Sau  khi  nuôi  sơ  cấp  15  –  20  ngày  có  hiện 
tượng các tế bào hợp dòng và sau 4 – 5 tuần nuôi 
sơ cấp thì các tế bào bám đầy đĩa và có thể cho 
cấy chuyền để nuôi thứ cấp. 
Theo Huang và cs. (2006), Trần Lê Bảo Hà 
và cs. (2011), Hilkens P, Gervois P và cs. (2013) 
nuôi  cấy  mảnh  mô  cho  ra  các  tế  bào  có  hình 
dạng  giống  nguyên  bào  sợi,  nhưng  có  kích 
thước  khác  nhau  và  hình  dạng  ít  có  sai  biệt. 
Đồng thời, tác giả cũng ghi nhận sau 2 – 3 tuần 
thì  tế  bào  mới  bám  đầy  đĩa  nuôi  và  cho  phép 
cấy chuyền để nuôi cấy  sơ  cấp.  So  với  Huang 

285


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

và cs. (2006), tế bào của chúng tôi có hình dạng 
tương  tự;  tuy  nhiên,  thời  gian  cần  để  cấy 
chuyền  chậm  hơn.  Tuy  nhiên,  trong  cả  3 
nghiên cứu trên, tác giả không bảo quản răng 

qua các khoảng thời gian như nghiên cứu của 
chúng tôi. Hơn nữa, dung dịch chuyên chở sử 
dụng  trong  nghiên  cứu  này  không  có  chất 
dinh  dưỡng  để  nuôi  tế  bào  nên  lượng  tế  bào 
còn sống trong tủy răng bị giảm đi. Tuy nhiên, 
vì  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  hướng  đến  việc 
bảo quản TBG tủy răng nên không việc kéo dài 
thời  gian  nuôi  cấy  không  có  ảnh  hưởng  đến 
kết quả. 

Nhận  diện  marker  TBG  tủy  răng  người 
bằng phương pháp flow cytometry 
Flow cytometry là một kỹ thuật có độ nhạy 
cao dùng để xác định các marker bề mặt của tế 

bào. Kỹ thuật này sử dụng phương pháp nhuộm 
huỳnh quang gồm một kháng thể kháng marker 
bề mặt có gắn màu huỳnh quang. Sau đó, các tế 
bào  sẽ  được  di  chuyển  theo  dòng  chất  lỏng 
xuyên  qua  một  chùm  tia  sáng.  Khi  tế  bào  có 
nhuộm huỳnh quang bị va đập bởi ánh sáng tập 
trung  thì  chúng  phát  ra  những  tín  hiệu  khác 
nhau.  Tín  hiệu  này  được  cảm  nhận  bằng  máy 
dò,  chuyển  đến  máy  tính  xử  lí  và  cung  cấp 
thông tin. 
Năm 2007, theo tiêu chuẩn của Tổ chức Liệu 
Pháp Tế Bào Quốc Tế, TBG trung mô phải bám 
dính được vào bề mặt nuôi cấy, biểu hiện dương 
tính cao với các marker CD105, CD73, CD90 và 
không  biểu  hiện  (dương  tính  thấp)  với  các 

marker CD45, CD34, CD14 hoặc CD11b, CD79 a 
hoặc CD19, HLA‐DR. 

Bảng 3: Nhận diện marker TBG tủy răng người bằng phương pháp flow cytometry 
Tên mẫu
TR1 27-2
TR3 01-3
TR1 11-4

Các marker của TBG trung mô
CD13
CD73
CD90
99,46%
99,91%
99,58%
99,56%
99,91%
99,68%
99,60%
99,85%
99,69%

Qua các thế hệ cấy chuyền, dòng tế bào thu 
được  sẽ  thuần  chủng  hơn  nhờ  khả  năng  chọn 
lọc. Theo kết quả chạy flow cytometry thế hệ P4 
của ba mẫu, tất cả các marker đặc trưng cho TBG 
trung mô đều biểu hiện từ 99,5% trở lên. Đối với 
các marker đặc trưng cho các tế bào tạo máu, sự 
biểu hiện khá thấp, dao động từ 7,5% đến 10,6%. 

Đặc điểm của việc nuôi cấy mô là không có quá 
trình  chọn  lọc  tế  bào  ban  đầu  nên  vẫn  còn  lẫn 
với các tế bào tạo máu khác. Tuy nhiên, nếu cấy 
chuyền đến các thế hệ sau như P5, P6,… dòng tế 
bào  thuần  hơn,  tỉ  lệ  tế  bào  dương  tính  với  các 
marker tế bào tạo máu sẽ giảm. Như vậy, quần 
thể tế  bào  P4  thu  được  có  sự  hiện  diện  của  các 
TBG tủy răng. 

KẾT LUẬN 

Các marker của TBG máu
CD34
HLA-DR
8,80%
7,91%
7,92%
7,45%
8,18%
7,67%

80mg/2ml và 500ml dung dịch nước muối sinh 
lý. Từ các kết  quả  cho  thấy  DDCC  đề  nghị  có 
khả năng bảo quản TBG tủy răng tương đương 
với các dung dịch thường dùng trong 6 giờ. Ở 
khoảng thời gian 9 giờ và 12 giờ thì khả năng 
bảo quản thấp hơn. Như vậy, chúng tôi đã pha 
chế  được  DDCC  có  hiệu  quả  bảo  vệ  sự  sống 
của  TBG  tủy  răng  bằng  với  các  dung  dịch 
thường dùng trong 6 giờ ở điều kiện 4°C. 


TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

Nghiên  cứu  được  thực  hiện  trên  mẫu 
nghiên  cứu  là  43  răng  khôn  vừa  mới  nhổ  tại 
Khoa Răng Hàm Mặt. Các răng được bảo quản 
bằng  dung  dịch  nước  muối  sinh  lý  bổ  sung 
gentamycin  theo  tỉ  lệ  3  ống  gentamycin 

286

CD14
10,58%
9,76%
9,71%

4.

Gronthos  S,  Mankani  M,  Brahim  J,  Robey  PG,  and  Shi  S 
(2000),  “Postnatal  human  dental  pulp  stem  cells  (DPSCs)  in 
vitro and in vivo”, Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A., 97, pp. 13625 – 
13630. 
Hoàng  Tử  Hùng,  Huỳnh  Kim  Khang,  Ngô  Thị  Quỳnh  Lan, 
Hoàng Đạo Bảo Trâm (2010), Mô phôi răng miệng, NXB Y học, 
Hà Nội, tr. 111 – 168.  

Huang  GTJ,  Sonoyama  W,  Chen  J,  and  Park  SH  (2006),  “In 
vitro  characterization  of  human  dental  pulp  cells  various 
isolation  methods  and  culturing  environments”,  Cell  Tissue 
Res, 324, pp. 225 – 236. 
Perry  PC,  Zhou  D,  Wu  X,  Yang  FC,  Byers  MA,  Chu  TMG, 
Hockema  JJ,  Woods  EJ  and  Goebel  WS  (2008),  “Collection, 
Cryopreservation,  and  Characterization  of  Human  Dental 
Pulp  –  Derived  Mesenchymal  Stem  Cells  for  Banking  and 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

5.
6.

7.

Clinical Use”, Tissue Engineering, 14, pp. 149 – 156. 
Phan  Kim  Ngọc,  Phạm  Văn  Phúc  (2010),  Công nghệ sinh học 
trên người và động vật, NXB Giáo dục, TP. HCM, tr. 127 – 207. 
Trần  Lê  Bảo  Hà  và  cs.  (2011),  “Nghiên  cứu  nuôi  cấy  tế  bào 
gốc tủy răng và tạo khung nâng đỡ chứa tế bào gốc tủy răng 
người”, Đề tài khoa học công nghệ, Trường ĐH Khoa Học Tự 
Nhiên, ĐH Quốc Gia TP. HCM, tr. 12 – 29. 
Zhang W, Walboomers F, Shi S, Fan M, and Jansen JA (2006), 
“Multilineage Differentiation Potential of Stem Cells Derived 
 


Răng Hàm Mặt 

Nghiên cứu Y học

from  Human  Dental  Pulp  after  Cryopreservation”,  Tissue 
Engineering, 12, pp. 2813 – 2823. 

 
Ngày nhận bài báo: 21/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013 
Ngày đăng báo: 05/01/2014 

287



×