Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Giá trị của test kiểm soát hen trong theo dõi điều trị dự phòng hen phế quản trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.69 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Nghiên cứu Y học

GIÁ TRỊ CỦA TEST KIỂM SOÁT HEN TRONG THEO DÕI ĐIỀU TRỊ
DỰ PHÒNG HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM
Nguyễn Tiến Dũng*, Ngô Thị Xuân**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sử dụng bộ trắc nghiệm kiểm soát hen (ACT) đã được áp dụng trong theodõi điều trị dự
phòng hen ở một số nước trên thế giới, nhưng ở Việt Nam chưa có tài liệu nàocông bố nghiên cứu vấn đề này ở
trẻ em.
Mục tiêu: Kiểm định giá trị theodõi điều trị dự phòng hen bằng ACT và điều tra thái độ bệnh nhân và gia
đình về ACT.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, mỗi bệnh nhi được theodõi dọc trong 12 tuần. Tất cả các bệnh nhi đủ tiêu
chuẩn chọn vàonghiên cứu sẽ trải qua 4 lần khám cách nhau 4 tuần/lần. Sử dụng ACT để đánh giá mức kiểm
soát hen. Điều tra thái độ của bệnh nhân và gia đình bằng sử dụng bảng câu hỏi.
Kết quả: Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2007 có 72 bệnh nhân hen được theodõi điều trị dự phòng. Có
mối tương quan đồng biến chặt giữa mức kiểm soát hen theoGINA với điểm ACT (r = 0, 659; p < 0,001), giữa
FEV1 với điểm ACT (r=0,583; p < 0,001) và giữa PEF với ACT (r=0, 676; p < 0,001). Sau 4 tuần điều trị, có 4
trẻ không thay đổi mức kiểm soát hen thì điểm ACT thay đổi là 2,5 ± 2,1. Nhóm tốt lên 1 bậc có 22 trẻ và điểm
ACT tăng lên là 3,5 ± 2,3. Nhóm tốt lên 2 bậc có 9 trẻ và điểm ACT tăng lên caonhất là 6,7 ± 4,4. Sự khác biệt
giữa điểm ACT ở các nhóm thay đổi mức kiểm soát hen có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sau 12 tuần theodõi
chothấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm ACT giữa 2 nhóm thay đổi FEV1 và PEF (p < 0,05). Hầu
hết bệnh nhân và gia đình đều chorằng ACT là bộ công cụ thuận tiện, có thể giúp họ tự đánh giá mức kiểm
soát của mình.
Kết luận: ACT là bộ công cụ đơn giản, có giá trị trong theodõi điều trị dự phòng hen ở trẻ em.
Từ khóa: Test kiểm soát hen; mức kiểm soát hen.

ABSTRACT
VALUE OF ASTHMA CONTROL TEST IN FOLLOWING UP ASTHMA CONTROL TREATMENT IN


CHILDREN
Nguyen Tien Dung, Ngo Thi Xuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 123 - 128
Background: Asthma Control Test (ACT) has been used tofollow up asthma control treatment in children
in some countries, but not in Vietnam.
Objective: Tomeasure value of ACT in following up asthma control treatment and survey attitude of
patients and their families with ACT.
Method: Descriptive study; duration of following up of each patient tobe 12 weeks and each patient were
examined 4 times in every 4 weeks; ACT has been used toevaluate level of asthma control. Surveying attitude of
patients and their families were carried out by questionnaires.
Results: During from January toNovember 2007, seventy twoasthma children 6-15 years of age had been
studied. After 4 weeks of preventative treatment, there were closed correlation between levels of asthma control by
GINA with ACT (r = 0.659; p < 0.001) and between FEF with ACT (r = 0.676; p < 0.001). There were 4 patients
* Khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, ** Khoa Nhi bệnh viện Tỉnh Bắc Ninh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tiến Dũng, ĐT: 0913518596,
Email:

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Nghiên cứu Y học

without change of asthma control and they had change of ACT points to be 2.5 ± 2.1. There were 22 patients with
improving 1 level of asthma control and they had increasing change of ACT points to be 3.5 ± 2.3. There were 9
patients with improving 2 level of asthma control and they had highest increasing change of ACT points to be 6.7
± 4.4. (P<0.05). After 12 weeks of preventative treatment, there were significant different of ACT points between

two groups change FEV1 and PEF (P<0.05). Most of patients and families thought that ACT were valuable tool
for helping them in evaluating levels of their asthma control by themselves.
Conclusion: ACT is valuable and simple tool in order to follow up preventative treatment of asthma in
children.
Key words: Asthma Control Test; Level of asthma control.
Có bệnh lý hô hấp khác và bệnh khác kèm
ĐẶT VẤN ĐỀ
theo.
Hen phế quản là bệnh viêm mạn tính đường
Phương pháp
hô hấp thường gặp. Trong thực hành lâm sàng
hàng ngày, do hạn chế về thời gian và nguồn lực
Thiết kế nghiên cứu
nên khó có thể thực hiện được đầy đủ các bước
Nghiên cứu mô tả, mỗi bệnh nhi được theo
theo GINA(8,9). Do vậy các chuyên gia về hen của
dõi dọc trong 12 tuần.
nhiều nước trên thế giới đã tập trung cùng
Thu thập số liệu
nghiên cứu để tìm một phương pháp đơn giản,
Tất cả các bệnh nhi đủ tiêu chuẩn chọn vào
mất ít thời gian, dễ áp dụng và đã đưa ra trắc
nghiên cứu sẽ trải qua 4 lần khám cách nhau 4
nghiệm kiểm soát hen (ACT) để đánh giá mức
tuần/lần, theo một qui trình chung là:
độ kiểm soát hen tại cộng đồng(7,10).
- Hỏi tiền sử bệnh, khám lâm sàng, thu thập
Bộ trắc nghiệm này đã được áp dụng để
dữ liệu theo bệnh án mẫu.
đánh giá mức độ kiểm soát hen ở nhiều nước

trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, theo các tài
liệu mà chúng tôi có được thì chưa có tài liệu nào
nghiên cứu theo dõi dự phòng hen ở trẻ em. Vì
vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm các
mục tiêu sau:
- Kiểm định giá trị theo dõi điều trị dự
phòng Hen phế quản bằng ACT.
- Điều tra thái độ của bệnh nhân và gia đình
về ACT.

- Đo chức năng hô hấp bằng máy phế dung
kế Quark PFT1 do hãng Comed của Ý sản xuất
có phần mềm lưu giữ, tự động tính kết quả so
với chuẩn và vẽ đồ thị trên máy vi tính.
- Đo PEF bằng lưu lượng đỉnh kế điện tử của
hãng Gsk cung cấp.
- Chẩn đoán bậc hen theo GINA 2006(5).
- Hướng dẫn bệnh nhi hoặc bố mẹ về cách
làm ACT và sử dụng thuốc dự phòng.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

- Xếp loại mức độ KSH theo điểm ACT.

Đối tượng

- KSH hoàn toàn: 25 điểm.

Tiêu chuẩn lựa chọn
- Bệnh nhân ≥ 6 tuổi.

- Chẩn đoán hen phế quản bởi bác sĩ chuyên
khoa theo GINA 2006(5).
- Không có bệnh lý hô hấp khác.

- KSH tốt: từ 20 đến 24 điểm.

Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân < 6 tuổi.
Bệnh nhân không đo được chức năng hô hấp.

- Không kiểm soát được: ≤ 19 điểm.
- Điều tra thái độ của bệnh nhân và gia đình:
Sử dụng bảng câu hỏi.

Xử lý số liệu
Theo phương pháp thống kê y học bằng
phần mềm SPSS 15.0.

2Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2007 chúng
tôi đã khám, theo dõi điều trị dự phòng và tư
vấn cho 72 bệnh nhân Hen phế quản. Trong đó
có 48 trẻ từ 6-12 tuổi, 24 trẻ từ 12-15 tuổi, 49
nam, 23 nữ. Tỷ số nam/nữ là 2,1/1. Thời gian
mắc bệnh trung bình bệnh nhân là 4,9 ± 2,71
năm, dao động từ 3 tháng đến 9 năm. Kết quả

kiểm định giá trị theo dõi dự phòng hen phế
quản bằng ACT được trình bày trong các bảng
và biểu đồ sau:
Bảng 1. Tương quan giữa thay đổi ACT với mức
KSH theo GINA, FEV1, PEF
Chỉ số

Hệ số tương quan
với ACT

p

0,659

< 0,001

0,583
0,676

< 0,001
< 0,001

Mức Kiểm soát hen theo
Lâm sàng
FEV1
PEF

kiểm soát hen theo GINA với điểm ACT là
tương quan đồng biến chặt, có ý nghĩa thống kê
(r = 0, 659, p < 0,001). Tương quan giữa sự thay

đổi của FEV1 với điểm ACT là tương quan đồng
biến chặt, có ý nghĩa thống kê (r = 0,583, p <
0,001) và tương quan giữa sự thay đổi của PEF
với ACT cũng là tương quan đồng biến chặt, có
ý nghĩa thống kê (r = 0, 676, p < 0,001).
Bảng 2: Phân bố sự thay đổi điểm ACT với bậc hen
Bậc hen

Xấu ñi
(n = 0)

Thay ñổi
ñiểm ACT
trung bình

0

Tốt lên Tốt lên
1 bậc
2 bậc
(n = 22) (n = 9)

Giữ
nguyên
(n = 4)

2,5 ± 2,1 3,5 ± 2,3 6,7 ± 4,4

p


0,01

12
10
ACT

KẾT QUẢ

Nghiên cứu Y học

8
6
4
2
0

FEV1 (%)
120.00

Gi÷ nguyªn

Observed
Linear

Tèt lªn 1 bậc Tèt lªn 2 bậc

110.00

BËc hen
100.00


90.00

80.00

70.00
15

17.5

20

22.5

25

ACT

Biểu đồ 1: Tương quan giữa ACT với giá trị của
FEV1
PEF
130.00
Observed
Linear
120.00

110.00

100.00


90.00

80.00

70.00
15

17.5

20

22.5

25

ACT

Biểu đồ 2: Tương quan giữa ACT với giá trị của
PEF
Kết quả ở bảng 1, biểu đồ 1 và 2 cho thấy
tương quan giữa sự thay đổi điểm cho về mức

Biểu đồ 3: Phân bố sự thay đổi điểm ACT với bậc
hen
Sau mỗi 4 tuần bệnh nhân được khám và
xếp lại bậc hen theo tiêu chuẩn của GINA 2006.
Kết quả bảng 2 và biểu đồ 3 cho thấy không có
bệnh nhân nào ở nhóm mức kiểm soát hen xấu
đi. Nhóm bậc hen vẫn giữ nguyên có 4 trường
hợp và điểm ACT thay đổi trung bình là 2,5 ±

2,1. Nhóm bậc hen tốt lên 1 bậc có 22 trường
hợp, chiếm tỷ lệ cao nhất (63%) và điểm ACT
tăng lên trung bình là 3,5 ± 2,3. Nhóm bậc hen tốt
lên 2 bậc có 9 trường hợp và điểm ACT tăng lên
cao nhất là 6,7 ± 4,4. Sự khác biệt giữa điểm ACT
trung bình tăng them ở các nhóm thay đổi bậc
hen có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Bảng 3: Phân bố sự thay đổi điểm ACT và giá trị của
FEV1
FEV1

Thay ñổi ñiểm
ACT trung bình

Cải thiện ≤
10% (n = 18)

Cải thiện
>10%
(n= 17)

3,2 ± 1,8

5,5 ± 3,9

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

p

< 0,05


3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Nghiên cứu Y học

Sau 12 tuần theo dõi, bệnh nhân được chia
thành 2 nhóm theo sự thay đổi của FEV1.
Nhóm I, cải thiện ≤ 10% và nhóm II, cải thiện
>10%, là các nhóm có FEV1 ở thời điểm sau 12
tuần so với thời điểm sau 4 tuần tăng ≤ 10% và
>10%. Kết quả bảng 3 cho thấy sự khác biệt
giữa sự thay đổi điểm ACT trong quá trình
điều trị ở 2 nhóm thay đổi giá trị FEV1 là có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05.

bệnh nhân và gia đình (5%) cho rằng tự mình
đánh giá và theo dõi mức độ ổn định của bệnh
thì không chính xác, thường cho điểm cao hơn,
trong đó có những câu hỏi khó đánh giá nhất là
câu số 5 (3%).

Bảng 4: Phân bố sự thay đổi điểm ACT và giá trị của
PEF

Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả các
bệnh nhân đều được điều trị dự phòng cùng
một loại thuốc (Seretide), liều lượng theo tuổi

và theo bậc hen. Sau 12 tuần, có 35 bệnh nhân
được theo dõi liên tục để đánh giá sự thay đổi
điểm số của ACT có tương quan với sự thay
đổi của mức kiểm soát hen theo GINA, FEV1,
PEF và sự thay đổi này phân biệt được các
nhóm bệnh nhân thay đổi về bậc hen và chức
năng hô hấp sau điều trị dự phòng. Theo kết
quả ở bảng 1 cho thấy, sự thay đổi của ACT
có mối tương quan đồng biến, chặt, có ý
nghĩa thống kê với sự thay đổi mức độ kiểm
soát hen theo tiêu chuẩn của GINA (r = 0,659;
p < 0,001). Nghiên cứu của Schartz M và cộng
sự cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi, tương quan có ý nghĩa thống kê
giữa sự thay đổi của ACT với sự thay đổi của
điểm cho của bác sỹ chuyên khoa (r = 0,44; p <
0,001). Các tác giả còn so sánh ACT với bộ câu
hỏi về kiểm soát hen (ACQ: Asthma Control
Questionnaire) đã chỉ ra tương quan có ý
nghĩa thống kê giữa ACT với ACQ(10). So với
ACQ, cũng là bộ công cụ để đánh giá mức độ
kiểm soát hen thì ACT đơn giản và dễ áp
dụng hơn(11).

PEF

Cải thiện ≤
Cải thiện
p
10% (n = 10) >10% (n = 25)

Thay ñổi ñiểm ACT 2,8 ± 1,1
4,9 ± 2,6
< 0,05
trung bình

Kết quả bảng 4 cho thấy, nhóm có sự thay
đổi giá trị của PEF trên 10% có 25 bệnh nhân
chiếm tỷ lệ 71,4%, cao hơn so với nhóm có sự
thay đổi giá trị của PEF dưới 10% (28,6%) và sự
thay đổi điểm ACT trung bình cũng cao hơn rõ
rệt (4,9 ± 2,6). Sự khác biệt giữa sự thay đổi điểm
ACT ở 2 nhóm thay đổi giá trị của PEF là có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi điều
tra thái độ của bệnh nhân và gia đình theo bảng
câu hỏi thăm dò lấy ý kiến.
Bảng 5: Thái độ của bệnh nhân với ACT
Thông số
Đơn giản, dễ sử dụng
Tự mình ñánh giá mức ñộ ổn
ñịnh của bệnh
Tự theo dõi mức ñộ ổn ñịnh của
bệnh
Thuận tiện cho việc theo dõi lâu
dài
Không tốn kém
Mất ít thời gian

Số lượng
N=72

70
61

Tỷ lệ(%)

60

83

71

99

71
61

99
85

97
85

Kết quả bảng 5 cho thấy, đa số bệnh nhân và
gia đình đều cho rằng ACT là bộ công cụ để
đánh giá mức độ kiểm soát hen thuận tiện cho
việc theo dõi lâu dài và ít tốn kém (99%), đơn
giản, dễ sử dụng (97%). Bệnh nhân và gia đình
tự mình có thể đánh giá được mức độ ổn định
của bệnh và mất ít thời gian (85%), tự theo dõi
mức độ ổn định của bệnh (83%). Chỉ một số ít


BÀN LUẬN
Kiểm định giá trị theo dõi và điều trị dự
phòng của ACT

Bảng 1 cũng cho thấy tương quan giữa sự
thay đổi điểm số của ACT với sự thay đổi của
FEV1 (r = 0,58), tương quan giữa sự thay đổi
điểm số của ACT với sự thay đổi giá trị của PEF
(r = 0,67). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng
tương tự như nghiên cứu của Schartz M và cộng
sự, tương quan có ý nghĩa thống kê giữa sự thay
đổi của ACT với sự thay đổi giá trị của FEV1 (r =
0,29; p < 0,001)(10). Các nghiên cứu của các tác giả

4Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010
khác trên trẻ em hen phế quản tại Trung quốc,
Nhật bản và Singapore cũng cho kết quả tương
tự với chúng tôi(1,2,3,12). Như vậy, sử dụng ACT ở
những nơi không có điều kiện đo chức năng hô
hấp, cũng đánh giá được mức ổn định của bệnh
theo thời gian.
Sau 12 tuần điều trị dự phòng không có bệnh
nhân nào bậc hen xấu đi, giữ nguyên bậc có 4
bệnh nhân, đa số là bệnh nhân tốt lên 1 bậc
chiếm tỷ lệ 63%. Sự khác biệt giữa sự thay đổi
điểm ACT trung bình ở các nhóm thay đổi bậc

hen là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Các
nghiên cứu của Robert A. Nathan và cộng sự,
của Schartz M và cộng sự, khi nghiên cứu kiểm
định dài hạn về ACT trên lâm sàng cũng chỉ ra
rằng sau 12 tuần theo dõi bệnh nhân thì sự thay
đổi điểm ACT trung bình phân biệt được các
nhóm thay đổi bậc hen (p < 0,05)(7,10).
Kết quả bảng 3 cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa điểm ACT trung bình ở 2
nhóm cải thiện giá trị của FEV1 với p < 0,05. Hay
nói cách khác, ACT phân biệt được các nhóm
bệnh nhân cải thiện về giá trị của FEV1. Kết quả
này của chúng tôi cũng tương tự như của các tác
giả khác(10). Bảng 4 cũng cho kết quả tương tự về
mối tương quan giữa thay đổi ACT trung bình
với PEF ở cả 2 nhóm.
Như vậy ACT không những phân biệt được
các nhóm bệnh nhân cải thiện về giá trị của FEV1
mà còn phân biệt được các nhóm bệnh nhân cải
thiện về giá trị của PEF. Điều này nói lên rằng
bệnh nhân có thể tự theo dõi mức độ ổn định
của bệnh bằng ACT tại nhà khi không có điều
kiện đi khám bệnh và đo chức năng hô hấp. Tuy
nhiên theo một nghiên cứu khác lại cho thấy
không nên đánh giá quá cao một chỉ số nào, kể
cả các xét nghiệm hay thăm dò chức năng hô
hấp trong theo dõi hen ở trẻ em mà tốt nhất là
cần phải tổng hợp nhiều yếu tố(4).

(99%), đơn giản, dễ sử dụng (97%), tự mình

đánh giá mức độ ổn định của bệnh và mất ít
thời gian (85%), tự theo dõi mức độ ổn định
của bệnh (83%).
Như vậy ACT được người bệnh chấp nhận
và tin tưởng, đơn giản, dễ sử dụng, thuận tiện để
người bệnh có thể tự đánh giá mức độ kiểm soát
hen của mình khi không có điều kiện đi khám
định kỳ và đo chức năng hô hấp.

KẾT LUẬN
ACT đáp ứng được với các biến đổi của tình
trạng kiểm soát hen và chức năng hô hấp theo
thời gian đồng thời cũng phân biệt được các
nhóm khác nhau về sự thay đổi bậc hen theo
GINA, giá trị FEV1 và PEF.
ACT là bộ công cụ đơn giản, dễ áp dụng,
được bệnh nhân và gia đình chấp nhận và tin
tưởng để có thể tự đánh giá mức độ kiểm soát
hen của mình khi không có điều kiện đi khám
định kỳ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.


5.
6.

7.

8.

Thái độ của bệnh nhân với ACT
Từ kết quả ở bảng 5 cho thấy, đa số bệnh
nhân và gia đình đều cho rằng ACT là bộ công
cụ để đánh giá mức độ kiểm soát hen thuận
tiện cho việc theo dõi lâu dài và ít tốn kém

Nghiên cứu Y học

9.

10.

Asano M, Sugiura T, Miura K, Torii S, Ishiguro A, (2006):
Reliability and validity of the self-report Quality of Life
Questionnaire for Japanese School-aged Children with
Asthma (JSCA-QOL v.3). Allergol Int. 55(1):59-65.
Chen HH, Wang JY, Jan RL, Liu YH, Liu LF, (2008): Reliability
and validity of childhood asthma control test in a population
of Chinese asthmatic children. Qual Life Res. 17(4):585-93.
Chong LY, Chay OM, Shu-Chuen L, (2006): Is the childhood
asthma questionnaire a good measure of health-related
quality of life of asthmatic children in Asia?: validation among
paediatric

patients
with
asthma
in
Singapore.
Pharmacoeconomics. 24(6):609-21
Gandhi RK, Blaiss MS, (2006): What are the best estimates of
pediatric asthma control? Curr Opin Allergy Clin Immunol.
2006 Apr; 6(2):106-12.
GINA. Pocket guide for asthma management and prevention
in children, p1-28; 2006
Love AS, Spiegel J, (2006): “The Inner –City Asthma
Intervention tool kit: best practices and lessons learned”, Ann
Allergy Asthma Immunol (Suppl 1); p 36 – 39
Nathan RA, Sorkness CA, Kosinski M, (2004): “Development
of the asthma control test: a survey for assessing asthma
control”, Allergy Clin Immunol: 113 (1): p 59-65.
Nguyễn Tiến Dũng, (2008): Đánh giá mức độ kiểm soát hen
phế quản trẻ em bằng test kiểm soát hen. Y học thành phố Hồ
chí Minh; Tập 12; Phụ bản của số 4*; Tr 218-222.
Patton J, (2001): “Management of Chronic Asthma in
Children”. Manual of asthma management, 2th Edison. p339398.
Schatz M, Sorkness CA, Li JT, (2006). “Asthma Control Test:
Reliability, validity, and responsiveness in patients not

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

5



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

11.

12.

previously followed by asthma specialists”, J Allergy Clin
Immunol, 117 (3); p549-556.
Van den Nieuwenhof L, Schermer T, Eysink P, (2006): “Can
the asthma control questionnaire be used to differentiate
between patients with controlled and uncontrolled
assymptoms? A pilot study”, Fam Pract.
Zhou X, Ding FM, Lin JT, Yin KS, Chen P, He QY, Shen
HH, Wan HY, Liu CT, Li J, Wang CZ, (2007): Validity of
Asthma Control Test in Chinese patients. Chin Med J (Engl).
120(12): 1037-41.

6Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

Nghiên cứu Y học

7



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

8Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

Nghiên cứu Y học



×