Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
** Khoa Tiết Niệu - Bệnh viện Chợ Rẫy, Phân môn Tiết Niệu Trường ĐHYD Tp. Hồ Chí Minh
KẾT QUẢ TÁN SỎI NIỆU QUẢN NỘI SOI BẰNG MÁY TÁN XUNG HƠI
TẠI BỆNH VIỆN CH RẪY
Châu Quý Thuận*, Trần Ngọc Sinh**
TÓM TẮT
Mục đích: Trình bày kết quả điều trò sỏi niệu quản bằng máy tán sỏi nội soi xung hơi tại Khoa Tiết
Niệu Bệnh Viện Chợ Rẫy.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên các bệnh nhân sỏi niệu quản có chỉ đònh
can thiệp ngoại khoa, sỏi niệu quản từ thấp đến cao kết hợp sỏi thận cùng bên có chỉ đònh tán sỏi ngoài
cơ thể. Thực hiện với máy tán sỏi xung hơi EMS từ tháng 8 đầu tháng12 -2004. Bệnh nhân được chuẩn bò
tư thế tán sỏi nội soi trên bàn của máy tán sỏi ngoài cơ thể để có thể phối hợp trong những trường hợp
cần thiết. Chống chỉ đònh tán sỏi khi có nhiễm trùng niệu.
Kết quả: Nhóm nghiên cứu gồm 43 trường hợp (TH), 18 nam (41.86%) và 25 nữ (58.14%) , tuổi
trung bình 46.84
±
16.41 (thấp nhất 19, cao nhất 77 tuổi). Vò trí sỏi đa số là: niệu quản chậu 35 TH
(81,39%) chiếm đa số, đặc biệt có 1 TH (2.32%) sỏi tạo thành chuổi (sau tán sỏi ngoài cơ thể) và 1TH
(2.32%) sỏi niệu quản chậu có sỏi thận cùng bên đã phải phối hợp tán sỏi ngoài cơ thể. Tỷ lệ sạch sỏi là
40/ 43 TH (93%), không có TH nào sỏi chạy lên thận. Có 3 TH thất bại (7%): trong đó một trường hợp
không đặt được máy soi vào niệu quản, một TH sỏi dính chặt vào thành niệu quản và một TH sỏi niệu
quản đoạn lưng có hẹp niệu quản dưới sỏi. Không gặp tai biến hoặc biến chứng nặng.
Kết luận: Tán sỏi niệu quản nội soi bằng xung hơi là phương pháp an toàn và hiệu quả cao. Chỉ đònh
được mở rộng nếu phối hợp với máy tán sỏi ngoài cơ thể khi có thêm sỏi thận cùng bên
SUMMARY
RESULTS OF LITHOTRIPSY LITHOCLAST ON URETERAL CALCULI
OF CHO RAY HOSPITAL
Chau Quy Thuan, Tran Ngoc Sinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 83 – 86
Objective: Our results of the pneumatic endoscopic lithotripsy for ureteral calculi. Our study was
conducted in Cho Ray Hospital.
Patients and methods: This was a prespective study. It was carried out on ureteral calculi patients
who were fit for surgical treatment. The stones located on proximal to distal ureter, and might be
combined with a same side renal stone which offered to ESWL. Using Wolf – EMS Pneumatic Lithotriptor
and Duet – Direx Extracorporeal ShockWave Lithotriptor, the patients were treated from August 2004 to
December 2004. The candidate lay down on the table of ESW lithotriptor to perform the ureteroscopic
lithotripsy.
Results: There were 43 patients underwent 43 ureteroscopic procedures for removal of calculi. In
which, 18 males: 25 females (41.86 %: 58.14%).The mean age was 46.84
±
16.41 (it ranged from 19 -77
year old). Most of patients had a distal ureteral stone (35 cases – 81.39%), only one case (2.32%) had a
“steintrass” stones followed by the Extracorporeal ShockWave Lithotripsy (ESWL) procedure and one case
had a distal ureteral stone combined with a same side renal stone, which was stone –free followed by
* Khoa Tiết Niệu - Bệnh viện Chợ Rẫy
83
ESWL. 40/43 patients having ureteral calculi were fragmented successfully (93%), no stones were moved
up to the kidney. Total 3 cases were failed: one patient had ureteral stricture so that we couldn’t access to
calculus, other one, we didn’t obtain ureteral access, the other had a hard and impacted stone. So, we had
to make the open surgery for those patients. The failure rate is 7%.No severe complications occurred.
Conclusion: Pneumatic Ureteroscopic lithotripsy is safe and effective. The indication will be enlarged
if it can combine with The ESWL for the renal stones.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay phương pháp tán sỏi nội soi được ưa
chuộng cho sỏi niệu quản, đặc biệt là sỏi niệu quản
đoạn chậu. Có nhiều nguồn năng lượng dùng để phá
sỏi qua nội soi niệu quản trong đó tán sỏi nội soi bằng
xung hơi là phương pháp an toàn, hiệu quả nhất là giá
thành thấp so với laser, siêu âm hay thủy điện
lực...Tán sỏi nội soi sỏi niệu quản bằng xung hơi
(Lithoclast) là vũ khí bổ sung cho tán sỏi ngoài cơ thể
khi sỏi rơi xuống làm bế tắc niệu quản. Ngược lại, tán
sỏi niệu quản kèm sỏi thận cùng bên mà không có
máy tán sỏi ngoài cơ thể sẽ bò nguy cơ sỏi rơi xuống
gây bế tắc một lần nữa.
Tại Khoa Tiết Niệu Bệnh Viện Chợ Rẫy muốn thực
hiện ý tưởng kết hợp 2 kỹ thuật trên và đây là báo cáo
bước đầu, tán sỏi niệu quản đã tiến hành trên một số
trường hợp sỏi niệu quản chậu, đặc biệt còn mở rộng
chỉ đònh trên một số sỏi niệu quản đoạn cao hoặc có
kết hợp với máy tán sỏi ngoài cơ thể cho sỏi thận.
ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Phương pháp nghiên cứu tiền cứu. Trên 43
trường hợp sỏi niệu quản từ thấp đến cao hay kết hợp
sỏi thận cùng bên có chỉ đònh tán sỏi nội soi hổ trợ
tán sỏi ngoài cơ thể từ tháng 8/2004 đến tháng
12/2004.
Máy tán sỏi là máy nội soi và máy tạo xung hơi
của máy EMS (Lithoclast) – Máy tán sỏi ngoài cơ thể
Duet (Direx).
Chỉ đònh tán sỏi trên các trường hợp có sỏi niệu
quản đường kính dưới 1cm, không phân biệt sỏi niệu
quản chậu lưng, hoặc thành chuỗi trên niệu quản.
Với những trường hợp có sỏi niệu quản kèm theo
sỏi thận dưới 2cm, có thể tiến hành tán sỏi bằng máy
xung hơi, sau đó tán ngoài cơ thể.
KẾT QUẢ
- 43 TH được nội soi niệu quản bằng máy soi niệu
quản loại cứng (Wolf- Swiss- EMS), thời gian thực
hiện thủ thuật trung bình 57,12 ± 26.82 phút (ngắn
nhất 20 phút, dài nhất 145 phút). Trong đóù, có 1 TH
sỏi thận cùng bên tán sỏi ngoài cơ thể phối hợp và 1
TH sỏi tạo thành chuổi do tán sỏi ngoài cơ thể trước
đó ở bệnh viện khác.
- 3 trường hợp thất bại (7%).
- 40 trường hợp được tán sỏi thành công (93%),
các sỏi được tán vỡ thành những mảnh vụn, các
mảnh to được gấp ra ngoài bằng rọ, kềm, sau tán sỏi
thành công, căn cứ vào thương tổn niêm mạc niệu
quản, chúng tôi đặt thông double-J cho 37 TH, 3 TH
chúng tôi đặt thông niệu quản.
- Không có TH nào sỏi di chuyển lên thận trong
quá trình tán sỏi.
- Không có tai biến nghiêm trọng nào được ghi
nhận.
Bảng 1: Vò trí sỏi
Vò trí Số TH Tỉ lệ (%)
Sỏi niệu quản chậu 35 81.39%
Sỏi niệu quản lưng 6 13.97%
Sỏi tạo thành chuổi 1 2.32%
Sỏi niệu quản + sỏi
thận
1 2.32%
Tổng cộng 43 100%
Bảng 2: Kích thước sỏi
Vò trí Số TH Kích thước Trung bình
Sỏi niệu quản chậu 36 7- 16 mm 10.83 ±2.61 mm
Sỏi niệu quản lưng 6 7- 16 mm 11.17 ±3.66 mm
Bảng 3: Hình ảnh siêu âm đánh giá mức độ trướng
nước thận
Bình
thường
Trướng nước
độ I
Trướng nước
độ II
Trướng
nước độ III
Không đánh
giá
1 (2.32%)13 (30.23%) 16 (37.23%) 7 (16.25%) 6 (13.97%)
84
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Bảng 4: Hình ảnh thận trên UIV
Bình thường Đài bể thận
giản
Thận không
phân tiết
Không có UIV
2 (4.77%) 34 (80.95%) 6 (14.28%) 1 (2.32%)
Bảng 5: Đặc điểm về sỏi (mức độ bế tắc)
Mức độ bế tắc Số TH Tỷ lệ (%)
Không bế tắc 22 51.16(%)
Bế tắc 21 48.84(%)
Tổng cộng 43 100%
Bảng 6: Lâm sàng khi tán sỏi
Mức độ bế tắc Số TH Tỷ lệ (%)
Sỏi không bám niêm mạc 18 45%
Sỏi khảm đơn thuần 9 25%
Sỏi khảm + polype dưới sỏi 13 30%
Tổng cộng 40 100%
Bảng 7: Biến chứng hậu phẫu
Đau hông
lưng
Viêm đài bể
thận cấp
Nước tiểu
trong/24h
Số ngày nằm
viện
2 TH 1 TH 40 TH 3.35 ngày
BÀN LUẬN
Trường hợp nội soi niệu quản đầu tiên được tiến
hành năm 1912 do Young thực hiện, từ đó có những
thay đổi lớn, đáng kể nhất là hệ thống kính của
Hopkins, máy soi niệu quản cứng với các kích thước
khác nhau, các máy soi niệu quản hôm nay có thể soi
lên tới bể thận
(3).
Tán sỏi nội soi bằng xung hơi có ưu điểm là
không sinh nhiệt, do đó nguy tổn thương niệu quản
do nhiệt không xảy ra, so với tán sỏi bằng thủy điện
lực, siêu âm, laser thì tán sỏi bằng xung hơi có tỉ lệ
thủng niệu quản thấp hơn, chi phí bảo trì và giá
thành cũng thấp hơn
(4)
. Tán sỏi nội soi sỏi niệu quản
bằng xung hơi là phương pháp an toàn và hiệu quả
(1).
Với ý tưởng phối hợp 2 vũ khí tán sỏi nội soi và
tán sỏi ngoài cơ thể, bệnh nhân được chuẩn bò trên
bàn tán sỏi ngoài cơ thể, nên chỉ đònh của chúng tôi
mở rộng cho những TH có sỏi thận cùng bên cũng
như hổ trợ cho những TH sỏi di chuyển lên thận
trong quá trình tán sỏi nội soi. Trong loạt nghiên cứu
này có 1 TH sỏi thận cùng bên với sỏi niệu quản chậu
và không có TH nào sỏi di chuyển lên thận.
Về vô cảm, mê nội khí quản có ưu điểm làm giãn
cơ tối đa và không xảy ra tình trạng đau hông lưng
bên tán sỏi do thao tác bơm nước. Chúng tôi tiến
hành gây mê nội khí quản 25 trường hợp, 18 trường
hợp gây tê tủy sống, các trường hợp đau hông lưng
lúc thao tác đều xảy ra trong nhóm gây tê tủy sống.
Về kỹthuật tán sỏi nội soi sỏi niệu quản bằng
xung hơi, sau khi đưa máy lên niệu quản, phải nhìn
rõ đầu tán và hòn sỏi, cho đầu tán tiếp xúc trực tiếp
với hòn sỏi và tán, mục đích của tán sỏi là tạo ra các
mảnh vở có đường kính dưới 2mm để có thể tự ra
ngoài được, các sỏi có đường kính to phải dùng kềm,
rọ gấp ra ngoài, nhược điểm của tán sỏi nội soi bằng
xung hơi là hòn sỏi dễ di chuyển lên thận
(4)
.
Trong số 43 bệnh nhân có một trường hợp chúng
tôi đặt máy lên niệu quản không được, một trường hợp
sỏi cứng và bám chặt vào thành niệu quản, một trường
hợp có hẹp dưới niệu quản, cả ba trường hợp này
chuyển mổ hở, 40 trường hợp tán sỏi thành công (93%),
kết quả này tương tự như nhiều tác giả khác
(2,5,7)
.
Không có trường hợp sỏi di chuyển lên thận, đối
với sỏi khảm chúng tôi không gặp sự cố này, đối với
sỏi niệu quản di động chúng tôi bắt sỏi bằng rọ trước
khi tán, theo các tác giả khác: sỏi niệu quản đoạn
lưng, đặc biệt sỏi ở vò trí 1/3 trên, thì tỉ lệ sỏi di
chuyển lên thận cao nhất. Chúng tôi có 7 trường hợp
sỏi niệu quản đoạn lưng, một trường hợp nằm trong
nhóm thất bại do hẹp niệu quản dưới sỏi, 6 trường
hợp còn lại đều tán sỏi thành công.
Bảng 8: So sánh kết quả với các tác giả khác
Đơn vò/ tác giả Thời gian Số trường hợp Thành công (%)
BVĐK Cần Thơ 1998- 2000 50 62
BV Bình Dân 1998 129 76
BVBĐ Hà Nội 1999- 2000 210 89
BVBĐ 1 Hà Nội 2004 1519 88.08
NM Quang 2004 204 95
Tác giả 1999- 2001 50 78
Tác giả 2004 43 93
Không có trường hợp thủng niệu quản. Sỏi khảm
có polyp 13 trường hợp, sỏi khảm không có polyp 9
trường hợp, đây là những trường hợp sỏi niệu quản
lâu ngày gây viêm nhiễm và niệu mạc dưới sỏi tăng
sinh gây nên hình ảnh polyp, chính polyp che kín
hòn sỏi gây cản trở cho việc tiếp cận hòn sỏi, dễ gây
thủng niệu quản. Thuận lợi trong tán sỏi sỏi khảm có
85
Số ngày hậu phẫu trung bình 3,35 ngày (1-8
ngày) tương đương kết quả của tác giả khác. Các
trường hợp đặt thông trong niệu quản không làm tốn
thêm thời gian phẫu thuật nhưng làm cho đa số bệnh
nhân cảm thấy khó chòu và kéo dài thời gian nằm
viện hơn
(5)
.
polyp hoặc không có polyp là hòn sỏi khó di chuyển
lên thận, tuy nhiên khả năng thủng niệu quản rất
cao. Thường gặp nhất là bong lớp niêm mạc niệu
quản và hẹp niệu quản sau tán sỏi, sau tán chúng tôi
đặt thông nòng niệu quản, thông double-J cho 37
bệnh nhân (92,5%), thông niệu quản cho 3 bệnh
nhân (7,5%). Theo y văn nếu sau tán sỏi nội soi mà
niệu mạc không bò tổn thương thì không đặt thông
nòng niệu quản.Tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng các
trường hợp sỏi khảm, nhất là sỏi khảm có polyp, sau
tán sỏi nội soi thường có trầy sướt niêm mạc, phù nề
và hẹp lòng niệu quản. Chúng tôi quyết đònh đặt
thông double-J cho các trường hợp này.
KẾT LUẬN
Tán sỏi nội soi sỏi niệu quản bằng máy xung hơi
cho tỉ lệ thành công cao (93%), nó là một phương
pháp an toàn và hiệu quả, không gặp các tai biến
nghiêm trọng. Chỉ đònh sẽ được mở rộng đối với vò trí
sỏi niệu quản cao cũng như có sỏi thận kết hợp cùng
bên nếu chúng ta có máy tán sỏi ngoài cơ thể hổ trợ.
Các biểu hiện sau tán sỏi gồm có: Đau hông lưng bên
tán sỏi và tiểu máu, hầu hết đều khỏi sau vài ngày
điều trò. Trong số bệnh nhân của nghiên cứu này tỉ lệ
sỏi khảm khá cao, đây là sỏi thường kết hợp với phù
nề và polyp, và rất dễ gây biến chứng thủng niệu
quản, nên phải cẩn trọng trong các trường hợp này
để tránh thất bại. Có được như vậy chúng ta mới
giảm tỉ lệ thất bại và tăng tỉ lệ thành công cho
phương pháp này.
Không có trường hợp nào nước tiểu đục, nếu có
nước tiểu đục dễ gây choáng nhiễm trùng. Trước khi
tiến hành nội soi tán sỏi, trong số 43 bệnh nhân của
chúng tôi không có bệnh nhân nào có biểu hiện
nhiễm trùng tiểu trên lâm sàng và trên xét nghiệm
nước tiểu.
Một trường hợp được tán sỏi ngoài cơ thể sỏi thận
phải (bệnh viện khác), các mảnh vụn sỏi di chuyển
xuống niệu quản gây bế tắc niệu quản một đoạn,
chúng tôi tán sỏi nội soi và dùng kềm gắp hết sỏi vụn,
đặt thông Double-J, hậu phẫu 2 ngày xuất viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akhtar M.S., Akhtar F.K. Utility of the lithoclast in the
treatment of upper, middle and lower ureteric calculi.
Dấu hiệu lâm sàng sau tán sỏi nội soi: Đau hông
bên tán sỏi, 2 trường hợp là do trong quá trình tán sỏi
phải bơm nước làm căng đài bể thận và niệu quản
bên trên, đau hông lưng bên tán sỏi còn gặp trong lúc
đang thực hiện thủ thuật và hay gặp ở các bệnh nhân
được tê tuỷ sống. Một trường hợp viêm đài bể thận
cấp sau tán sỏi nội soi, chúng tôi cấy nước tiểu, vi
trùng mọc là Pseudomonas Aeruginosa, thời gian hậu
phẫu bệnh nhân này là 8 ngày và đây là bệnh nhân
có số ngày hậu phẫu dài nhất.
2. Dương Văn Trung, Lê Ngọc Từ, Nguyễn Bửu Triều. Kết quả
tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng cho 1519 bệnh nhân
tại bệnh viện Bưu Điện 1 Hà Nội. Y học thực hành hội
nghò ngoại khoa toàn quốc, trang 600-604.
3. Li-MS, Sosa R.E. Ureteroscopy and retrograde ureteral
access. Campell’ Urology2002; chapter 97.
4. Lingerman JE., Lifshitz DA., Evan AP.. Surgical
management of urinary lithiasis. Campell’ Urology2002;
chapter 99.
5. Nguyễn Minh Quang. Rút kinh nghiệm qua 204 trường
hợp tán sỏi nội soi bằng laser và xung hơi. Luận án chuyên
khoa cấp 2
6. Trần Ngọc Sinh, Châu Qúy Thuận. Nhân một số trường
hợp tán sỏi niệu quản qua nội soi tại Bệnh Viện Chợ Rẫy.
Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, thành tựu khoa học 5 năm
Bệnh Viện Chợ Rẫy 1996 – 2001, trang 282 – 287.
Một dấu hiệu khác thường gặp là tiểu máu, nước
tiểu đỏ theo thông niệu đạo, hoặc thông niệu quản,
sau tán sỏi nội soi, chúng tôi theo dõi tính chất, số
lượng nước tiểu từ thông niệu quản và thông niệu đạo
bằng cách nối 2 đầu thông vào hai túi chứa khác
nhau. Tuy nhiên các dấu hiệu trên thường khỏi sau
vài ngày điều trò.
7. Võ Văn Quý, Đào Thanh Hoá, Nguyễn Quang Trung. Kết
quả bước đầu tán sỏi niệu quản nội soi tại bệnh viện GTVT
1. Y học thực hành, hội nghò ngoại khoa toàn quốc, trang
598-600.
86