Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

So sánh kết quả sau mổ nội soi mũi xoang trên bệnh nhân có và không nhét bấc mũi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.6 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

SO SÁNH KẾT QUẢ SAU MỔ NỘI SOI MŨI XOANG
TRÊN BỆNH NHÂN CÓ VÀ KHÔNG NHÉT BẤC MŨI
Lê Quang Hưng *, Phạm Kiên Hữu**

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng bấc mũi trên sự phục hồi niêm mạc và tình trạng bệnh nhân sau phẫu
thuật nội soi mũi xoang.
Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu mô tả cắt ngang
Kết quả: Tổng cộng có 62 bệnh nhân chia làm 2 nhóm trong nghiên cứu, nhóm 1: bao gồm 32 bệnh
nhân được mổ nội soi mũi xoang không có nhét bấc sau mổ và nhóm 2: bao gồm 30 bệnh nhân được mổ nội
soi mũi xoang có nhét bấc sau mổ. Tất cả bênh nhân được thực hiện bởi cùnh một phẫu thuật viên, cùng một
phương pháp mổ, và chăm sóc dau mổ theo một phác đồ. Tỷ lệ chảy máu không có sự khác biệt giữa 2 nhóm
với p= 0.963. cảm giác đau tăng 50% ở nhóm có nhét bấc mũi với p= 0.006. Mức độ cải thiện các triệu
chứng cơ năng và phục hồi niêm mạc ở tuần thứ 2 và thứ 4 nhanh hơn ớ nhóm không nhét bấc mũi so với
nhóm chứng. (p=0.026; 0.02).
Kết luận: Không nhét bấc sau phẫu thuật nội soi mũi xoang không làm tăng nguy cơ chảy máu sau mổ,
giảm cảm giác khó chịu sau mổ và tình trạng hồi phục niêm mạc nhanh hơn so với nhóm có nhét bấc mũi
sau mổ.

ABSTRACT
TO COMPARE THE OUTCOME OF FESS IN PATIENTS
WITH AND WITHOUT NASAL PACKING
Le Quang Hung, Pham Kien Huu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 23 - 27
Purpose: To assess the impact of nasal packing on nasal mucosal recovery and patient’s health codition.
Methods: To a prospective descriptive cross sectional analyze study
Result: Thre are 62 surgical patients which are divided into two groups, group 1: included 32 patients
underwent FESS with no post op. nasal packing and group 2: 30 patients underwent FESS with post op.


nasal packing. All patients were undergone surgery under one unique surgical technique by one nasal
surgeon and were undertaken an unique post op. follow up schedule. We noticed: there is no signnifical
statistic difference between two groups, post op. epistaxis.. Subjective pain is 50% higher in group 2 in
compare with group 1. Improving of other symptoms and mucosal recovery rates at the second and forth
week post op. better on group 1 in compare with group 1.
Conclusion: FESS with no nasal packing doest increase post op. epistaxis, decrease uncomfortable
symptoms and promote post op. nasal mucosal recovery.
hợp viêm xoang mạn tính mà điều trị nội khoa
ĐẶT VẤN ĐỀ
tích cực không đạt kết quả tốt, phải giải quyết
Viêm xoang là bệnh lý rất phổ biến trong
bằng phẫu thuật. Từ năm 1978, hai công trình
thực hành lâm sàng, liên quan đến nhiều chuyên
nghiên cứu của 2 tác giả: Messerklinger (Áo) và
khoa khác. Viêm xoang cấp tính không có biến
Wigand (Đức) mở ra một kỷ nguyên mới trong
chứng chỉ cần điều trị nội khoa tích cực mang lại
phẫu thuật nội soi mũi xoang. Các biến chứng
nhiều kết quả khả quan. Đối với những trường
thường ảnh hưởng xấu đến kết quả sau mổ chính
* BVĐK An Nhơn, Bình Định
** Bộ môn Tai Mũi Họng - Đại học Y Dược TP.HCM

Tai Mũi Họng

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
là khuynh hướng sẹo dính cuốn mũi giữa về phía

vách mũi xoang, làm tắc nghẽn sự dẫn lưu chất
dịch ở đó, xẹo hay xơ dính ở các lỗ thông xoang,
khiến các triệu chứng cơ năng khó chịu trước mổ
của người bệnh không giảm bớt sau mổ.
Cho đến nay, việc dùng bấc mũi sau mổ nội
soi mũi xoang vẫn được xem như là một qui
trình thường qui sau mổ. Tuy nhiên, nhiều công
trình nghiên cứu cho thấy việc nhét bấc mũi sau
mổ có một lợi điểm chính là tránh biến chứng
chảy máu hậu phẫu, nhưng nó có thể gây ra
nhiều khó chịu cho bệnh nhân, và có thể làm
trầy xướt niêm mạc mũi, chèn ép làm thiếu máu
nuôi cho niêm mạc, hố mổ lâu lành hơn. Để
đánh giá mức độ ảnh hưởng của bấc mũi đến
kết quả hồi phục hố mổ, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu “ So sánh kết quả sau mổ nội soi mũi
xoang trên bệnh nhân có và không nhét bấc
mũi”

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân ở
tuổi trưởng thành đến khám và điều trị tại khoa
TMH bệnh viện Đại học Y dược TPHCM từ
tháng 09/2006 đến tháng 09/2007, hội đủ các điều
kiện chọn bệnh: có biểu hiện các triệu chứng
viêm xoang mạn tính trên lâm sàng như: nghẹt
mũi, chảy mũi sau, vướng họng, nhức đầu đồng
thời xác định viêm xoang trên nội soi và CTscan.


Nghiên cứu Y học

Xác định viêm xoang qua nội soi và CTscan
Làm xét nghiệm tiền phẫu
Phẫu thuật
Tái khám sau mổ và đánh giá kết quả (theo
dõi trong 3 tháng)

Tiêu chí đánh giá
- Đánh giá mức độ đau của 2 nhóm qua
thang điểm của Wong-Baker
- Đánh giá mức độ cải thiện các triệu chứng
cơ năng
Mức độ cải thiện triệu
Điểm
chứng cơ năng
KHỎI

0

TỐT (cải thiện rõ rệt)

1

ĐỠ (cải thiện ít)

2

XẤU (như cũ, nặng hơn)


3

Tiêu chí đánh giá
Hoàn toàn không còn
triệu chứng
Triệu chúng giảm rõ rệt,
bệnh nhân cảm thấy dễ chịu
Có cải thiện, dễ chịu hơn
nhưng không rõ rệt
Triệu chứng như cũ, có
khi còn tệ hơn

- Đánh giá hồi phục niêm mạc qua nội soi
MỨC ĐỘ ĐIỂM

HÌNH ẢNH NỘI SOI
Niêm mạc bình thường

KHỎI

0

Phức hợp lỗ thông ngách thông thoáng
Lỗ thông xoang không bị tắc hẹp

TỐT

1

KHÔNG

TỐT

2

Niêm mạc phù nề
Xơ dính ít không cản trở dẫn lưu xoang
Áp dính niêm mạc
Tắc hẹp phức hợp lỗ ngách, tắc lỗ
thông xoang.

KẾT QUẢ

Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu mô tả cắt ngang

Phương tiện nghiên cứu:

40
30

Dụng cụ khám Tai Mũi Họng thường qui

20

Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi Karl Storze

10

Các dụng cụ vi phẫu sử dụng trong phẫu
thuật nội soi mũi xoang.


0

Chảy máu
không chảy máu

Nhóm không
nhét bấc

Nhóm nhét bấc
mũi

Bấc mũi: Merocel
Bộ dụng cụ nội soi chẩn đóan và chăm sóc
hậu phẫu Karl Storze

Các bước tiến hành
Bệnh nhân nhập viện, Khám bằng bộ khám
TMH thường qui.

Tai
2 Mũi Họng

Biểu đồ 1: Tỷ lệ chảy máu sau mổ của 2 nhóm


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
14

Nhóm không nhét bấc (N=32)


Nhóm không nhét bấc

12

Nhóm nhét bấc mũi

Nghiên cứu Y học

Sau mổ

1 tuần 2 tuần

10
8

Giảm rõ rệt

12

Có cải thiện

6

Như cũ hoặc tăng

3

Tổng số


25

6
4
2
0
Không
đau

Hơi đau

Đau ít

Đau vừa

Đau rất
nhiều

Đau
nhiều

Biểu đồ 2: Mức độ đau của 2 nhóm

Không đau
Hơi đau

Trước rút bấc mũi

Sau rút bấc mũi


Tần số
0
5

Tần số
1
1

Tỷ lệ
0,00%
16,70%

Tỷ lệ
3,30%
3,30%

Đau ít

8

26,70%

2

6,70%

Đau vừa

14


46,70%

9

30,00%

Đau nhiều

1

3,30%

13

43,30%

Đau rất nhiều

2

6,70%

4

13,30%

Bảng 2: Tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng cơ năng mới
Nhóm nhét
Nhóm không nhét bấc
bấc

Triệu chứng
Tần
Tần số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
số
Ngứa mũi/hắt xì
7
21,90%
11 36,7%
Đau nhức vùng mũi
5
15,60%
12
40%
Nghẹt mũi
8
25,00%
30 100%
Ho
7
21,90%
7 23,3%
Khô/ rát họng
8
25,00%
16 53,3%
Chảy nước mắt sống
1
3,10%

4 13,3%

Bảng 3: Đánh giá triệu chứng nghẹt mũi

Bảng 4: Đánh giá triệu chứng chảy mũi

Hết triệu chứng

4

Tai Mũi Họng

6

0
0
25

4 tuần 8 tuần 12 tuần

18,80
16 50% 19
%

1

2 6,7% 5

16,7
%


16

21

Giảm rõ rệt

10

6

20% 6 20%

4

1

Có cải thiện

8

6

20% 9 30%

2

0

Như cũ hoặc

tăng

3

0

0

Tổng số

22

22

22

26,7
2 6,7%
%
73,3
73,30
22
22
%
%
8

Bảng 5: Đánh giá triệu chứng nhức đầu
Nhóm không nhét bấc (N=32)
Sau mổ


1 tuần 2 tuần 4 tuần 8 tuần 12 tuần

Hết triệu chứng

4

6 18,8% 19 59,4% 24

27

Giảm rõ rệt

10 21 65,6% 8 25%

3

2

Có cải thiện

15

2 6,3% 2 6,3%

2

1

1


1 3,1% 1 3,1%

1

0

30 30 93,8% 30 93,8% 30

30

Như cũ hoặc tăng
Tổng số

Nhóm nhét bấc mũi (N=30)
Hết triệu chứng

2

2 6,7% 6 20%

22

24

Giảm rõ rệt

3

12 40% 15 50%


2

1

Có cải thiện

19 11 36,7% 4 13,3%

1

1

2

1

0

26 26 86,7% 26 86,7% 26

26

Tổng số

1 3,3% 1 3,3%

Bảng 6: Kết quả nội soi sau phẫu thuật
Nhóm không nhét bấc
Sau mổ

Niêm mạc bình
thường
Phù nề niêm
mạc
Áp niêm mạc
Cầu Fibrin

1 tuần

2 tuần

4 tuần 8 tuần 12 tuần

0

0

0% 19 59,4%

30

30

32

32 100% 9 28,1%

2

2


9

4 12,5% 3 9,4%

1

1

0

0

9(28,1%) 4 12,5% 0

0

Dính khe giữa

0

5 15,6% 3 9,4%

2

2

Tắc lỗ thông
xoang hàm


6

1

0

0

27

28

3,1% 1 3,1%

Nhóm nhét bấc mũi

Nhóm không nhét bấc (N=32)
1 tuần 2 tuần

Hết triệu chứng

Như cũ hoặc tăng

Nhóm không nhét bấc (N=32)
Sau mổ
1 tuần 2 tuần 4 tuần 8 tuần12 tuần
Hết triệu chứng
4
8 25% 15 46,9% 19
22

Giảm rõ rệt
10 16 50% 8 25%
4
3
Có cải thiện
10 2 6,3% 2 6,3%
2
1
Như cũ hoặc tăng 2
0 0,0% 1 3,10% 1
0
Tổng số
26 26 81,3% 26 81,3% 26
26
Nhóm nhét bấc mũi (N=30)
Hết triệu chứng
1
2 6,7% 5 16,7% 18
21
Giảm rõ rệt
5 16 53,3% 13 43,3% 6
6
Có cải thiện
16 9 30% 8 26,7% 2
0
Như cũ hoặc tăng
5
0 0% 1 3,3%
1
0

Tổng số
27 27 90% 27 90% 27
27

Sau mổ

1

Nhóm nhét bấc mũi (N=30)

Bảng 1: Bảng điểm đau trong nhóm nhét bấc mũi
Điểm đau

4 tuần 8 tuần 12 tuần

46,9
18,8
15
6
3
%
%
6,3
2 6,3% 2
2
%
3,1
2 6,3% 1
1
%

78,1
78,1
25
25
25
%
%

Niêm mạc bình
thường

0

0

0%

9 30,0%

24

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Phù nề niêm
mạc
Áp niêm mạc
Cầu Fibrin


30

30 100% 17 56,7%

14

11 36,7% 8 26,7%

22(73,3%) 14 46,7% 0

0

1

1

3

1

0

0

Dính khe giữa

0

6 200% 7 23,3%


3

3

Tắc lỗ thông
xoang hàm

7

2 6,70% 2 6,70%

0

0

BÀN LUẬN
Kết quả đau sau mổ
Chúng tôi sử dụng thang điểm Wong-Baker
để đánh giá mức độ đau của bệnh nhân trong 2
nhóm, thang điểm đau được chia từ mức: không
đau-hơi đau-đau ít- đau vừa-đau nhiều-đau rất nhiều.
Ở nhóm không nhét bấc phần lớn bệnh nhân
chỉ hơi đau (40,6%) hoặc đau ít (40,6%) trong khi
đó ở nhóm có nhét bấc mũi hầu hết bệnh nhân
cho rằng ở mức độ đau vừa (46,7%). Sự khác biệt
về mức độ đau giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê
(phép kiểm Mann- whitney Z= - 2,745, n=62, p=
0,006). Trung vị điểm đau của nhóm nhét bấc
cao hơn 12 điểm (tăng 46,9%) so với nhóm
không nhét bấc mũi.


Mức độ thuyên giảm triệu chứng cơ năng
sau mổ
Chúng tôi so sánh sự thuyên giảm triệu
chứng cơ năng sau mổ giữa 2 nhóm ở các thời
điểm 1 tuần, 2 tuần, 4 tuần, 8 tuần và 12 tuần.
Về các triệu chứng nghẹt mũi, chảy mũi sau,
nhức đầu, số liệu thống kê cho thấy có sự khác
biệt có ý nghĩa ở thời điểm 2 tuần và 4 tuần. Thời
điểm 1 tuần, 8 tuần, 12 tuần, triệu chứng cơ năng
thuyên giảm tương đồng giữa 2 nhóm.
Sau mổ 1 tuần, niêm mạc phù nề nhiều, nên
triệu chứng lâm sàng chưa cải thiện, trong nhóm
không nhét bấc chỉ có 4/32 bệnh nhân là hết
nghẹt mũi, nhóm chứng chỉ có 1/30 bệnh nhân
hết triệu chứng nghẹt mũi.
Sau mổ 2 tuần, 4 tuần, niêm mạc bắt đầu
phục hồi từ từ, tuy nhiên sự phục hồi này nhanh
hơn ở nhóm không nhét bấc mũi so với nhóm
chứng, dẫn đến mức độ cải thiện triệu chứng
lâm sàng cũng khác nhau. Tỷ lệ hết triệu chứng
nghẹt mũi trong nhóm không nhét bấc mũi từ
tuần thứ 2 là 25% tăng lên 46.9% ở tuần thứ 4, tỷ

Tai
4 Mũi Họng

Nghiên cứu Y học

lệ này cao hơn rõ rệt so với nhóm chứng là 6,7%

ở tuần thứ 2 và tăng lên 16,7% ở tuần thứ 4.
Tỷ lệ hết triệu chứng nhức đầu trong nhóm
không nhét bấc mũi từ tuần thứ 2 là 18,8% tăng
lên 59,4% ở tuần thứ 4, tỷ lệ này cao hơn rõ rệt so
với nhóm chứng là 6,7% ở tuần thứ 2 và tăng lên
20,0% ở tuần thứ 4.
Sau 2 tháng, và 3 tháng, với các biện pháp
chống phù nề niêm mạc và kết hợp với điều trị
nội khoa hỗ trợ, vì vậy diễn tiến giảm triệu
chứng gần như tương đồng nhau (xem biểu đồ
nghẹt mũi, chảy mũi, nhức đầu).

Kết quả lành thương sau phẫu thuật
Trong thiết kế nghiên cứu, vào cuối thời
điểm phẫu thuật, chúng tôi sử dụng nước muối
sinh lý để rửa sạch tòan bộ hố mổ, nhằm mục
đích tránh hiện tượng máu còn bám vào cuốn
mũi, vách mũi xoang dễ tạo các vảy dính sau
mổ, vì khi chăm sóc sau mổ, các vảy cứng này
dính chặt vào cuốn mũi, và che khuất lỗ thông
xoang hàm, gây khó khăn cho việc chăm sóc và
dễ bị chảy máu trở lại khi bóc gỡ.
Tuy nhiên kết quả sau mổ cho thấy tỷ lệ cầu
Fibrin vẫn cao. Ở thời điểm 1 tuần sau mổ, khi so
sánh giữa 2 nhóm thì tỷ lệ cầu Fibrin của nhóm
không nhét bấc là 28,1% thấp hơn nhiều so với
nhóm chứng (73,3%), như vậy vấn đề rút bấc mũi
sau mổ, ngoài việc làm trầy xướt chảy máu còn
dẫn đến hậu quả là tạo thành các vảy Fibrin cứng.
Ở tuần thứ 2 tỷ lệ này có giảm nhưng giữa

nhóm không nhét bấc và nhóm chứng cũng có
sự chênh lệch (tỷ lệ lần lượt là 12,5%, so với
46,7%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê,
phép kiểm chi bình phương, P <0.001 và
P=0,03<0,05
Về hình ảnh nội soi sau 1 tuần phẫu thuật,
nhận thấy rằng tỷ lệ niêm mạc phù nề là 100% ở
mỗi nhóm, áp niêm mạc ít hơn ở nhóm không
nhét bấc mũi (9/32=28,1%) so với nhóm chứng
(14/30=46,7%), tuy nhiên qua tính toán thống kê
cho thấy sự khác biệt này không có ý nghĩa.
Về hình ảnh nội soi sau 2 tuần, tình trạng
niêm mạc phù nề vẫn còn ở 2 nhóm, nhưng diễn


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
tiến áp niêm mạc có sự khác nhau giữa nhóm
không nhét bấc mũi (12,5%) so với nhóm chứng
(36,7%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(phép kiểm chi bình phương) P=0,026 < 0,05, với
khỏang tin cậy 95%.
Về hình ảnh nội soi sau 4 tuần, cho thấy có
diễn tiến hồi phục của niêm mạc với tỷ lệ niêm
mạc bình thường là 59,4% ở nhóm không nhét
bấc so với 30% ở nhóm chứng, và tỷ lệ niêm mạc
phù nề cũng giảm đi là 28,1% ở nhóm không
nhét bấc so với 56,7% ở nhóm chứng. Sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (phép kiểm chi bình
phương) với Pvalue lần lượt là P=0,02, 0,023 <
0,05, với khỏang tin cậy 95%.

Như vậy, nếu so sánh riêng về tình trạng hồi
phục niêm mạc sau mổ của nhóm không nhét
bấc so với nhóm chứng ở thời điểm 4 tuần với 2
tuần, thấy rằng mức độ phục hồi niêm mạc
nhanh hơn ở nhóm không nhét bấc mũi với tỷ lệ
59,4% ở tuần thứ 4 so với 0% ở tuần thứ 2, trong
khi ở nhóm chứng tỷ lệ này là 30% ở tuần thứ 4
so với 0% ở tuần thứ 2.
Đến thời điểm 8 tuần và 12 tuần, tình trạng
áp niêm mạc, niêm mạc phù nề và hồi phục
niêm mạc ở nhóm không nhét bấc mũi và nhóm
chứng tương đồng với nhau, điều này có thể do
hiệu quả chống phù nề niêm mạc, và những đợt
điều trị nội khoa hỗ trợ cho những lần bệnh
nhân tái khám chăm sóc sau mổ.

Nghiên cứu Y học

miệng, hậu quả là xuất hiện thêm tình trạng
bệnh lý khác như ho, rát họng. Bấc mũi có tác
động đau tại chỗ đặc biệt là đau sau khi rút bấc
mũi ra, nhất là khi bấc mũi đóng thành khối và
dính chặt vào lông mũi. Bấc mũi làm trầy, xứơt,
phù nề niêm mạc mũi, làm chậm tiến trình hồi
phục niêm mạc sau mổ, chính điều này ảnh
hưởng đến mức độ thuyên giảm các triệu chứng
cơ năng sau mổ so với trước mổ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.
7.

8.

Fairbanks DN. Complications of nasal packing.
Otolaryngol Head Neck Surg 1986;94:412-5.
Garth RJ, Brightwell AP. “A comparision of packing
materials used in nasal surgery” J Laryngol Otol
1994;108:564-6.
Kennedy D., Bolger W., Zinreich S – Diseases of the sinus
–Diagnosis and Management BC. Decker Inc. Hamiton,
London 2001
Orlandi RR.; Lanza DC, “Is Nasal Packing Necessary
Following Endoscopic Sinus Surgery” 2004 The American
Laryngological, Rhinological and Otological Society, Inc.
Sheen TS; Ko JY; Hsu YH - Pyogenic granuloma - an
uncommon complication of nasal packing - Am J Rhinol
1997 May-Jun;11(3):225-7 (ISSN: 1050-6586)
Stammberger – Funtional Endoscopic sinus surgery – 1991
Von Schoenberg M, Robinson P, Ryan R. “Nasal packing
after routine nasal surgery - is it justified”? J Laryngol Otol

1993;107:902-5.
Wigand M.E “ Secure endoscopic sinus surgery as an
adjunct to funtional nasal surgery” Arch Otolaryngol
HNS, Philadelphia; 1989,5: 383-391.

Riêng về tình trạng dính và tắc lỗ thông
xoang sau mổ, số liệu thống kê cho thấy không
có sự khác biệt.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 62 bệnh nhân của 2 nhóm,
chúng tôi có những nhận xét:

Về biến chứng chảy máu sau mổ
Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên
cứu vì vậy cần cân nhắc cho những trường hợp
phẫu thuật tối thiểu như mở khe giữa, nạo sàng
ít không cần nhét bấc sau mổ sau mổ.

Ảnh hưởng của bấc mũi
Việc nhét bấc mũi làm ảnh hưởng lên sự
thông khí tự nhiên, bệnh nhân phải hít thở qua

Tai Mũi Họng

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008


Tai
6 Mũi Họng

Nghiên cứu Y học



×