Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đánh giá kết quả tán sỏi nội soi ngược chiều trên bệnh nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.53 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁN SỎI NỘI SOI NGƯỢC CHIỀU  
TRÊN BỆNH NHÂN SUY THẬN CẤP DO SỎI NIỆU QUẢN 
Võ Hữu Chí*, Trần Ngọc Sinh** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả chẩn đoán, chỉ định và điều trị tán sỏi nội soi ngược chiều trên bệnh nhân suy 
thận cấp do sỏi niệu quản. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca lâm sàng, những trường hợp chẩn đoán suy thận 
cấp sau thận do sỏi niệu quản, lâm sàng có thiểu niệu và vô niệu, creatinin huyết thanh lúc nhập viện ≥ 1,5 
mg/dL và mức độ tăng creatinin huyết thanh > 0,5 mg/dL. Tất cả bệnh nhân được điều trị tán sỏi nội soi ngược 
chiều bằng Holmium YAG laser tại bệnh viện  Chợ  Rẫy  và  bệnh  viện  Bình  Dân  từ  tháng  1/  2012  đến  tháng 
5/2013.  
Kết quả: 27 bệnh nhân, tuổi trung bình 49,19 tuổi (28‐75), 11 nữ (40,7%), 16 nam (59,3%). Nguyên nhân 
suy thận cấp do sỏi: sỏi niệu quản 2 bên 40,8%, sỏi niệu quản trên thận độc nhất là 37,0%, sỏi niệu quản trên sỏi 
thận đối bên là 7,4%, sỏi niệu quản trên sỏi bể thận là 3,7%, sỏi niệu quản trên hẹp khúc nối bể thận niệu quản 
đối bên là 3,7% và sỏi niệu quản trên thận teo là 7,4%. Có 27/27 bệnh nhân thận trướng nước trên siêu âm. 
Điều trị tán sỏi nội soi gồm 27 bệnh nhân, thời gian tán sỏi trung bình 27,5 phút (15‐45) với kết quả tán sỏi tốt 
22 (81,5%), trung bình 4 (14,8%) và kém 1 (3,7%). Một trường hợp không tiếp cận được sỏi do không tìm được 
miệng niệu quản (3,7%) và 26 trường hợp (96,3%) tán sỏi thành công với nồng độ creatinin huyết thanh trở lại 
giá trị bình thường, sau 7 ngày xuất viện 7 (26,9%), sau 1 tháng 20 (76,9%) và sau 3 tháng 25 (96,1%). Một 
trường hợp sau 3 tháng chức năng thận chưa trở lại giá trị bình thường. Kết quả sau 3 tháng thành công 25 
(92,6%) và thất bại 2 (7,4%). 
Kết luận: Tán sỏi nội soi ngược chiều trên bên nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản là một phẫu thuật ít xâm 
hại, hoàn toàn khả thi với tính an toàn và hiệu quả cao. Đôi khi cần phải lọc máu ngoài thận trước khi tiến hành 
tán sỏi giãi quyết nguyên nhân bế tắc. 
Từ khoá: tán sỏi nội soi, suy thận cấp, sỏi niệu quản 


ABTRACT 
EVALUATE THE RESULT OF RETROGRADE YRETEROSCOPIC LITHTRIPSY FOR TREANING 
ACUTE RENAL FAILURE PATIENTS WITH URINARY TRACT CALCULI
Vo Huu Tri, Tran Ngoc Sinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 29 ‐ 38 
Objective:  To  assess  the  diagnostic  result,  the  indication  and  the  treatment  of  retrograde  ureteroscopic 
lithotripsy for treating acute renal failure patients with urinary tract calculi. 
 Methods: The case series study. The patients diagnostic acute renal failure with urinary tract calculi,with 
anuria  and  oliguria,  creatininemia  on  admission  ≥  1.5  mg/dL,  oncreased  mean  volume  >  0.5  mg/dL.  All  of 
patients underwent uretroscopic lithtripsy by Holmium YAG laser. From january 2012 to may 2013 at Chợ Rẫy 
Hospital and Bình Dân Hospital. 
Result: A total of 27 patients, mean 49.19 ys (28‐75), 11 female (40.7%), 16 male (59.3%). Causes of acute 
renal failure: ureteral calculi bilateral 40.8%, ureteral stones with single kiney 37.0%, ureteral stones plus renal 
stones on the other side: 7.4%, ureteral stones plus pyelostones were 3.7%, ureteral calculi plus stricture of pyelo‐
* Bệnh viện Hữu Nghị Đồng Tháp 
Tác giả liên lạc. BS Võ Hữu Chí 

Niệu Khoa 

** Đại học Y Dược TPHCM 
ĐT: 0918643253  Email:   

29


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

uretr junction on the other side (3.7%) and ureteral plus small kidney (7.4%). 27/27 patients had hydronephrosic 
on ultrasounde. 27 patients underwent ureteoscospic lithotripsy. Duration mean of lithtripsy was 27.5 minutes 

(15‐45). Assessement of lithotripsy: Good 22 (81.5%), Averrage 4 (14.8%) and poor 1 (3.7%). Of 26 patients 
were evaluated the restoration of renal function when creatininemia index returned nomal value after discharge 7 
days 7 (26.9%), after 1 months 20 (92.6%) and failure of 2 (7.4%). 
Conlusion: Retrograde ureteroscospic lithotripsy for the patients with acute renal failure by ureteral calculi 
were a minimally invasive procedure, it is feasible, safe and high effective techniques. Sometimes, dialysis before 
performing lithotripsy to resolve obstructive cause. 
Keyword: endoscopic lithotripsy calculi, acute renal failure, stone ureteral 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sỏi niệu quản thường gây bế tắc và thương 
tổn  sớm  ở  đường  tiết  niệu.  Nếu  bế  tắc  xãy  ra 
trên  cả  2  thận  kèm  theo  nhiễm  trùng  dễ  gây 
thiểu niệu, vô niệu, suy thận cấp và có thể dẫn 
đến tử vong. Suy thận cấp do sỏi là một bệnh 
lý  cấp  cứu  ngoại  khoa,  nguyên  nhân  thường 
gặp  là  do  sỏi  niệu  quản  2  bên  24  %,  sỏi  niệu 
quản  trên  thận  độc  nhất  11,1%,  sỏi  niệu  quản 
trên thận teo 20 %(22). 
Nhiều  tác  giả  nghiên  cứu  cho  rằng  sỏi  niệu 
quản hai bên, nhất là sỏi niệu quản trên thận độc 
nhất cần phải được điều trị ngoại khoa sớm giải 
quyết nguyên nhân bế tắc(16,23,24). Nếu điều trị kịp 
thời chức năng thận có thể hồi phục hoàn toàn. 
Nếu  không  được  điều  trị  hoặc  điều  trị  không 
đúng sẽ dẫn đến suy thận mạn tính phải điều trị 
thay thế thận. Điều trị suy thận cấp do sỏi, điều 
quan trọng nhất là phải kết hơp điều trị nội và 
ngoại  khoa.  Nếu  cần  thiết  phải  lọc  máu  ngoài 
thận trước và sau phẫu thuật(21).  
Trước đây, điều trị sỏi niệu quản chủ yếu là 

mổ mở lấy sỏi. Ngày nay, bên cạnh các phương 
pháp can thiệp ít xâm hại: Nội soi lấy sỏi, tán sỏi 
ngoài  cơ  thể,  tán  sỏi  niệu  quản  nội  soi  ngược 
chiều. Trong đó, tán sỏi niệu quản nội soi ngược 
chiều  đã  thể  hiện  là  một  kỹ  thuật  ưu  việt  nhất 
đem lại hiệu quả tốt hơn và giảm tối đa tác hại 
trên  đường  tiết  niệu,  là  chỉ  định  hàng  đầu  cho 
tất cả vị trí sỏi niệu quản(6). 
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên 
cứu  tán  sỏi  niệu  quản  nội  soi  ngược  chiều  trên 
bệnh nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản với tỷ 
lệ thành công từ 93 % đến 100 %(1,7,9,14,15).  

30

Trong  tình  hình  Việt  Nam  hiện  nay,  liệu 
chúng ta có thể áp dụng kỹ thuật tán sỏi nội soi 
ngược chiều trên bệnh nhân suy thận cấp do sỏi 
niệu  quản  có  an  toàn  và  hiệu  quả  không.  Việc 
chỉ  định  tán  sỏi  nội  soi  ngược  chiều  thực  hiện 
như  thế  nào  khi  bệnh  nhân  có  tình  trạng  suy 
thận  cấp  tiến  triển  nhanh,  kể  cả  suy  thận  cấp 
nặng và có nhiễm trùng niệu kèm theo. Mức độ 
hồi phục chức năng thận như thế nào sau tán sỏi 
nội soi. 
Hiện  nay  trong  nước  chưa  có  nghiên  cứu 
đánh giá về kết quả phương pháp điều trị tán 
sỏi  nội  soi  ngược  chiều  trên  bệnh  nhân  suy 
thận  cấp.  Vì  vậy,  đây  là  lý  do  để  chúng  tôi 
thực hiện đề tài:”Đánh giá kết quả tán sỏi nội 

soi ngược chiều trên bệnh nhân suy thận cấp 
do sỏi niệu quản”. 

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Đánh  giá  kết  quả  chẩn  đoán,  chỉ  định  và 
điều  trị  tán  sỏi  nội  soi  ngược  chiều  trên  bệnh 
nhân suy thận cấp do sỏi niệu quản. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm  27  bệnh  nhân  nhập  viện  tại  khoa  tiết 
niệu Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân, 
được chẩn đoán suy thận cấp do sỏi niệu quản 
và được điều trị bằng phương pháp tán sỏi niệu 
quản nội soi ngược chiều. 

Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
Bệnh nhân được chẩn đoán là suy thận cấp 
do sỏi NQ: Sỏi NQ 2 bên, sỏi NQ trên thận độc 
nhất, sỏi NQ một bên và một bên nguyên nhân 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
bế tắc khác (sỏi thận, sỏi bể thận, thận teo...). 
Kích thước sỏi ≤ 15mm. 
Bệnh  nhân  suy  thận  nặng  được  lọc  máu 
ngoài  thận  ổn  định  (kali  máu  <  6,5  mmol/L  và 
creatinin huyết thanh < 8 mg/dL). 

Tất cả bệnh nhân được giãi thích và đồng ý 
tham gia nghiên cứu. 

Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân  
Bệnh  nhân  nhiễm  trùng  niệu  cấp  tính  chưa 
được điều trị kháng sinh. 
Bệnh nhân đang điều trị bệnh rối loạn đông 
máu  hoặc  đang  sử  dụng  heparine,  asprine, 
Levnox, Sintron… 
Bệnh nhân có dị tật hoặc u bướu đường tiết 
niệu, nhất là dị tật tiết niệu không đặt được máy 
nội soi niệu quản. 
Bệnh nhân suy thận nặng có kali máu cao > 
6,5  mmol/L  hoặc  creatinin  huyết  thanh  >  8‐  10 
mg/dL, chưa được lọc máu ngoài thận. 

Phương pháp nghiên cứu 

Nghiên cứu Y học

Ab Kader (2009), có 19/19 bệnh nhân (100%) vô 
niệu(9). SiXiang Yang, CS (2008), có 45 (91,8%)(13). 
Kết quả chúng tôi có 27 bệnh nhân, nhập viện vì 
thiểu niệu là 59,3% (16 TH), vô niệu là 40,7% (11 
TH)  và  đau  hông  lưng  có  tỷ  lệ  100%.  Kết  quả 
chúng tôi có triệu chứng lâm sàng phù hợp với 
kết quả nghiên cứu các tác giả trên. 

Chẩn đoán bế tắc đường tiết niệu 
Độ trướng nước thận trên siêu âm:  

‐  Độ  1:  bên  phải  7  (43,8%)  và  bên  trái  8 
(36,4%). 
‐ Độ  2: 15 bên phải 8 (50,0%) và bên trái 12 
(54,5%). 
‐  Độ  3:  15  bên  phải  1  (6,2%)  và  bên  trái  2 
(9,1%). 
Giãn niệu quản trên sỏi: 
‐ Không giãn: bên phải 6 (37,5%) và bên trái 
6 (27,3%). 
‐ Có giãn: bên phải 10 (62,5%) và bên trái 16 
(72,2%). 

Thực  hiện  tại  Bệnh  viện  Chợ  Rẫy  và  Bệnh 
viện Bình Dân.  

Nồng độ Creatinine huyết thanh 
‐  Creatinin  huyết  thanh  lúc  nhập  viện:  2,97 
mg/ dL (1,9‐4,7). 

Thời  gian  từ  tháng  01  năm  2012  đến  tháng 
05 năm 2013. 

‐  Creatinin  huyết  thanh  trước  tán  sỏi:  3,85 
mg/ dL (2,6‐5,3). 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 

‐ Mức độ tăng creatinnin huyết thanh trung 
bình: 0,88 mg/ dL (0,6‐1,6). 


Mô tả loạt ca lâm sàng. 

‐ Tuổi trung bình: 49,19 tuổi (28‐75). 
‐ Nữ 11 (40,7%) và Nam 16 (59,3%). 

Chẩn đoán suy thận cấp sau thận do sỏi 
Lâm sàng 
‐ Đau lưng do bế tắc đường  tiết  niệu:  27/27 
(100%),  bên  phải  10  (37,0%)  và  bên  trái  11 
(40,7%). 
‐ Thiểu niệu và vô niệu: 27/27 (100%), thiểu 
niệu 16 (59,3%) và vô niệu 11 (47,7%). 
Theo Haowen Jiang, CS (2005), có 21 (77,8%) 
đau lưng, 24 (88,9%) thiểu niệu và 3 (11,1%) vô 
niệu và số ngày thiểu niệu là 2,5 ngày, vô niệu 1 
ngày(7). TANG Zheng‐yan, CS (2006), có 5(38,5%) 
thiểu niệu và 8 (61,5%) vô niệu(15). Mohammad S. 

Niệu Khoa 

Theo  Haowen  Jiang,  CS  (2005),  có  nồng  độ 
creatine  máu  trung  bình  4,6  mg/dL  (1,6‐7,7)(7). 
Mohammad  S.  Ab  Kader  (2009),  có  nồng  độ 
creatine HT trung bình 3,5 mg/dL (2,0‐5,5)(9). Kết 
quả  chúng  tôi  nồng  độ  creatinine  huyết  thanh 
trước  tán  sỏi  trung  bình  3,85  mg/dL  (2,6‐5,3), 
phù  hợp  với  kết  quả  nghiên  cứu  của 
Mohammad  S.  Ab  Kader  (2009)(9).  Chúng  tôi 
chẩn đoán suy thận cấp sau thận do sỏi, chủ yếu 
dựa  vào  bệnh  cảnh  lâm  sàng  cấp  cứu  với  tình 

trạng  thiểu  niệu  và  vô  niệu  100%  (27  TH)  và 
creatinin huyết thanh lúc nhập viện nhỏ nhất là 
1,9 mg/dL, mức tăng trung bình creatinin huyết 
thanh  lúc  nhập  viện  và  trước  tán  sỏi  là  0,88 
mg/dL  (0,6‐1,6)  và  Kết  quả  của  chúng  tôi  phù 

31


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

hợp  kết  quả  nghiên  cứu  tác  giả  Mohammad  S. 
Ab Kader (2009)(9). 

Độ thanh lọc cầu thận 
‐ Trước tán sỏi: 20,56 ml/ phút (13,5 – 29,7). 

Chẩn đoán nguyên nhân suy thận cấp sau 
thận do sỏi niệu quản  
Tiền căn niệu khoa  
Sỏi thận: 4 (14,8%), mổ sỏi thận 10 (37,0%). 
Cắt  thận  5  (18,5%)  và  thận  độc  nhất  10 
(37,0%). 

Chẩn đoán hình ảnh  
Vị  trí  sỏi:  bên  phải  5  (18,6%),  bên  trái  11 
(40,7%) và hai bên 11 (40,7%). 
Kích thước sỏi: Bên phải: ngang: 7,25 mm (5‐

11),  dọc:  10,06  mm  (6‐15).  Bên  trái:  ngang:  7,59 
mm (5‐12), dọc: 10,09 mm (7‐15). 

Nguyên nhân suy thận cấp 
Sỏi  niệu  quản  2  bên  40,8%  (11  TH),  sỏi  NQ 
trên thận độc nhất 37,0% (10 TH), sỏi niệu quản 
1 bên và 01 bên là: sỏi thận là 7,4 % (2 TH), sỏi bể 
thận đối bên 3,7% (1 TH), hẹp khúc nối bể thận 
niệu  quản  đối  bên  3,7%  (1  TH)  và  thận  teo  đối 
bên là 7,4 % (2 TH). Theo TANG Zheng‐yan, CS 
(2006), có 9 (69,2%) trường hợp sỏi NQ 2 bên, 2 
(15,4 %) thận độc nhất, 1 (7,7%) thận teo đối bên 
và 1 (7,7%) thận móng ngựa đối bên(15). SiXiang 
Yang, CS (2008)(13), gặp sỏi NQ 2 bên 73,5 % và 
sỏi NQ trên thận độc nhất là 20,4 %. Mohammad 
S. Ab‐Kader (2009)(9), gặp sỏi NQ 2 bên 73,7 % và 
sỏi  NQ  trên  thận  độc  nhất  là  26,3  %.  Nguyên 
nhân suy thận cấp do sỏi niệu  quản  của  chúng 
tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác 
giả trên. 

Các rối loạn sinh hoá do suy thận cấp  
Kali máu 
‐ Lúc nhập viện: 4,14 mmol/L (3,0‐7,0). 
‐ Trước tán sỏi: 3,79 mmol/L (2,5‐5,0). 
Dự trữ kiềm trong máu 
Thực  hiện  trên  24  bệnh  nhân,  chiếm  tỷ  lệ 
88,8%. 
‐ Lúc nhập viện: 21,0 mEq/L (15,0‐26,0). 


32

Triệu chứng nhiễm trùng niệu 
‐ Bạch cầu máu lúc nhập viện: 10,58 G/L (6,3‐
15,5). 
‐ Bạch cầu máu trước tán sỏi:  9,74  G/L  (6,3‐
12,5). 
‐ Bạch cầu niệu âm tính: 12/27 (44,4%). 
‐ Bạch cầu niệu dương tính: 11/27 (40,8%). 
‐ Cấy nước tiểu: 4/27 TH, dương tính 3 TH, 
âm tính 1 TH. 

Điều trị tán sỏi nội soi ngược chiều  
Điều trị hỗ trợ nội khoa trước tán sỏi 
Theo  Haowen  Jiang,  CS  (2005)(7),  có  chỉ  số 
kali  máu  tăng  từ  5,6  –  6,3  mmol/L  trong  12/27 
bệnh nhân là 44,4 % và lọc máu ngoài thận cấp 
cứu cho 3,7% (1/27) bệnh nhân có kali máu trước 
tán sỏi là 6,3 mmol/L, sau lọc máu kali máu giảm 
xuống 5,6 mmol/. SiXiang  Yang,  CS  (2008)(13)  có 
kali  máu  tăng  từ  5,6‐6,8  mmol/L  gặp  12  bệnh 
nhân  (44,4%),  tác  giả  chỉ  định  lọc  máu  ngoài 
thận  khi  kali  máu  >  6,5  mmo/L.  Chúng  tôi  lọc 
máu ngoài thận cho 1 trường hợp trước tán sỏi 
với kali 7,0 mmol/L, chiếm tỷ lệ 3,7 %, creatinine 
lúc  nhập  viện  là  3,4  mg/dL  tăng  lên  4,6  mg/dL 
với kali máu 7,0 mg/dL. Sau lọc máu ngoài thận 
creatinine huyết thanh trước tán sỏi là 4,1 mg/dL 
và nồng độ kali máu là 4,1 mmol/L. Kết quả điều 
trị hỗ trợ lọc máu ngoài thận trước tán sỏi nội soi 

của  chúng  tôi,  phù  hợp  với  kết  quả  của  các 
nghiên cứu trên. Chúng tôi có 01 bệnh nhân toan 
máu  trước  tán  sỏi,  chiếm  tỷ  lệ  3,7  %, 
creatinine.HT  lúc  nhập  viện  4,0  mg/dL,  kali  4,9 
mmol/L  và  dự  trữ  kiềm  15  mEq/  L.  Bệnh  nhân 
không có biểu hiện rối loạn hô hấp, chúng tôi chỉ 
điều  trị  nội  khoa  bằng  truyền  dịch  Natri 
bicarbonate 1,4 %.  
Điều trị nhiễm trùng niệu  
Về  đánh  giá  nhiễm  trùng  niệu:  05  trường 
hợp có triệu chứng sốt chiếm tỷ lệ 18,5 % và 01 
trường  hợp  tiểu  gắt  lúc  nhập  viện  3,7%,  tất  cả 
đều có bạch cầu niệu dương tính (1TH + và 5 TH 
++) và bạch cầu máu < 11 G/L (1 TH), > 11 G/L (3 
TH), > 15 G/L (2 TH). Trong đó cấy nước tiểu 4 
trường hợp, có 03 trường hợp dương tính với vi 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

khuẩn). Những trường hợp trên chúng tôi dùng 
kháng  sinh  theo  kinh  nghiệm,  nhiều  tác  giả 
khuyên  dùng  phối  hợp  nhiều  loại  kháng  sinh 
phổ  rộng  có  tác  dụng  tức  thì  bằng  đường  tỉnh 
mạch, tiến hành tán sỏi nội soi và sau mổ dùng 
kháng sinh theo kết quả kháng sinh đồ 14,8% (4 
TH). 

Điều trị tán sỏi nội soi 
Chỉ định tán sỏi niệu quản nội soi ngược chiều 
27 bệnh nhân, mổ cấp cứu chiếm tỷ lệ 88,9 % 

(24 TH), mổ bán cấp 11,1 %.(3 TH). Thời gian từ 
nhập viện đến phẫu thuật < 12 giờ 33,3% (9 TH), 
< 24 giờ 55,6% (15 TH) và > 24 giờ 11,1% (3 TH). 
Vô cảm và tư thế phẫu thuật 
27/27 trường hợp tê tuỷ sống và trường hợp 
27/27 tư thế sản phụ khoa. 
Kết quả đặt máy nội soi 
Một trường hợp viêm phù nề quanh miệng 
niệu  quản,  không  tìm  thấy  miệng  niệu  quản 
không đặt được máy vào niệu quản, có xẽ niêm 
mạc  bàng  quang  nhưng  vẫn  không  tìm  thấy 
miệng niệu quản. Hai trường hợp hẹp niệu quản 
dưới sỏi 1/3 dưới, chiếm tỷ lệ 7,4%, xử trí nong 
niệu quản bằng máy soi niệu quản 8,5F và 9,5Fr 
và 01 trường hợp chít hẹp niệu quản dưới sỏi 1/3 
trên,  chiếm  tỷ  lệ  3,7%,  nong  niệu  quản  thất  bại 
và không đặt được thông JJ. Một trường hợp sỏi 
bám dính chặt niêm mạc niệu quản, chiếm tỷ lệ 
3,7%, xứ trí tán sỏi một phần tạo đường hầm đặt 
thông  JJ.  Trong  27  bệnh  nhân  chúng  tôi  có  01 
trường  hợp  không  tán  được  sỏi,  chiếm  tỷ  lệ 
3,7%.  Trường  hợp  này  không  tìm  được  miệng 
niệu  quản  do  viêm  phù  nề  niêm  mạc  bàng 

33


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


quang  xung  quanh  miệng  niệu  quản.  Như  vậy 
tổng  số  bệnh  nhân  chúng  tôi  tán  sỏi  niệu  quản 
nội soi là 26 bệnh nhân. 

Các thủ thuật trong tán sỏi 
‐ Tán sỏi, lôi sỏi: 7 (26,9%). 
‐ Tán sỏi một phần đặt JJ: 2 (7,7%). 
‐ Nong niệu quản tán sỏi: 3 (11,6%). 

Kết quả tán sỏi theo bên 
‐ Bên phải: 7 (26,9%). 
‐ Bên trái: 13 (50,0%). 
‐ Hai bên: 6 (23,1%). 
Theo  Haowen  Jiang,  CS  (2005),  đã  tán  sỏi 
nội  soi  cho  22  TH  (81,5%)  sỏi  niệu  quản  2 
bên(7). TANG Zheng‐yan, CS (2006), đã tán sỏi 
nội soi cho 9 TH (62,9%) sỏi niệu quản 2 bên(15). 
Mohammad S. Ab‐Kader (2009), đã tán sỏi nội 
soi  cho  14  TH  (73,7%)  sỏi  niệu  quản  2  bên(9). 
SiXiang Yang, CS (2008), đã tán sỏi nội soi cho 
39 TH (79,6%)  sỏi  niệu  quản  2  bên(13).  Kết  quả 
chúng tôi chỉ định tán sỏi niệu quản 2 bên cho 
11  trường  hợp,  chiếm  tỷ  lệ  là  40,7  %.  Kết  quả 
chúng tôi phù hợp với kết quả các tác giả trên. 
Đối vối chỉ định tán sỏi niệu quản 2 bên. Theo 
tác  giả  SiXiang  Yang,  CS  (2008)  tán  sỏi  niệu 
quản  nội  soi  ngược  chiều  trên  bệnh  nhân  suy 
thận  cấp,  điều  quan  trọng  là  giãi  quyết  tắc 
nghẽn và phục hồi chức năng thận, nên cần kết 

thúc nhanh thời gian tán sỏi và không cần thiết 
phải tán hết sỏi trong một lần đối với sỏi niệu 
quản  2  bên(13).  Chúng  tôi  đồng  quan  điểm  với 
tác  giả  SiXiang  Yang,  CS  (2008).  Mục  tiêu  của 
chúng  tôi  là  giãi  quyết  bế  tắc  niệu  quản  cấp 
tính  cho  bệnh  nhân  để  khắc  phục  tình  trạng 
suy thận cấp  hiện  tại.  chúng  tôi  tiến  hành  tán 
sỏi  từng  bên  một  theo  nguyên  tắc  chọn  tán 
trước  bên  sỏi  nhỏ,  vị  trí  thấp,  ít  trướng 
nước(18,4). Điều kiện thuận lợi tốt nhất là tán sỏi 
cả  2  bên,  nếu  không  thuận  lợi  chỉ  tán  sỏi  một 
bên và cố gắng đặt được thông JJ 2 bên. 

Kết quả tán sỏi theo kích thước sỏi 
‐ Sỏi niệu quản bên phải: 9,23 mm (6‐12). 
‐ Sỏi niệu quản bên phải: 9,74 mm (7‐12). 

34

Theo  TANG  Zheng‐yan,  CS  (2006)  chỉ  định 
tán  sỏi  cho  cả  3  vị  trí  với  kích  thước  sỏi  trung 
bình  8,7mm  (7‐13)  (lớn  nhất  ≤  13mm),  nhiều 
nhất  là  1/3  dưới  45,2%(15).  Kết  quả  tán  sỏi  của 
chúng  tôi  có  kích  thước  dọc  trung  bình  sỏi  bên 
phải là 9,23 ± 0,52 mm (6 ‐12) (lớn nhất ≤ 12mm) 
và bên trái là 9,74 ± 0,36 mm (7 ‐12) (lớn nhất ≤ 
12mm),  tán  sỏi  cho  cả  3  vị  trí  sỏi  chủ  yếu  tập 
trung ở 1/3 dưới bên phải là 87,5 % (14 TH) và 
bên trái 59,1 %. Kết quả chỉ định tán sỏi nội soi 
của  chúng  tôi  về  kích  thước  phù  hợp  với  chỉ 

định của tác giả TANG Zheng‐yan, CS (2006)(15). 

Kết quả tán sỏi nội soi 
Tốt 81,5%, trung bình 14,8%, thất bại 3,7%. 

Kết quả sau tán sỏi nội soi 
Kết quả về thời gian tán sỏi trung bình 
27,5 phút (15‐45) phụ thuộc nhiều vào động 
tác thành thục và kỹ năng đặt máy soi và tán sỏi 
của  phẫu  thuật  viên(4).  Theo  Haowen  Jiang,  CS 
(2005),  có  thời  gian  tán  sỏi  trung  bình  29,2 
phút(7).  TANG  Zheng‐yan,  CS  (2006),  có  thời 
gian  tán  sỏi  trung  bình  25,0  phút(15).  SiXiang 
Yang, CS (2008), có thời gian tán sỏi trung bình 
35,0 phút(13). Kết quả thởi gian tán sỏi trung bình 
của chúng tôi phù hợp với tác giả trên. 
Tổn thương niệu quản sau tán sỏi 
Trầy  xước  niêm  mạc  NQ:  2  (7,7%).  Theo 
Mohammad  S.  Ab‐Kader  (2009),  có  6  (31,5%) 
trầy  xước  niêm  mạc,  đái  máu  nhẹ  đến  trung 
bình 9 (47,4%) hết tự nhiên trong 1 ngày, sốt cao 
2 (10,5%) dùng kháng sinh hết sốt sau 4 ngày(9). 
Kết quả chúng tôi có 02 (7,7%) trường hợp nong 
hẹp niệu quản, tổn thương trầy xước niêm mạc 
niệu quản, những trương hợp này chúng tôi đều 
đặt  lưu  thông  JJ.  Sau  tán  sỏi  chúng  tôi  có  2 
trường hợp nước tiểu đỏ 7,7 % và 9 trường hợp 
nước tiểu đỏ lợt 34,6%, các trường hợp này màu 
sắc nước tiểu trở lại bình thường sau 4 ngày, mà 
không phải can thiệp điều trị. Kết quả chúng tôi 

phù hợp với kết quả các tác giả trên. 
Kết quả màu sắc nước tiểu sau tán sỏi 
Đỏ lợt: 9 (34,6%), Đỏ: 2 (7,7%). 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Số lượng nước tiểu sau tán sỏi 
‐ Hậu phẫu ngày 1: < 2000 ml: 18 (69,2%) và 
> 3000 ml: 3 (11,5%). 
‐ Hậu phẫu ngày 2: < 2000 ml: 13 (50,0%) và 
> 3000 ml: 8 (30,8%). 
‐  Số  ngày  lượng  nước  tiểu  bình  thường 
trung bình 6,42 ± 0,22 ngày, nhiều nhất 8 ngày, 
ít nhất 4 ngày. 
Theo  Haowen  Jiang,  CS  (2005)(7),  theo  dõi 
trong  1  ngày  với  3.200‐7.600  ml/24  giờ. 
Mohammad S. Ab‐Kader (2009), có lượng nước 
tiểu  ngày  hậu  phẫu  ngày  thứ  1  là  3000‐
6500ml/24  giờ  trở  về  bình  thường  (1500‐
2000ml/24  giờ)(9).  Theo  Haowen  Jiang,  CS 
(2005)(7),  sự  phục  hồi  chức  năng  thận  chủ  yếu 
phụ thuộc vào mức độ và thời gian bế tắc. Theo 
SiXiang  Yang,  CS  (2008)(13),  ngày  1  trung  bình 
4500ml/24 giờ trở về bình thường 7 ngày. Theo 
Trương Hoàng Minh, triệu chứng đa niệu (nước 
tiểu > 3.000 ml/24 giờ) xảy ra từ ngày hậu phẫu 
thứ  1  đến  ngày  thứ  5  sau  khi  giãi  phóng  bế 
tắc(21).  Kết quả chúng tôi có 11,5% (3 TH) lượng 

nước tiểu > 3.000 ml/24 giờ hậu phẫu ngày thứ 1 
và  30,8%  (8  TH)  lượng  nước  tiểu  >  3.000  ml/24 
giờ hậu phẫu ngày thứ 2, lượng nước tiểu trở lại 
bình thường trung bình 6,46 ± 1,09 ngày, ít nhất 
là 4 ngày  và  nhiều  nhất  là  8  ngày.  Kết  quả  của 
chúng  tôi  phù  hợp  với  kết  quả  nghiên  cứu  của 
các tác giả trên. 

Chức năng thận sau tán sỏi  
Kết quả creatinin  huyết  thanh  bình  thường, 
sau  xuất  viện  7  ngày  (26,9%),  sau  1  tháng 
(76,9%)  và  sau  3  tháng  (96,1%).  Theo  Haowen 
Jiang, CS (2005)(7), chức năng thận đánh giá qua 
chỉ  số  creatinine  trở  lại  giá  trị  bình  thường,  17 
bệnh nhân (63,0%) sau 3 ngày và 26 bệnh nhân 
(96,3%)  trong  7  ngày,  sau  12  tuần  là  26  bệnh 
nhân (96,3%) có 01 bệnh nhân 3,7 % chức năng 
thận  không  hồi  phục,  nguyên  nhân  do  thận 
trướng nước to trước tán sỏi. Mohammad S. Ab‐
Kader  (2009)(9)  chỉ  số  creatinine  và  kali  máu  trở 
lại  bình  thường  7‐10  ngày.  SiXiang  Yang,  CS 
(2008)(13)  chức  năng  thận  trở  về  bình  thường  46 
(93,8%) trong vòng 7 ngày, 3 trường hợp thận ứ 

Niệu Khoa 

Nghiên cứu Y học

nước  to,  chức  năng  thận  không  phục  hồi  sau  3 
tháng.  Kết  quả  chúng  tôi  chỉ  số  creatinin  huyết 

thanh trở lại  bình  thường  sau  xuất  viện  7  bệnh 
nhân (26,9%), sau 1 tháng 20 bệnh nhân (76,9%) 
và  sau  3  tháng  có  25  bệnh  nhân  (96,1%),  có  01 
trường hợp creatinine huyết thanh không trở lại 
giá trị bình thường sau 3 tháng, nguyên nhân do 
thận  trướng  nước  độ  III  trước  tán  sỏi.  Kết  quả 
của chúng tôi phù hợp với tác giả Haowen Jiang, 
CS (2005) và SiXiang Yang, CS (2008)(7,13).  

Kết quả tán sỏi thành công và thất bại  
Tỷ  lệ  thành  công  sau  3  tháng  là  92,6%  và 
thất  bại  7,4%.  Kết  quả  tỷ  lệ  thành  công  của 
chúng  tôi  là  92,6  %  có  khả  quan  và  phù  hợp 
với các tác giả TANG Zheng‐yan, CS (2006), là 
92,3%(15);  Haowen  Jiang,  CS  là  93,9%(2005)(7); 
SiXiang  Yang,  CS  (2008)  là  91,8%(13)  và 
Mohammad S. Ab‐Kader (2009) là 90,9%(9). Tuy 
nhiên, tham khảo tỷ lệ thành công của các tác 
giả  tán  sỏi  bằng  khí  nén  (xung  hơi)  như: 
Mohammed  A.  Al‐Ghazo  (2011)(8)  có  tỷ  lệ 
thành  công  khá  tốt  từ  90,6%  và  Yan  Xinbiao, 
CS (2011)(25) có tỷ lệ thành công 96,6%, tán sỏi 
bằng  năng  lượng  laser  tuy  có  nhiều  ưu  điểm 
hơn  xung  hơi  như  khả  năng  tán  nát  sỏi  cao 
hơn có thể cắt bỏ polype dưới sỏi, thời gian tán 
sỏi  có  thể  ngắn  hơn.  Nhưng  trang  bị  chi  phí 
cao hơn, do đó dựa trên kết quả này các bệnh 
viện tuyến tỉnh đã có khoa thận nhân tạo thì có 
thể thực hiện tán sỏi niệu quản trên bệnh nhân 
suy thận cấp bằng năng lượng xung hơi vẫn có 

tỷ lệ thành công cao mà trang bị ít tốn kém và 
độ bền cao hơn.Về nguyên nhân thất bại, tham 
khảo  các  tác  giả  chúng  tôi  thấy  nguyên  nhân 
thường gặp nhất là do sỏi chạy lên thận trong 
quá trình tán sỏi. Ít hơn là nguyên nhân thủng 
đứt  niệu  quản  phải  xử  trí  bằng  phẫu  thuật 
khác. Chúng tôi không  có  trường  hợp  nào  sỏi 
chạy lên thận, 01 trường hợp thất bại do không 
tìm  được  miệng  niệu  quản  và  không  tiếp  cận 
được  hòn  sỏi(5,4,3).  Trường  hợp  thất  bại  của 
chúng  tôi  là  bệnh  nhân  L.  Thế  T.  nhập  viện 
ngày 22/9/2012 vì lý do tiểu máu + sốt, sau đó 
vô niệu, được chẩn đoán là vô niệu do sỏi NQ 

35


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

1/3 dưới 2 bên, creatinin huyết thanh lúc nhập 
viện là 4,7 mg/dL và bạch cầu máu nhập viện 
là 15,5 G/L, kết quả siêu âm hệ niệu với thận P 
trướng nước độ I, thận T trường nước độ II, sỏi 
NQ 1/3 dưới 2 bên kích thước lớn nhất 15mm. 
Bệnh  nhân  được  chỉ  định  tán  sỏi  nội  soi  cấp 
cứu và kháng sinh  trước  tán  sỏi  là  ceftaxidin  2 
gam tiêm tỉnh mạch. Trong lúc tán sỏi đưa dây 
dẫn đường lên niệu quản phải thấy nước  tiểu 

đục chảy xuống, được xử trí nội soi đặt thông 
JJ  phải.  Tiến  hành  tìm  niệu  quản  trái,  dù  cố 
gắng nhiều lần nhưng không tìm được miệng 
niệu quản trái, ngưng tán sỏi bệnh nhân được 
cấy nước tiểu trong lúc tán sỏi và kết quả ngày 
1/10/2012 dương tính với vi khuẩn Enterbacter 
cloacea  nhạy  với  Imipenem.  Bệnh  nhân  được 
tiến hành phẫu thuật lần 2 vào ngày 1/10/2012 
với chẩn đoán hẹp niệu quản chậu trái do sỏi, 
trong  lúc  nội  soi  tìm  miệng  niệu  quản  trái  có 
xẽ  niêm  mạc  bàng  quang  nhưng  vẫn  không 
tìm thấy miệng niệu quản, ngưng thủ thuật lên 
chương trình mổ mở. Bệnh nhân được mổ mở 
lấy sỏi niệu quản trái chậu và đặt thông JJ trái 
ngày 15/10/2012. Trong lúc mổ, niệu quản trái 
trướng  nở,  sỏi  nằm  vị  trí  sát  thành  bàng 
quang,  bệnh  nhân  xuất  viện  ngày  23/10/2012. 
Trong  trường  hợp  này  chúng  tôi  thấy  rằng, 
bệnh  nhân  có  tình  trạng  nhiễm  trùng  niệu  đã 
lâu do sỏi niệu quản trái chậu gây bế tắc viêm 
dính niệu quản dưới sỏi. Nguyên nhân không 
tìm  thấy  miệng  niệu  quản  thường  ít  gặp 
nhưng  đây  là  nguyên  nhân  khách  quan  có 
nhiều tác giả cũng gặp như: Dương văn Trung, 
gặp  2%  không  tìm  được  miệng  NQ(4).  Đặng 
Ngọc Anh, Trần Minh Đạo, Sái Văn Đức (2004) 
gặp  1/115  (0,9%)  trường  hợp  không  tìm  thấy 
miệng  niệu  quản(5).  Doãn  Thị  Ngọc  Vân  gặp 
2/144 (1,4%) trường hợp không tìm thấy miệng 
niệu  quản(3).  Tuy  nhiên  trên  bệnh  nhân  này 

chúng  tôi  nhận  thấy,  khi  chỉ  định  tán  sỏi  nội 
soi  mà  tình  trạng  bệnh  nhân  nghi  ngờ  nhiễm 
trùng  niệu  với  kích  thước  sỏi  to  15  mm  hai 
bên, chúng ta nên thận trọng khi chỉ định. 

KẾT LUẬN 

36

Chẩn  đoán  suy  thận  cấp  sau  thận  do  sỏi 
niệu quản  
27/27  trường  hợp  có  thiểu  niệu  và  vô  niệu. 
27/27 trường hợp đều có thận trướng nước trên 
siêu âm. Creatinin huyết thanh lúc nhập viện ≥ 
1,5 mg/dL, mức độ tăng creatinin huyết thanh > 
0,5 mg/dL.  Với  sỏi niệu quản 2 bên chiếm tỷ lệ 
40,8 %, sỏi niệu quản trên thận độc nhất 37,0%, 
sỏi niệu quản và sỏi thận đối bên 7,4%, sỏi niệu 
quản và sỏi bể thận đối bên 3,7%, sỏi niệu quản 
và hẹp khúc nối bể thận niệu quản đối bên 3,7%, 
sỏi niệu quản và thận teo đối bên 7,4%. 

Kết quả điều trị trước tán sỏi nội soi 
Điều trị hỗ trợ nội khoa trước tán sỏi 
 Chỉ định lọc máu ngoài thận 01 trường hợp 
tỷ  lệ  3,7  %,  chỉ  định  điều  trị  toan  hoá  máu  01 
trường hợp tỷ lệ 3,7 %. 
Đánh giá điều trị nhiễm trùng niệu  trước  tán 
sỏi  
Không  có  triệu  chứng  nhiễm  trùng  niệu: 

dùng kháng sinh tỉnh mạch trước tán sỏi 40,7% 
(11 TH). Có triệu chứng nhiễm trùng niệu: dùng 
kháng  sinh  tỉnh  mạch  12  –  24  giờ  trước  tán  sỏi 
44,5% (12 TH). 
Kết quả tán sỏi nội soi ngược chiều 
‐ Chỉ định tán sỏi  
+ Không có nhiễm trùng niệu hoặc đã được 
điều trị ổn định. 
+  Mức  độ  suy  thận:  Creatinin.HT  ≤  5,3 
mg/dL, Kali máu ≤ 5 mmol/L. 
+ Kích thước sỏi niệu quản ≤ 12 mm.  
+  Vị  trí  sỏi  NQ  1/3  trên  (5,3%),  1/3  giữa 
(23,7%), 1/3 dưới (71%) và sỏi NQ 2 bên (40,7%). 
‐ Về Kết quả thời gian tán sỏi 
Thời gian tán sỏi trung bình 27,5 phút (15‐45). 
‐ Về kết quả tán sỏi nội soi 
Tốt 81,5 %, trung bình 14,8 % và kém 3,7%. 
Một  trường  hợp  thất  bại  không  tiếp  cận  được 
sỏi, chiếm tỷ lệ 3,7%. 

Kết quả sau tán sỏi nội soi ngược chiều 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Về biến chứng gần sau tán sỏi 
Có  02  trường  hợp  xây  sát  niêm  mạc  niệu 
quản do nong niệu quản, chiếm tỷ lệ 7,4 % và 02 
trường hợp tiểu đỏ sau tán sỏi 7,4 %. 

Sự hồi phục chức năng thận 
Kết quả creatinin  huyết  thanh  bình  thường, 
sau xuất viện (26,9%), sau 1 tháng (76,9%) và sau 
3 tháng (96,1%), Kết quả tán sỏi sau 3 tháng, tỷ lệ 
thành công là 92,6 % và thất bại là 7,4%.  
Tán  sỏi  niệu  quản  nội  soi  ngược  chiều  trên 
bệnh nhân suy thận cấp sau  thận  do  sỏi  NQ  là 
một phẫu thuật ít xâm hại, hoàn toàn khả thi với 
tính an toàn và hiệu quả cao. 

KIẾN NGHỊ 
Chỉ định tán sỏi 

6

7

8

9

10
11

‐ Không có nhiễm trùng niệu hoặc đã được 
điều trị ổn định. 

12

‐ Mức độ suy thận: creatinin.HT ≤ 5,3 mg/dL, 

Kali máu ≤ 5 mmol/L. 

13

‐ Kích thước sỏi niệu quản ≤ 12 mm.  
‐ Vị trí sỏi NQ 1/3 trên, 1/3 giữa, 1/3 dưới và 
sỏi niệu quản 2 bên. 

14

Chỉ định lọc máu ngoài thận trước tán sỏi 
‐ Khi kali máu >6,5 mmol/L. 
Các bệnh viện tuyến tỉnhcó khoa thận nhân 
tạo, có thể thực hiện tán sỏi nội soi ngược chiều 
trên  bệnh  nhân  suy  thận  cấp  bằng  năng  lượng 
xung hơi vẫn đạt kết quả thành công cao. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1

2

3

4

5

Amed  SS,  Nabil  KB,  Udaya  K,  Mohamed  IT,  Fathy  GE, 
Ahmed  ME,  Medhat  AA  (2007),”  Ureteroscopic  holmuim 

laser  lithotripsyin  patients  with  renal  Impairment”  in  Urol 
Neprol (2008) 40, pp. 15‐17.  
Bagley  DH  (1988),”  Indications  for  Ureteopyeloscopy”, 
Ureteroscopy, W.B. Saunders Company, Philadelphia, pp. 7‐
30.  
Doãn  Thị  Ngọc  Vân,  Phạm  Huy  Huyên,  Ngô  Trung  Kiên 
(2004),”  Kết  quả  tán  sỏi  niệu  quản  qua  nội  soi  tại  khoa  Tiết 
niệu‐bệnh viện Saint Paul Hà Nội”, Tạp chí Y học thực hành, 
công  trình  nghiên  cứu  khoa  học  hội  nghị  ngoại  khoa  toàn 
quốc, Bộ Y tế xuất bản, Số 419, tr. 582 ‐ 585.  
Dương  Văn  Trung  (2009),”  Nghiên  cứu  kết  quả  và  tai  biến, 
biến  chứng  trong  tán  sỏi  niệu  quản  nội  soi  ngược  dòng”, 
Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện Quân y, tr. 96 ‐ 108.  
Đặng Ngọc Anh, Trần Minh Đạo, Sái Văn Đức (2004),” Nhận 
xét kết quả tán sỏi niệu quản bằng phương pháp nội soi tại 

Niệu Khoa 

15

16

17
18

19

20

21


22
23

Nghiên cứu Y học

khoa ngoại – Bệnh viện 198”, Tạp chí Y học thực hành, công 
trình nghiên cứu khoa học hội nghị ngoại khoa toàn quốc, Bộ 
Y tế xuất bản, số 491, tr. 555 ‐ 558.  
Hoàng Long, Trần  Quốc  Hòa,  Hà  Văn  Quyết  (2011),”  Đánh 
giá kết quả phẫu thuật tán sỏi niệu quản nội soingược dòng 
bằng xung hơi”, tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, tr. 45 ‐ 62. 
Jiang H, Wu Z, Qiang D (2008),” Ureteroscopy and Holmium: 
YAG lasre lithtripsy as Emergency Treatment for Acute Renal 
Failure  Caused  by  Impacted  Ureteral  Calculi”  urology. 
2008.05.041, pp. 504‐507.  
Mohammad  AAG,  Ibrahim  FG,  Rami  SAA,  Osamah  BH, 
Ibrahim BH, Mohammad AH, Yazian H (2011),” Emergency 
ureteroscopic  lithotripsy  in  acute  renal  colic  caused  by 
ureteral calculi: a retrospective study” Urol Res 2011 ( 39), pp. 
497‐501.  
Mohammad SAK (2011),” Management of calcular anuria in 
adults  caused  by  ureteric  stones;  by  using  of  uerteroscopy 
and  holmium  laser”,  ArabJournal  of  Urology‐volume  9, 
September 2011, pp. 179‐182.  
Nguyễn Mễ (2003),” Sỏi niệu quản”,”Bệnh học tiết niệu”. Nhà 
xuất bản Y học, tr. 244 ‐ 248.  
Nguyễn  Minh  Quang  (2003),”Tán  sỏi  niệu  quản  qua  nội  soi 
bằng laser và xung hơi”, Luận văn tốt nghiệp chuyên khoa II, 
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tr. 32 ‐ 61. [11] 

Nguyễn Văn Học (2008),” Đánh giá phương pháp tán sỏi nội 
soi xung hơi trong sỏi niệu quản khảm”, Luận văn tốt nghiệp 
Thạc sĩ Y học. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tr. 58 ‐ 59.  
Si  X,  Yang  MD,  Song  C,  Xia  Y,  Cheng  F,  Zhang  Z  (2011),ʺ 
Emergency  ureteroscopic  treatment  for  upper  urinary  tract 
calculi obstruction associated with acute renal Failure: feasible 
or not?ʺ, 2011. Nov; 24( 11):1721‐4.Epub 2010 Oct 19, Hospital 
of Wuhan University, Journal of endourology, pp. 1721‐1724.  
Strihmaier  LW,  Schubert  G  (1999)“  Comparison  of 
extracorporeal shock wave lithotripsy and ueteroscopy in the 
treatment of ureteral calculi: a prospective study”, Eur Urol, 
36 ( 5), pp. 376‐379.  
Tang  ZY,  Ding  J,  Peng  KL,  Zu  XB  (2006),”  Holmium  YAG 
laser  lithotripsy  underureteroscopy  for  treating  urinary 
calculi combined with acute renal failure”, J Cent South Univ 
(Med Sci), 2006, 31 ( 1), pp. 241‐246.  
Trần Các (1996),” Góp phần nghiên cứu lâm sàng, chẩn đoán 
và điều trị phẫu thuật bệnh sỏi thận và niệu quản ở người có 
thận đơn độc”, Luận án phó tiến sĩ y học, Học viện Quân y, tr. 
67 ‐72.  
Trần  Quán  Anh  (2003),”  Sỏi  niệu  quản”,  Bệnh  học  Ngoại 
khoa, Tập 2, Nhà xuất bản Y học Hà nội, tr. 140‐145.  
Trần Văn Hinh (2013),” Một số thể đặc biệt của sỏi tiết niệu”, 
Các  phương  pháp  chẩn  đoán  và  điều  trị  sỏi  tiết  niệu,  Nhà 
xuất bản Y học Hà Nội. tr. 128 ‐ 139.  
Trần Văn Sáng (1996),” Sỏi tiết niệu”, Bài giảng bệnh học niệu 
khoa,  Tài  liệu  học  tập  cho  Đại  Học,  Cao  Học,  Nghiên  Cứu 
Sinh”, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, tr. 83 ‐ 130.  
Trần  Văn  Sáng,  Dương  Quang  Trí  (1996),”  Vô  niệu  do  sỏi”, 
Niệu khoa lâm sàng, Tài liệu học tập cho đại học và trên đại 

học, Trường Đại học Y Dược TP.HCM, tr. 45 ‐ 56.  
Trương  Hoàng  Minh,  Trần  Lê  Duy  Anh,  Đỗ  Anh  Đức 
(2010),”  Điều  trị  suy  thận  cấp  sau  thận”,  Đề  tài  nghiên  cứu 
khoa học tại Bệnh viện nhân dân 115. Kỹ yếu Nội khoa số đặc 
biệt, Bệnh viện nhân dân 115, tr. 103 – 112.  
Võ Thị Hồng Liên (1998),” Suy thận dưới thận do sỏi”, Luận 
án Thạc sỹ Y học, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh, tr. 22 ‐ 38.  
Vũ  Đức  Huy  (2009),”  Đánh  giá  kết  quả  điều  trị  ngoại  sỏi 

37


Nghiên cứu Y học 

24

25

38

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

đường tiết niệu trên kèm theo nhiễm trùng niệu”, Luận văn 
tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Tr. 73 ‐ 81.  
Vũ Quỳnh Giao (1997),” Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận 
lâm sàng và kết quả điều trị sỏi niệu quản 2 bên”, Luận văn 
tốt nghiệp BS chuyên khoa II, Đại học Y Hà Nội, tr. 136 ‐ 142.  
Yang X, Zhu GD, Jianghan C, Wu S (2011),” Ureteroscopy in 
upper  urinary  tract  obstruction  caused  by  stones  and  acute 

 

renal  failure  in  clinical  application”,  March  9,  2011,  Chinese 
Journal Full‐text Database. Clinical data, pp. 123‐ 130.  
 

Ngày nhận bài báo: 15/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2013 
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×