Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chăm sóc cho bệnh nhân 6 giờ đầu sau phẫu thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.21 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

CHĂM SÓC CHO BỆNH NHÂN 6 GIỜ ĐẦU SAU PHẪU THUẬT 
Nguyễn Thị Mỹ Hiền*, Nguyễn Văn Chừng**, Nguyễn Văn Chinh** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thời gian 6 giờ đầu sau mổ là giai đoạn của nhiều rối loạn về sinh lý trên các tạng chính yếu 
của cơ thể; bệnh nhân cần phải được theo dõi chăm sóc một cách đặc biệt với các bác sĩ, điều dưỡng có khả năng 
và kinh nghiệm. 
Mục  tiêu  nghiên  cứu: Khảo sát kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân (CSBN) 6 giờ đầusau mổ của 
điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng đa khoa tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện hạng 1 trên địa bàn Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
Đối tượng‐phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 131 điều dưỡng hiện đang CSBN 
tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện Bình Dân, Nguyễn Tri Phương, 115, Nhân Dân Gia Định, Nhi Đồng 1 và 2 từ 
tháng 3/2013 đến tháng 5/2013 được phân thành 2 nhóm. Nhóm điều dưỡng gây mê hồi sức (n = 68) và nhóm 
điều dưỡng đa khoa (n = 63). Điều dưỡng được phát phiếu khảo sát kiến thức bằng bộ câu hỏi trắc nghiệm và 
quan sát thực hành CSBN tại phòng hồi tỉnh qua bảng kiểm kỹ thuật. 
Kết quả:Điều dưỡng CSBN 6 giờ đầu sau mổ đa phần là nữ giới chiếm tỉ lệ 78,6% và phần lớn có độ tuổi 
dưới 45 với tỉ lệ 91,6% và đa số trình độ chuyên môn trung học đạt tỉ lệ cao 74,8%. Phần lớn các nội dung về 
kiến thức và thực hiện kỹ thuật điều dưỡng đều có tỉ lệ trả lời và chăm sóc đúng trên 50%.  
Kết  luận:Nhóm  điều  dưỡng  gây  mê  có  điểm  kiến  thức  và  thực  hành  hay  tỉ  lệ  đúng  cao  hơn  nhóm  điều 
dưỡng đa khoa. Có bốn mối liên quan về kiến thức và ba mối liên quan với điểm thực hành giữa đặc tính dịch tễ 
học của điều dưỡng. 
Từ khóa: Chăm sóc bệnh nhân ngay sau mổ, phòng hồi tỉnh. 

ABSTRACT
PATIENT CARE PRACTICE AT 6 HOURS AFTER SURGERY 


Nguyen Thi My Hien, Nguyen Van Chung, Nguyen Van Chinh  
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 35 – 40 
Background:  Six  hours  after  surgery  end  time  is  the  stage  of  many  physiological  disorders  on  the  major 
organs of the body; patients need to be monitored with particular care with doctors, nursing has the ability and 
experience.  
Objectives: Knowledge surveys, patient care practices 6 hours after surgery of Nurse Anesthetists and
General Nurses at the first class hospitals in Ho Chi Minh City.
Research  methods:  The  cross‐section  study  descripts  131  nurses  who  are  working  in  recovery  room  at 
Nguyen Tri Phuong hospital, 115 Hospital, Gia Định Hospital, Pediatric Hospital no.1 and Pediatric Hospital 
no. 2 from March to May 2013.They are classified into two groups. Nurse Anesthetists (n = 68) and General 
Nurses (n = 63). Nursing knowledge was surveyed by the multiple choice questions and observed patient care 
practice at recovery room by using checklist.
Results: Most women, who care the patient for 6‐hour after surgery, comprise 78.6% and most of them are 
under age 45 with the ratio of 91.6% and a majority of qualified with 2‐year‐ training is high, ratio 74.8%. The 
majority of the content on knowledge and on‐the‐job implementation has a ratio of answers and proper care on 
* Đại học Y Dược Tp. HCM,  

** BV Nguyễn Tri Phương 

Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Mỹ Hiền,  

ĐT: 0983363762,  

Email:  

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

35



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
50%. 
Conclusion:  Nurse  anesthetists  have  the  knowledge  and  practice  of  the  correct  ratio  or  higher  general 
nurses. There are 4 relations of knowledge and 3 points of respect to the practice of epidemiology characteristics 
between nurse anesthetists and general nurses.  
Keywords: Patient care after surgery, recovery room.  

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thời gian sau mổ, nhất là thời gian khi người 
bệnh còn tác dụng của thuốc dùng trong gây mê 
và phẫu thuật, còn gọi là thời gian thoát mê rất 
quan trọng, đây là giai đoạn của nhiều rối loạn 
về  sinh  lý  trên  các  tạng  chính  yếu  của  cơ  thể 
người bệnh, bao gồm các biến chứng về hô hấp, 
tuần hoàn, thần kinh trung ương, tiêu hóa, thận 
niệu cho đến hệ vận động cơ xương khớp, cũng 
như hệ nội tiết(4,5,6). Để phát hiện sớm các tai biến, 
biến  chứng  xảy  ra  trong  thời  gian  này,  người 
bệnh cần phải được theo dõi chăm sóc một cách 
đặc biệt với các bác sĩ, điều dưỡng có khả năng 
và  kinh  nghiệm,  đồng  thời  cần  có  đầy  đủ  các 
phương tiện để theo dõi và bảo trì các chức năng 
quan trọng của người bệnh(9). 
Chăm  sóc  người  bệnh  tại  phòng  hồi  tỉnh 
làmột  chuyên  khoa  đòi  hỏi  phải  có  kỹ  năng(10). 
Do  vậy,  người  điều  dưỡng  làm  việc  tại  phòng 

hồi  tỉnh  vừa  là  người  nói  thay  người  bệnh 
những yêu cầu cần thiết, đồng thời vừa là người 
đáp ứng các yêu cầu đó; nhất là khi người bệnh 
đang trong thời gian chịu ảnh hưởng của gây mê 
và  có  trách  nhiệm  duy  nhất  là  chăm  sóc  người 
bệnh sau gây mê cho đến khi họ hoàn toàn có ý 
thức, gần như trở về trạng thái ban đầu(7). 
Tại  Việt  Nam  nói  chung,  ở  Thành  phố  Hố 
Chí Minh nói riêng hầu hết các bệnh viện đã có 
sự thống nhất điều trị người bệnh ngay sau mổ 
thuộc  quyền  quyết  định  của  bác  sĩ  gây  mê  hồi 
sức,  nhưng  lãnh  vực  theo  dõi,  chăm  sóc  người 
bệnh  ngay  sau  mổ  chưa  được  phân  công  phổ 
biến  cho  điều  dưỡng  gây  mê  hồi  sức  chủ  yếu 
vẫn  là  điều  dưỡng  đa  khoa.  Theo  tiêu  chuẩn 
nghiệp vụ các ngạch viên chức y tế điều dưỡng 
cho thấy rằng điều dưỡng gây mê hồi sức có đủ 
kiến thức, thực hành trong chăm sóc người bệnh 
6 giờ đầu saumổ (1). 

36

Đây là vấn đề cần phải tiến hành nghiên cứu 
đề  tài  nàynhằm  mục  đích  tìm  hiểu  kiến  thức, 
thực  hành  chăm  sóc  người  bệnh  6  giờ  đầu  sau 
mổvà  mối  liên  quan  giữa  đặc  điểm  của  đối 
tượng nghiên cứu với kiến thức, thực hành trong 
chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu sau mổ. 

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chí đưa vào 

Đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu  là  những 
điều dưỡng gây mê hồi sức (ĐDGMHS) và điều 
dưỡng đa khoa (ĐDĐK) ở khoa gây mê hồi sức 
đã  có  chăm  sóc  người  bệnh  (CSNB)  tại  phòng 
hồi tỉnh trong các bệnh viện hạng 1 trên địa bàn 
Thành phố Hồ Chí Minh; có thời gian làm việc từ 
12 tháng trở lên; tình nguyện tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chí loại trừ 

Điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng 
đa  khoa  đang  trong  thời  gian  tập  sự,  làm  việc 
bán thời gian hay cộng tác, đang trong thời gian 
chấp hành kỷ luật có thể làm ảnh hưởng đến kết 
quả nghiên cứu. 

Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu 

Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 

131 mẫu đạt yêu cầu chia thành hai nhóm 
Nhóm  Điều  dưỡng  gây  mê  hồi  sức:  68  điều 
dưỡng  
Nhóm Điều dưỡng đa khoa: 63 điều dưỡng 

Địa điểm và thời gian nghiên cứu 

Thu  thập  số  liệu  tại  khoa  Phẫu  thuật  –  gây 
mê  hồi  sức  các  bệnh  việnNguyễn  Tri  Phương, 
115,  Nhi  Đồng  1,  Nhi  Đồng  2,  Nhân  Dân  Gia 
Định, Bình Dân từ 15/3/2013 đến 15/5/2013. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
Phương pháp tiến hành 
Điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng 
đa khoa đồng ý tham gia nghiên cứu thì sau khi 
ký  giấy  đồng  ý  sẽ  được  phát  bảng  câu  hỏi  trắc 
nghiệm. 
Điều  dưỡng  trưởng  khoa  phân  công  cụ  thể 
lịch  làm  việc  của  từng  điều  dưỡng  trong  khoa 
cho  người  nghiên  cứu  quan  sát  thực  hành  dựa 
theo bảng kiểm kỹ thuật. 
Số  liệu  sau  khi  thu  thập  sẽ  được  phân  tích 
dựa trên phần mềm Stata 12.0. 

KẾT QUẢ 
Qua khảo sát có 131 mẫu được đưa vào phân 
tích. Kết quả như sau: 

Đặc tính chung của điều dưỡng 

Điều  dưỡng  chăm  sóc  bệnh  nhân 6 giờ  đầu 
sau mổ đa phần là nữ giới chiếm tỉ lệ 78,6% và 
phần  lớn  có  độ  tuổi  dưới  45  với  tỉ  lệ  91,6%.  Về 
trình  độ  chuyên  môn,  đa  số  trung  học  đạt  tỉ  lệ 
cao 74,8%, đại học chỉ 22,1%; 41,2% điều dưỡng 
tham  gia  có  thời  gian  công  tác  dưới  5  năm.  Về 
đời sống cá nhân, tỉ lệ có và chưa có gia đình là 
gần bằng nhau và hầu như tất cả đều có dưới 2 
con với tỉ lệ 95,4%. Về các nguồn cập nhật thông 
tin chăm sóc người bệnh, học hỏi kinh nghiệm từ 
đồng nghiệp chiếm tỉ lệ vượt trội với 84,6%; loại 
bệnh mổ ASA IV và ASA V có tỉ lệ thấp, các mặt 
bệnh  mổ  còn  lại  có  tỉ  lệ  tương  đương;  đa  phần 
đối tượng đều mong muốn được học thêm kiến 
thức về cách chăm sóc người bệnh tại phòng hồi 
tỉnh với tỉ lệ 84,7%. 

Tỉ  lệ  kiến  thức  đúng  về  chăm  sóc  người 
bệnh 6 giờ đầusau mổ 
Gồm  51  câu  hỏi,  được  chia  thành  3  nhóm 
dựa  theo  mức  độ  quan  trọng  trong  giai  đoạn 
chăm  sóc  người  bệnh  ngay  sau  phẫu  thuật.  Đa 
phần các nội dung đều có tỉ lệ trả lời đúng trên 

50%, 21 nội dung có tỉ lệ trả lời đúng trên 90%, 
bên cạnh đó vẫn còn 7 nội dung tỉ lệ trả lời đúng 
dưới  50%  thậm  chí  có  3  nội  dung  chỉ  đạt  tỉ  lệ 
dưới 30%. 

Tỉ  lệ  thực  hành  đúng  về  chăm  sóc  người 

bệnh 6 giờ đầusau mổ 
Phần thực hành người nghiên cứu quan sát 
theo bảng kiểm để đánh giá thực hành CSNB 6 
giờ đầu sau mổcủa điều dưỡng gây mê hồi sức 
và điều dưỡng đa khoa. Ngoại trừ truyền máu, 
tất  cả  các nội  dung  còn  lại đều  có trên 50%  đối 
tượng  thực  hành  đúng.  Tuy  nhiên,  đối  với 
những  yêu  cầu  đầu  tiên  khi  chăm  sóc  người 
bệnh  6  giờ  đầu  sau  phẫu  thuật  là  theo  dõi  cử 
động  2  chi  dưới  với  gây  tê  tủy  sống,  theo  dõi 
lượng máu mất, nâng hàm khi SpO2 dưới 95% và 
đặt nội khí quản khi người bệnh có suy hô hấp 
có tỉ lệ thực hành đúng chưa cao so với các nội 
dung khác. 

Mối liên quan giữa đặc điểm dịch tễ học của 
điều  dưỡng  với  điểm  kiến  thức  chăm  sóc 
người bệnh 6 giờ đầusau mổ:  
Bảng 1: Mối liên quan đặc điểm dịch tễ học của điều 
dưỡng với điểm kiến thức 
Đặc tính

Không
Biết
Phân loại
bệnh mổ
Không

Ý kiến
đào tạo

Không
Gây mê (kiến
thức)
Gây mê
(kiến thức, thực
Phân nhóm
hành)
Đa khoa
(kiến thức, thực
hành)
Thông tin
cập nhật

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

Điểm
(tổng =
126)
99,7
93,3
99,2
89,5
97,1
92,8

Độ lệch
Giá trị p
chuẩn
8,3
17,3

8,0
21,7
14,6
9,5

101

8,9

97,8

8,2

93,3

18,3

0,04
0,02
0,01

0,04

37


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014


 
Mối liên quan giữa đặc điểm dịch tễ học của điều dưỡng với điểm kiến thức chăm sóc người 
bệnh 6 giờ đầusau mổ:  
Bảng 2: Mối liên quan đặc điểm dịch tễ học của điều dưỡng với điểm thực hành 
Đặc tính
Nhóm tuổi

Thâm niên công tác

Phân loại bệnh mổ
Phân nhóm

Dưới 30
Từ 30 đến 45
Trên 45
Dưới 5 năm
Từ 5 đến 10 năm
Từ 11 đến 20 năm
Trên 20 năm
Trên 10 triệu
Không
Biết
Không
Gây mê
(kiến thức, thực hành)
Điều dưỡng (kiến thức, thực hành)

BÀN LUẬN 
Chăm  sóc  người  bệnh  là  một  công  việc  đòi 
hỏi sự cẩn thận và chu đáo, đặc biệt là chăm sóc 

người bệnh ở giai đoạn hậu phẫu, vì thế các đặc 
tính này dường như phù hợp ở nữ giới hơn phái 
nam. Qua khảo sát toàn bộ điều dưỡng chăm sóc 
ở khoa gây mê các bệnh viện, tỉ lệ nữ giới chiếm 
hơn ¾ trong mẫu nghiên cứu. Một nghiên cứu ở 
bệnh viện Johannesburg, Nam Phi(8) cũng có kết 
quả tương tự, 95,9% (n=47) điều dưỡng làm việc 
trong phòng hồi tỉnh là nữ và chỉ 4,1% (n = 2) là 
nam. Độ tuổi trung bình là 44 (25 đến 63), trung 
vị 41 tuổi. Bên cạnh đó, tỉ lệ nhân viên có trên 5 
năm  kinh  nghiệm  chiếm  tỉ  lệ  tương  đương 
(58,8%); đây là nguồn lực dồi dào và là điều kiện 
thuận  lợi  để  lớp  sau  học  hỏi  lớp  trước,  cộng 
hưởng  sức  mạnh  tuổi  trẻ  giúp  nâng  cao  chất 
lượng  chăm  sóc  người  bệnh.Tất  cả  đối  tượng 
đều đồng ý rằng điều dưỡng cần được đào tạo 
thêm kiến thức cũng như kỹ năng chăm sóc của 
điều  dưỡng  tại  phòng  hồi  tỉnh,  điều  này  cho 
thấy  trách  nhiệm  của  nhân  viên  đối  với  chính 
công  việc  đang  làm,  là  yếu  tố  quan  trọng  để 
nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh. 
Nhìn chung 51 câu hỏi về kiến thức, tỉ lệ trả 
lời đúng là rất cao chỉ 7 nội dung có tỉ lệ trả lời 

38

Điểm
(tổng = 27)
16,5
10,8

14,3
17,5
11,7
11,6
12,5
23,8
14,4
14,5
11,8

Độ lệch chuẩn
7,5
8,3
6,9
7,1
7,8
9,2
5,6
1,8
8,7
8,6
8,0

18,5

4,6

15,0

6,5


Giá trị p
0,004

0,003

0,05
0,0001

đúng dưới 50%, thậm chí có câu đạt gần 100%, 
điều  này  cho  thấy  chất  lượng  chăm  sóc  người 
bệnh  khâu  sau  mổ  ở  các  bệnh  việnhạng  1,  mặc 
dù tỉ lệ nhân viên có trình độ cử nhân và làm lâu 
năm  là  không  nhiều,  tuy  nhiên  kiến  thức  vẫn 
được họ cập nhật đầy đủ. Bên cạnh đó, chúng ta 
cũng cần lưu tâm đến 7 câu có tỉ lệ trả lời thấp, 
thậm chí chỉ đạt xung quanh mức 20%. 
Đây  là  giai  đoạn  đòi  hỏi  rất  nhiều  yếu  tố 
giúp  người  bệnh  phục  hồi  sức  khỏe  sau  phẫu 
thuật, trong đó 4 bước quan trọng nhất thiết phải 
có là theo dõi cử động hai chi dưới với gây tê tủy 
sống,  theo  dõi  lượng  máu  mất,  nâng  hàm  khi 
SpO2  dưới  95%  và  đặt  nội  khí  quản  khi  người 
bệnh có suy hô hấp có tỉ lệ thực hành đúng trên 
50%  nhưng  vẫn  chưa  cao  bằng  các  nội  dung 
khác.  Điều  này  có  thể  diễn  giải  từ  thực  trạng 
hiện  nay,  các  nhân  viên  y  tế  đều  nắm  rõ  lý 
thuyết và các thao tác chuyên môn, tuy nhiên do 
tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên, họ 
phải chăm sóc quá nhiều người bệnh khiến cho 

các  thao  tác  chưa  được  thực  hiện  đầy  đủ  như 
những gì được học. Đặc biệt ở nhóm điều dưỡng 
gây mê hồi sức các thao tác chăm sóc người bệnh 
ngay sau mổ hầu như đạt tỉ lệ 100%. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 

Nhân viên có cập nhật thông tin về chăm sóc 
người  bệnh  cao  hơn  nhân  viên  không  cập  nhật 
cho  thấy  mức  độ  quan  tâm  đến  việc  nâng  cao 
kiến  thức  trong  công  việc  mình  làm  có  ý  nghĩa 
rất  lớn.  Ý  thức  được  tầm  ảnh  hưởng  của  giai 
đoạn  hậu  phẫu  đối  với  sức  khỏe  người  bệnh, 
người  điều  dưỡng  cần  luôn  chủ  động  học  hỏi, 
tìm  tòi  thêm  kiến  thức  nâng  cao  tay  nghề.  Tuy 
nhiên,  nhân  viên  không  được  phân  công  hoặc 
không biết phân cấp mình đang chăm sóc có số 
điểm thấp, đây là vấn đề cần lưu ý, điều dưỡng 
chăm sóc cần nắm rõ mặt bệnh mình phụ trách 
sẽ  giúp  nhận  biết  mình  phải  làm  gì  để  kết  quả 
cuộc  phẫu  thuật  sẽ  theo  chiều  hướng  tốt  nhất. 
Nhóm những điều dưỡng có ý kiến nên đào tạo 
thêm về chuyên ngành chăm sóc người bệnh giai 

đoạn  hồi  tỉnh,  điểm  kiến  thức  cao  hơn  nhóm 
không  muốn.  Điều  dưỡng  gây  mê  không  trực 
tiếp chăm sóc người bệnh có điểm kiến thức cao 
hơn  2  phân  nhóm  còn  lại.  Đây  là  những  người 
đa số thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có độ 
chín trong tay nghề, luôn cập nhật các thông tin 
mới và tiếp thu chúng dễ dàng hơn so với nhóm 
những người  ít thâm  niên  hơn  khi  chưa đạt  độ 
thuần  thục  trong  nghề  nghiệp  vì  chưa  có  kinh 
nghiệm. Ngoài ra, những người này cũng là đối 
tượng  được  phân  công  chăm  sóc  các  mặt  bệnh 
đa dạng, hiểu và nắm rõ các cấp độ cần xử lý đối 
với một người bệnh sau phẫu thuật. 

có  và  chưa  có  con  tương  đương  nhau.  Điều 
dưỡng  đa  khoa  và  điều  dưỡng  gây  mê  có  tỉ  lệ 
tương đương nhau khi lấy mẫu toàn bộ các bệnh 
viện  đa  khoa  có  phòng  hồi  tỉnh,  trình  độ  điều 
dưỡng phần lớn vẫn là trung cấp cả ở nhóm đa 
khoa và chuyên ngành gây mê. Thâm niên công 
tác  từ 5 năm trở  lên  chiếm  gần 60%.  Trong  cập 
nhật thông tin về chuyên ngành mình đang công 
tác, đa phần họ cập nhật từ nhà trường. Việc cập 
nhật  thông  tin  xét  theo  tiêu  chí  cập  nhật  từ  ba 
nguồn thông tin trở lên, ngoài các kiến thức đã 
được  cung  cấp  trên  ghế  nhà  trường,  bổ  sung 
thêm  trong  quá  trình  làm  việc  (sách,  tạp  chí, 
internet, từ đồng nghiệp hoặc kinh nghiệm thực 
tế) tỉ lệ này chiếm khoảng 41%. Đa phần các điều 
dưỡng  tham  gia  trả  lời  bộ  câu  hỏi  đều  được 

phân  công  chăm  sóc  các  cấp  độ  từ  ASA  I  đến 
ASA V (91%). Tham khảo ý kiến chung về việc 
nên  đào  tạo  chuyên  ngành  chăm  sóc  hậu  phẫu 
cho điều dưỡng làm việc ở phòng hồi tỉnh, gần 
85% đồng ý với ý kiến trên. Trong quá trình thu 
thập số liệu, nghiên cứu viên cũng đã tham khảo 
ý kiến chuyên gia gây mê hồi sức mô hình chăm 
sóc  người  bệnh  ngay  sau  phẫu  thuật  tại  phòng 
hồi tỉnh, các chuyên gia cho rằng trên thực tế đã 
có  nhiều  tai  biến  xảy  ra  nhất  là  xử  trí  nhanh 
trong cấp cứu hô hấp cho người bệnh ngay sau 
mổ nên rất cần thiết phải có sự phối hợp chăm 
sóc  giữa  điều  dưỡng  gây  mê  hồi  sức  và  điều 
dưỡng đa khoa giai đoạn này. Điều dưỡng gây 
mê hồi sức đã được huấn luyện thành thạo các 
kỹ  năng  giải  phóng  đường  thở  như  nâng  hàm, 
đặt  nội  khí  quản,  kiến  thức  dược  động  lực  học 
giúp phát hiện sớm, đánh giá tác dụng của thuốc 
sử  dụng  trong  gây  mê  hồi  sức  ngay  từ  khi  còn 
ngồi  trên  ghế  nhà  trường.  Đây  cũng  là  vấn  đề 
cần  phải  đào  tạo  về  chuyên  ngành  cho  những 
điều  dưỡng  đa  khoa  khi  họ  được  phân  công 
chăm sóc người bệnh tại phòng hồi tỉnh. 

Tóm  lại,  trên  đối  tượng  là  các  điều  dưỡng 
làm  việc  trong  phòng  hồi  tỉnh  thực  hiện  chăm 
sóc  người  bệnh  sau  phẫu  thuật  tập  trung  phần 
lớn là nữ, trung bình khoảng 33 tuổi, tỉ lệ có gia 
đình nhiều hơn một ít so với người còn độc thân, 


Điểm  kiến  thức  và  thực  hành  có  mối  liên 
quan  với  các  đặc  điểm  về  độ  tuổi,  thâm  niên 
công  tác,  ý  kiến  nên  hay  không  trong  đào  tạo 
chuyên  ngành  cho  các  điều  dưỡng  chăm  sóc 
người  bệnh  phòng  hồi  tỉnh  và  nhất  là  3  yếu  tố 

Có sự khác biệt đáng kể ở nhóm điều dưỡng 
gây mê được đào tạo chuyên sâu và điều dưỡng 
đa khoa. Nhóm điều dưỡng đa khoa có điểm về 
thực hành thấp hơn nhóm còn lại. Đây là yếu tố 
quan trọng nhất trong chăm sóc người bệnh, đặc 
biệt là giai đoạn 6 giờ sau hậu phẫu, việc đào tạo 
chuyên ngành  cho  điều  dưỡng  chăm sóc người 
bệnh tại phòng hồi tỉnh là điều cần thiết và cũng 
được hầu hết điều dưỡng làm việc trong ngành 
nghề này ủng hộ. 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 

39


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
quan  trọng:  cập  nhật  thông  tin  thường  xuyên, 
nhận định mặt bệnh được phân công chăm sóc 
và phân nhóm điều dưỡng đa khoa và gây mê. 


chưa nắm rõ trong kiến thức cũng như lớp huấn 
luyện về các kỹ năng còn sai và thiếu sót trong 
thực hành.  

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 

Trong quá trình thực hiện đề tài theo chúng 
tôi, tại phòng hồi tỉnh cần có sự phân công chăm 
sóc  người  bệnh  6  giờ  đầu  sau  phẫu  thuật  nên 
phối hợp  giữa  đội ngũ điều  dưỡng gây mê  hồi 
sức  và  đa  khoa.  Điều  này  cần  nhân  rộng  trong 
tất cả khoa gây mê hồi sức các bệnh viện đa khoa 
cũng như chuyên khoa. 

Nghiên  cứu  khảo  sát  kiến  thức,  thực  hành 
của điều dưỡng chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu 
sau phẫu thuật lấy mẫu toàn bộ các điều dưỡng 
đã  hoặc  đang  làm  việc  tại  phòng  hồi  sức  khoa 
gây mê hồi sức các bệnh viện hạng 1 nên kết quả 
của nghiên cứu đã khái quát và tổng hợp hết các 
ý kiến của những người trực tiếp làm việc trong 
ngành  nghề  này.  Với  lưu  lượng  người  bệnh 
ngày càng tăng và bệnh lý phẫu thuậtphức tạp, 
đa dạng trách nhiệm của điều dưỡng giai đoạn 
trước,  trong  và  đặc  biệt  là  sau  mổ  đòi  hỏi  một 
sựchăm sóc đặc biệt. 
Tỉ lệ kiến thức đúng của điều dưỡng đa khoa 
và gây mê hồi sức làm việc trong phòng hồi tỉnh 
đạt  trên  60%.  Kết  quả  cho  thấy,  nhóm  điều 

dưỡng gây mê có điểm kiến thức hay tỉ lệ đúng 
cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa. 
Tỉ lệ thực hành đúng ở 2 nhóm điều dưỡng 
đa khoa và gây mê. Kết quả cho thấy, nhóm điều 
dưỡng gây mê có điểm thực hành hay tỉ lệ đúng 
cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa ở hầu hết các 
thao tác.  
Có  bốn  mối  liên  quan  giữa  đặc  tính  dịch  tễ 
học  của  điều  dưỡng  với  điểm  kiến  thức,  đó  là 
mối  liên  quan  về  giới  tính,  việc  cập  nhật  thông 
tin chuyên môn, bệnh mổ được phân công chăm 
sóc và về phân nhóm điều dưỡng. 
Có ba mối liên quan giữa đặc tính dịch tễ học 
của  điều dưỡng  với  điểm thực hành,  đó  là  mối 
liên  quan  về  nhóm  tuổi,  thâm  niên  công  tác  và 
về phân nhóm điều dưỡng. 
Từ kết quả của nghiên cứu, các nhận xét và 
so sánh với các đề tài liên quan, chúng tôi mong 
muốn xây dựng một chương trình theo chuyên 
đề  dựa  trên  các  nội  dung  còn  nhầm  lẫn  hoặc 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Bộ  nội  vụ  (2005)  Tiêu  chuẩn  nghiệp  vụ  các  ngạch  y  tế  viên 
chức điều dưỡng. 

2.

Đỗ Văn Dũng (2009) Hướng dẫn phân tích và sử dụng Stata, 

Khoa Y tế công cộng. 

3.

Lê Hoàng Ninh (2011) Phương pháp chọn mẫu và xác định cỡ 
mẫu trong nghiên cứu y học, Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh 
Tp.HCM, tr.30‐36. 

4.

Nguyễn Văn Chừng (2011). Chăm sóc bệnh nhân sau mổ. In: 
Nguyễn  Văn  Chừng.  Gây  mê  hồi  sức  cơ  bản,  tr.18‐33.  Nhà 
xuất bản Y học, Chi nhánh Tp. HCM. 

5.

Nguyễn Văn Chừng (2013). Hội chứng suy hô hấp người lớn. 
In:  Nguyễn  Văn  Chừng.  Gây  mê  hồi  sức  giản  yếu,  tr.36‐38. 
Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh Tp.HCM. 

6.

Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Văn Chinh (2010). Những đặc 
điểm  đường  thở.  In:  Nguyễn  Văn  Chừng.  Sử  dụng  mặt  nạ 
thanh  quản  để  kiểm  soát  đường  thở  trong  Gây  mê  hồi  sức, 
tr.14‐20. Nhà xuất bản Y Học, Chi nhánh Tp. HCM. 

7.

Manager OR (1998) ʺPatterson P.PACU Staffing. Staffing the 

recovery areas an art as well as a scienceʺ. 14 (4), pp.19‐22. 

8.

Scribane J, et al. (2011) ʺA pilot study to determine the profile 
of recovery room nurses in Johannesburg hospitalsʺ. South Afr 
J Anaesth Analg, 17 (5), pp.323‐327. 

9.

Van Aken H Prien T (1997) ʺThe perioperative phase as a part 
of  anesthesia.  Tasks  of  the  recovery  roomʺ.  Anesth Article  in 
German, 2 (46) 

10.

Wit  MA,  Bos‐Schaap  AJ,  Hautvast  RW,  Heestermans  AA, 
Umans  VA  (2012)  ʺNursing  role  to  improve  care  to  infarct 
patiets  and  patients  undergoing  heart  surgery:  10  years’ 
experienceʺ. Netherlands Heart J, 20, pp.5‐11. 

 
Ngày nhận bài báo:    

 

20/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  15/11/2014 
Ngày bài báo được đăng:  


 

05/12/2014 

 

 

40

 

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 



×