Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁN SỎI NỘI SOI NGƯỢC CHIỀU
TRÊN BỆNH NHÂN SUY THẬN CẤP DO SỎI NIỆU QUẢN
Võ Hữu Chí*, Trần Ngọc Sinh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả chẩn đoán, chỉ định và điều trị tán sỏi nội soi ngược chiều trên bệnh nhân suy
thận cấp do sỏi niệu quản.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca lâm sàng, những trường hợp chẩn đoán suy thận
cấp sau thận do sỏi niệu quản, lâm sàng có thiểu niệu và vô niệu, creatinin huyết thanh lúc nhập viện ≥ 1,5
mg/dL và mức độ tăng creatinin huyết thanh > 0,5 mg/dL. Tất cả bệnh nhân được điều trị tán sỏi nội soi ngược
chiều bằng Holmium YAG laser tại bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện Bình Dân từ tháng 1/ 2012 đến tháng
5/2013.
Kết quả: 27 bệnh nhân, tuổi trung bình 49,19 tuổi (28‐75), 11 nữ (40,7%), 16 nam (59,3%). Nguyên nhân
suy thận cấp do sỏi: sỏi niệu quản 2 bên 40,8%, sỏi niệu quản trên thận độc nhất là 37,0%, sỏi niệu quản trên sỏi
thận đối bên là 7,4%, sỏi niệu quản trên sỏi bể thận là 3,7%, sỏi niệu quản trên hẹp khúc nối bể thận niệu quản
đối bên là 3,7% và sỏi niệu quản trên thận teo là 7,4%. Có 27/27 bệnh nhân thận trướng nước trên siêu âm.
Điều trị tán sỏi nội soi gồm 27 bệnh nhân, thời gian tán sỏi trung bình 27,5 phút (15‐45) với kết quả tán sỏi tốt
22 (81,5%), trung bình 4 (14,8%) và kém 1 (3,7%). Một trường hợp không tiếp cận được sỏi do không tìm được
miệng niệu quản (3,7%) và 26 trường hợp (96,3%) tán sỏi thành công với nồng độ creatinin huyết thanh trở lại
giá trị bình thường, sau 7 ngày xuất viện 7 (26,9%), sau 1 tháng 20 (76,9%) và sau 3 tháng 25 (96,1%). Một
trường hợp sau 3 tháng chức năng thận chưa trở lại giá trị bình thường. Kết quả sau 3 tháng thành công 25
(92,6%) và thất bại 2 (7,4%).
Kết luận: Tán sỏi nội soi ngược chiều trên bên nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản là một phẫu thuật ít xâm
hại, hoàn toàn khả thi với tính an toàn và hiệu quả cao. Đôi khi cần phải lọc máu ngoài thận trước khi tiến hành
tán sỏi giãi quyết nguyên nhân bế tắc.
Từ khoá: tán sỏi nội soi, suy thận cấp, sỏi niệu quản
ABTRACT
EVALUATE THE RESULT OF RETROGRADE YRETEROSCOPIC LITHTRIPSY FOR TREANING
ACUTE RENAL FAILURE PATIENTS WITH URINARY TRACT CALCULI
Vo Huu Tri, Tran Ngoc Sinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 29 ‐ 38
Objective: To assess the diagnostic result, the indication and the treatment of retrograde ureteroscopic
lithotripsy for treating acute renal failure patients with urinary tract calculi.
Methods: The case series study. The patients diagnostic acute renal failure with urinary tract calculi,with
anuria and oliguria, creatininemia on admission ≥ 1.5 mg/dL, oncreased mean volume > 0.5 mg/dL. All of
patients underwent uretroscopic lithtripsy by Holmium YAG laser. From january 2012 to may 2013 at Chợ Rẫy
Hospital and Bình Dân Hospital.
Result: A total of 27 patients, mean 49.19 ys (28‐75), 11 female (40.7%), 16 male (59.3%). Causes of acute
renal failure: ureteral calculi bilateral 40.8%, ureteral stones with single kiney 37.0%, ureteral stones plus renal
stones on the other side: 7.4%, ureteral stones plus pyelostones were 3.7%, ureteral calculi plus stricture of pyelo‐
* Bệnh viện Hữu Nghị Đồng Tháp
Tác giả liên lạc. BS Võ Hữu Chí
Niệu Khoa
** Đại học Y Dược TPHCM
ĐT: 0918643253 Email:
29
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
uretr junction on the other side (3.7%) and ureteral plus small kidney (7.4%). 27/27 patients had hydronephrosic
on ultrasounde. 27 patients underwent ureteoscospic lithotripsy. Duration mean of lithtripsy was 27.5 minutes
(15‐45). Assessement of lithotripsy: Good 22 (81.5%), Averrage 4 (14.8%) and poor 1 (3.7%). Of 26 patients
were evaluated the restoration of renal function when creatininemia index returned nomal value after discharge 7
days 7 (26.9%), after 1 months 20 (92.6%) and failure of 2 (7.4%).
Conlusion: Retrograde ureteroscospic lithotripsy for the patients with acute renal failure by ureteral calculi
were a minimally invasive procedure, it is feasible, safe and high effective techniques. Sometimes, dialysis before
performing lithotripsy to resolve obstructive cause.
Keyword: endoscopic lithotripsy calculi, acute renal failure, stone ureteral
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi niệu quản thường gây bế tắc và thương
tổn sớm ở đường tiết niệu. Nếu bế tắc xãy ra
trên cả 2 thận kèm theo nhiễm trùng dễ gây
thiểu niệu, vô niệu, suy thận cấp và có thể dẫn
đến tử vong. Suy thận cấp do sỏi là một bệnh
lý cấp cứu ngoại khoa, nguyên nhân thường
gặp là do sỏi niệu quản 2 bên 24 %, sỏi niệu
quản trên thận độc nhất 11,1%, sỏi niệu quản
trên thận teo 20 %(22).
Nhiều tác giả nghiên cứu cho rằng sỏi niệu
quản hai bên, nhất là sỏi niệu quản trên thận độc
nhất cần phải được điều trị ngoại khoa sớm giải
quyết nguyên nhân bế tắc(16,23,24). Nếu điều trị kịp
thời chức năng thận có thể hồi phục hoàn toàn.
Nếu không được điều trị hoặc điều trị không
đúng sẽ dẫn đến suy thận mạn tính phải điều trị
thay thế thận. Điều trị suy thận cấp do sỏi, điều
quan trọng nhất là phải kết hơp điều trị nội và
ngoại khoa. Nếu cần thiết phải lọc máu ngoài
thận trước và sau phẫu thuật(21).
Trước đây, điều trị sỏi niệu quản chủ yếu là
mổ mở lấy sỏi. Ngày nay, bên cạnh các phương
pháp can thiệp ít xâm hại: Nội soi lấy sỏi, tán sỏi
ngoài cơ thể, tán sỏi niệu quản nội soi ngược
chiều. Trong đó, tán sỏi niệu quản nội soi ngược
chiều đã thể hiện là một kỹ thuật ưu việt nhất
đem lại hiệu quả tốt hơn và giảm tối đa tác hại
trên đường tiết niệu, là chỉ định hàng đầu cho
tất cả vị trí sỏi niệu quản(6).
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên
cứu tán sỏi niệu quản nội soi ngược chiều trên
bệnh nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản với tỷ
lệ thành công từ 93 % đến 100 %(1,7,9,14,15).
30
Trong tình hình Việt Nam hiện nay, liệu
chúng ta có thể áp dụng kỹ thuật tán sỏi nội soi
ngược chiều trên bệnh nhân suy thận cấp do sỏi
niệu quản có an toàn và hiệu quả không. Việc
chỉ định tán sỏi nội soi ngược chiều thực hiện
như thế nào khi bệnh nhân có tình trạng suy
thận cấp tiến triển nhanh, kể cả suy thận cấp
nặng và có nhiễm trùng niệu kèm theo. Mức độ
hồi phục chức năng thận như thế nào sau tán sỏi
nội soi.
Hiện nay trong nước chưa có nghiên cứu
đánh giá về kết quả phương pháp điều trị tán
sỏi nội soi ngược chiều trên bệnh nhân suy
thận cấp. Vì vậy, đây là lý do để chúng tôi
thực hiện đề tài:”Đánh giá kết quả tán sỏi nội
soi ngược chiều trên bệnh nhân suy thận cấp
do sỏi niệu quản”.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá kết quả chẩn đoán, chỉ định và
điều trị tán sỏi nội soi ngược chiều trên bệnh
nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 27 bệnh nhân nhập viện tại khoa tiết
niệu Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân,
được chẩn đoán suy thận cấp do sỏi niệu quản
và được điều trị bằng phương pháp tán sỏi niệu
quản nội soi ngược chiều.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Bệnh nhân được chẩn đoán là suy thận cấp
do sỏi NQ: Sỏi NQ 2 bên, sỏi NQ trên thận độc
nhất, sỏi NQ một bên và một bên nguyên nhân
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
bế tắc khác (sỏi thận, sỏi bể thận, thận teo...).
Kích thước sỏi ≤ 15mm.
Bệnh nhân suy thận nặng được lọc máu
ngoài thận ổn định (kali máu < 6,5 mmol/L và
creatinin huyết thanh < 8 mg/dL).
Tất cả bệnh nhân được giãi thích và đồng ý
tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
Bệnh nhân nhiễm trùng niệu cấp tính chưa
được điều trị kháng sinh.
Bệnh nhân đang điều trị bệnh rối loạn đông
máu hoặc đang sử dụng heparine, asprine,
Levnox, Sintron…
Bệnh nhân có dị tật hoặc u bướu đường tiết
niệu, nhất là dị tật tiết niệu không đặt được máy
nội soi niệu quản.
Bệnh nhân suy thận nặng có kali máu cao >
6,5 mmol/L hoặc creatinin huyết thanh > 8‐ 10
mg/dL, chưa được lọc máu ngoài thận.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu Y học
Ab Kader (2009), có 19/19 bệnh nhân (100%) vô
niệu(9). SiXiang Yang, CS (2008), có 45 (91,8%)(13).
Kết quả chúng tôi có 27 bệnh nhân, nhập viện vì
thiểu niệu là 59,3% (16 TH), vô niệu là 40,7% (11
TH) và đau hông lưng có tỷ lệ 100%. Kết quả
chúng tôi có triệu chứng lâm sàng phù hợp với
kết quả nghiên cứu các tác giả trên.
Chẩn đoán bế tắc đường tiết niệu
Độ trướng nước thận trên siêu âm:
‐ Độ 1: bên phải 7 (43,8%) và bên trái 8
(36,4%).
‐ Độ 2: 15 bên phải 8 (50,0%) và bên trái 12
(54,5%).
‐ Độ 3: 15 bên phải 1 (6,2%) và bên trái 2
(9,1%).
Giãn niệu quản trên sỏi:
‐ Không giãn: bên phải 6 (37,5%) và bên trái
6 (27,3%).
‐ Có giãn: bên phải 10 (62,5%) và bên trái 16
(72,2%).
Thực hiện tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh
viện Bình Dân.
Nồng độ Creatinine huyết thanh
‐ Creatinin huyết thanh lúc nhập viện: 2,97
mg/ dL (1,9‐4,7).
Thời gian từ tháng 01 năm 2012 đến tháng
05 năm 2013.
‐ Creatinin huyết thanh trước tán sỏi: 3,85
mg/ dL (2,6‐5,3).
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
‐ Mức độ tăng creatinnin huyết thanh trung
bình: 0,88 mg/ dL (0,6‐1,6).
Mô tả loạt ca lâm sàng.
‐ Tuổi trung bình: 49,19 tuổi (28‐75).
‐ Nữ 11 (40,7%) và Nam 16 (59,3%).
Chẩn đoán suy thận cấp sau thận do sỏi
Lâm sàng
‐ Đau lưng do bế tắc đường tiết niệu: 27/27
(100%), bên phải 10 (37,0%) và bên trái 11
(40,7%).
‐ Thiểu niệu và vô niệu: 27/27 (100%), thiểu
niệu 16 (59,3%) và vô niệu 11 (47,7%).
Theo Haowen Jiang, CS (2005), có 21 (77,8%)
đau lưng, 24 (88,9%) thiểu niệu và 3 (11,1%) vô
niệu và số ngày thiểu niệu là 2,5 ngày, vô niệu 1
ngày(7). TANG Zheng‐yan, CS (2006), có 5(38,5%)
thiểu niệu và 8 (61,5%) vô niệu(15). Mohammad S.
Niệu Khoa
Theo Haowen Jiang, CS (2005), có nồng độ
creatine máu trung bình 4,6 mg/dL (1,6‐7,7)(7).
Mohammad S. Ab Kader (2009), có nồng độ
creatine HT trung bình 3,5 mg/dL (2,0‐5,5)(9). Kết
quả chúng tôi nồng độ creatinine huyết thanh
trước tán sỏi trung bình 3,85 mg/dL (2,6‐5,3),
phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Mohammad S. Ab Kader (2009)(9). Chúng tôi
chẩn đoán suy thận cấp sau thận do sỏi, chủ yếu
dựa vào bệnh cảnh lâm sàng cấp cứu với tình
trạng thiểu niệu và vô niệu 100% (27 TH) và
creatinin huyết thanh lúc nhập viện nhỏ nhất là
1,9 mg/dL, mức tăng trung bình creatinin huyết
thanh lúc nhập viện và trước tán sỏi là 0,88
mg/dL (0,6‐1,6) và Kết quả của chúng tôi phù
31
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
hợp kết quả nghiên cứu tác giả Mohammad S.
Ab Kader (2009)(9).
Độ thanh lọc cầu thận
‐ Trước tán sỏi: 20,56 ml/ phút (13,5 – 29,7).
Chẩn đoán nguyên nhân suy thận cấp sau
thận do sỏi niệu quản
Tiền căn niệu khoa
Sỏi thận: 4 (14,8%), mổ sỏi thận 10 (37,0%).
Cắt thận 5 (18,5%) và thận độc nhất 10
(37,0%).
Chẩn đoán hình ảnh
Vị trí sỏi: bên phải 5 (18,6%), bên trái 11
(40,7%) và hai bên 11 (40,7%).
Kích thước sỏi: Bên phải: ngang: 7,25 mm (5‐
11), dọc: 10,06 mm (6‐15). Bên trái: ngang: 7,59
mm (5‐12), dọc: 10,09 mm (7‐15).
Nguyên nhân suy thận cấp
Sỏi niệu quản 2 bên 40,8% (11 TH), sỏi NQ
trên thận độc nhất 37,0% (10 TH), sỏi niệu quản
1 bên và 01 bên là: sỏi thận là 7,4 % (2 TH), sỏi bể
thận đối bên 3,7% (1 TH), hẹp khúc nối bể thận
niệu quản đối bên 3,7% (1 TH) và thận teo đối
bên là 7,4 % (2 TH). Theo TANG Zheng‐yan, CS
(2006), có 9 (69,2%) trường hợp sỏi NQ 2 bên, 2
(15,4 %) thận độc nhất, 1 (7,7%) thận teo đối bên
và 1 (7,7%) thận móng ngựa đối bên(15). SiXiang
Yang, CS (2008)(13), gặp sỏi NQ 2 bên 73,5 % và
sỏi NQ trên thận độc nhất là 20,4 %. Mohammad
S. Ab‐Kader (2009)(9), gặp sỏi NQ 2 bên 73,7 % và
sỏi NQ trên thận độc nhất là 26,3 %. Nguyên
nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản của chúng
tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác
giả trên.
Các rối loạn sinh hoá do suy thận cấp
Kali máu
‐ Lúc nhập viện: 4,14 mmol/L (3,0‐7,0).
‐ Trước tán sỏi: 3,79 mmol/L (2,5‐5,0).
Dự trữ kiềm trong máu
Thực hiện trên 24 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ
88,8%.
‐ Lúc nhập viện: 21,0 mEq/L (15,0‐26,0).
32
Triệu chứng nhiễm trùng niệu
‐ Bạch cầu máu lúc nhập viện: 10,58 G/L (6,3‐
15,5).
‐ Bạch cầu máu trước tán sỏi: 9,74 G/L (6,3‐
12,5).
‐ Bạch cầu niệu âm tính: 12/27 (44,4%).
‐ Bạch cầu niệu dương tính: 11/27 (40,8%).
‐ Cấy nước tiểu: 4/27 TH, dương tính 3 TH,
âm tính 1 TH.
Điều trị tán sỏi nội soi ngược chiều
Điều trị hỗ trợ nội khoa trước tán sỏi
Theo Haowen Jiang, CS (2005)(7), có chỉ số
kali máu tăng từ 5,6 – 6,3 mmol/L trong 12/27
bệnh nhân là 44,4 % và lọc máu ngoài thận cấp
cứu cho 3,7% (1/27) bệnh nhân có kali máu trước
tán sỏi là 6,3 mmol/L, sau lọc máu kali máu giảm
xuống 5,6 mmol/. SiXiang Yang, CS (2008)(13) có
kali máu tăng từ 5,6‐6,8 mmol/L gặp 12 bệnh
nhân (44,4%), tác giả chỉ định lọc máu ngoài
thận khi kali máu > 6,5 mmo/L. Chúng tôi lọc
máu ngoài thận cho 1 trường hợp trước tán sỏi
với kali 7,0 mmol/L, chiếm tỷ lệ 3,7 %, creatinine
lúc nhập viện là 3,4 mg/dL tăng lên 4,6 mg/dL
với kali máu 7,0 mg/dL. Sau lọc máu ngoài thận
creatinine huyết thanh trước tán sỏi là 4,1 mg/dL
và nồng độ kali máu là 4,1 mmol/L. Kết quả điều
trị hỗ trợ lọc máu ngoài thận trước tán sỏi nội soi
của chúng tôi, phù hợp với kết quả của các
nghiên cứu trên. Chúng tôi có 01 bệnh nhân toan
máu trước tán sỏi, chiếm tỷ lệ 3,7 %,
creatinine.HT lúc nhập viện 4,0 mg/dL, kali 4,9
mmol/L và dự trữ kiềm 15 mEq/ L. Bệnh nhân
không có biểu hiện rối loạn hô hấp, chúng tôi chỉ
điều trị nội khoa bằng truyền dịch Natri
bicarbonate 1,4 %.
Điều trị nhiễm trùng niệu
Về đánh giá nhiễm trùng niệu: 05 trường
hợp có triệu chứng sốt chiếm tỷ lệ 18,5 % và 01
trường hợp tiểu gắt lúc nhập viện 3,7%, tất cả
đều có bạch cầu niệu dương tính (1TH + và 5 TH
++) và bạch cầu máu < 11 G/L (1 TH), > 11 G/L (3
TH), > 15 G/L (2 TH). Trong đó cấy nước tiểu 4
trường hợp, có 03 trường hợp dương tính với vi
Chuyên Đề Ngoại Khoa