Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Tổng hợp Quan hệ kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 125 trang )

Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
MỤC LỤC
Trang
1. CÁC NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRONG QUAN HỆ KTQT 2
2. BÁN PHÁ GIÁ (BẢN 1) 6
3. BÁN PHÁ GIÁ (BẢN 2) 10
4. LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 16
5. TÀI TR XUẤT KHẨU 20
6. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ (BẢN 1) 29
7. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ (BẢN 2) 38
8. RÀO CẢN KỸ THUẬT (BẢN 1) 49
9. RÀO CẢN KỸ THUẬT (BẢN 2) 57
10. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 1) 68
11. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 2) 77
12. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 3) 89
13. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 4) 100
14. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 5) 109
15. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 6) 118
Trang 1
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
CÁC NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
PHÂN TÍCH CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI
VIỆT NAM THỰC THI ĐẦY ĐỦ CÁC NGUYÊN TẮC NÀY
TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
I. CÁC NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRONG QUAN HỆ KINH TẾ
QUỐC TẾ:
1/. Nguyên tắc “Tối huệ quốc” MFN –Most Favoured Nation:
a- Khái Niệm :
Đây là một phần của nguyên tắc “không phân biệt đối xử”


(Non- discrimination). Nghĩa là các bên tham gia trong quan hệ kinh tế
thương mại sẽ dành cho nhau những điều kiện ưu đãi không kém hơn
những ưu đãi mà mình đã hoặc dành cho nước khác.
Nguyên tắc này được hiểu theo hai cách:
Cách một: Tất cả các những ưu đãi và miễn giảm mà một
bên tham gia trong các quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế đã hoặc sẽ
dành cho bất kỳ một nước thứ ba nào, thì cũng được dành cho bên
tham gia kia được hưởng một cách không điều kiện.
Cách hai: Hàng hóa di chuyển từ một bên tham gia trong
quan hệ kinh tế thương mại này đưa vào lãnh thổ của bên tham gia kia
sẽ không phải chịu mức thuế và các tổn phí cao hơn, không bị chịu
những thủ tục phiền hà hơn so với hàng hóa nhập khẩu từ nước thứ ba
khác.
b- Bản chất :
Bản chất của nguyên tắc “Tối huệ quốc” là : Quy chế Tối
huệ quốc là không phải cho nhau hưởng các đặc quyền, mà là đảm bảo
sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền về các cơ hội giao dịch
thương mại và kinh tế
Mục đích của việc sử dụng nguyên tắc “Tối huệ quốc”
trong thương mại quốc tế là nhằm chống phân biệt đối xử trong buôn
bán quốc tế, làm cho điều kiện cạnh trang giữa các bạn hàng ngang
bằng nhau nhằm thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa các nước phát triển.
Mức độ và phạm vi áp dụng nguyên tắc MFN phụ thuộc vào mức độ
quan hệ thân thiện giữa các nước với nhau.
c- Cơ chế hoạt động:
Nguyên tắc MFN được các nước tùy vào lợi ích kinh tế của
mình mà áp dụng rất khác nhau, nhưng nhìn chung có 2 cách áp dụng :
+ Áp dụng chế độ tối huệ quốc có điều kiện : Quốc gia được hưởng tối
huệ quốc phải chấp nhận thực hiện những điều kiện kinh tế do chính
phủ của quốc gia cho hưởng đòi hỏi.

+ Áp dụng chế độ tối huệ quốc không điều kiện : là nguyên tắc nước
này cho nước khác hưởng chế độ MFN mà không kèm theo điều kiện
ràng buộc nào cả.
Theo tập quán quốc tế thì nguyên tắc Tối huệ quốc là
nguyên tắc điều chỉnh các mối quan hệ thương mại và kinh tế giữa các
nước trên cơ sở các hiệp định, hiệp ước ký kết giữa các nước một cách
bình đẳng và có đi có lại cùng có lợi.
Vì vậy để đạt được chế độ “Tối huệ quốc” của một quốc
gia khác thì có 2 phương pháp thực hiện:
+ Thông qua đàm phán song phương để ký kết các hiệp định thương
mại
+ Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
d- Nguyên tắc chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập GSP (The
Generalized Systems Preferential)
* Khái niệm:
Là chế độ tối huệ quốc đặc biệt của các nước công nghiệp
phát triển dành cho các nước đang phát triển khi đưa hàng công nghiệp
chế biến vào các nước này.
Nội dung chính của chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập là:
+ Giảm thuế hoặc miễn thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ các nước
đang hoặc kém phát triển.
+ GSP áp dụng cho các loại mặt hàng công nghiệp thành phẩm hoặc
bán thành phẩm và hàng loạt các mặt hàng công nghiệp chế biến.
* Bản chất :
Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân
biệt và không đòi hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát
triển.
Chế độ GSP không mang tính “có đi có lại”: không buộc
các nước được nhận ưu đãi theo chế độ GSP, phải cho các nước cho
hưởng những ưu đãi tương tự.

Chế độ GSP chỉ dành cho các nước đang phát triển : Đây là
chế độ thuế ưu đãi mà các nước công nghiệp phát triển dành cho các
nước đang phát triển. Cho nên trong quá trình thực hiện GSP, các nước
công nghiệp phát triển kiểm soát và khống chế các nước nhận ưu đãi
rất chặt, thể hiện ở cách quy định về nước được hưởng GSP
Trên cơ sở của Hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một
chế độ GSP cho riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi
khác nhau tuy nhiên mục tiêu của hệ thống GSP vẫn được đảm bảo.
* Các mục tiêu chính của GSP là:
+ Tạo điều kiện để các nước đang phát triển thấy được khả năng tiềm
tàng về mở rộng buôn bán phát sinh từ chế độ GSP và tăng cường khả
năng sử dụng chế độ này.
+ Tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước được hưởng.
+ Thúc đẩy công nghiệp hoá của các nước này.
+ Đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của những nước này.
+ Phổ biến thông tin về các quy định và thủ tục điều chỉnh buôn bán
theo chế độ này.
+ Giúp đỡ các nước được hưởng thiết lập những điểm trọng tâm trong
nước để tăng cường sử dụng GSP.
+ Cung cấp thông tin về các quy định liên quan đến thương mại như
thuế chống phá giá và chống bù giá, các quy định hải quan, thủ tục giấy
phép nhập khẩu, và pháp luật thương mại khác quy định các điều kiện
thâm nhập thị trường các nước cho hưởng.
Chế độ ưu đãi phổ cập mới không có giới hạn ưu đãi. Các
hạn ngạch trước kia, khối lượng xác định được miễn thuế hoặc các
mức trần hạn chế khối lượng hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi đã
được loại bỏ. Miễn giảm thuế được điều chỉnh theo mức độ nhạy cảm
của sản phẩm mà đã được chia làm bốn loại sau:
+ Các sản phẩm rất nhạy cảm ví dụ như : dệt may, quần áo ..
+ Các sản phẩm nhạy cảm ví dụ như sản phẩm da, giày dép ..

+ Các sản phẩm bán nhạy cảm ví dụ như đồ trang sức , hàng điện tử và
một số hàng da
+ Các sản phẩm không nhạy cảm vd: nội thất bằng gỗ, đồ chơi, trò
chơi, hàng thể thao..
* Cơ chế hoạt động:
- Những nước đang có chế độ ưu đãi phổ cập:
+Hiện nay, có khoảng 16 chế độ ưu đãi khác nhau đang
hoạt động tại 36 nước phát triển, bao gồm 27 nước thành viên của EU.
+ EU: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúc- xăm-bua, Anh,
Ailen, Đan mạch, Hylạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo, Thuỵ Điển,
Phần lan, Séc, Hungaria, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia,
Estonia, Malta, Síp, Bungari và Rumani
+ Nhật, Niu - Di - Lân, Thuỵ Sĩ, Nga, Mỹ, các quốc gia
trung lập (CIS), Canada, Na - Uy, Ôx-Trây-Lia, Ru-Ma-Ni.
- Nước được hưởng GSP:
+ Bao gồm những nước đang phát triển và những nước kém phát
triển. Các nước kém phát triển thường được hưởng một chế độ đặc biệt
riêng, có nhiều ưu đãi hơn các nước đang phát triển. Đối với mỗi quốc
gia dành ưu đãi, các nước được hưởng được liệt kê trong danh sách ban
hành kèm theo chế độ GSP.
- Hàng hoá được hưởng ưu đãi:
+ Hàng hoá được hưởng ưu đãi được phân loại thành hai
nhóm: các sản phẩm công nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp.
+ Danh mục hàng hoá được hưởng được các nước cho
hưởng ưu đãi ban hành có sửa đổi định kỳ và được xây dựng trên có sở
biểu thuế xuất nhập khẩu của nước đó.
+ Việc bổ sung hay loại bỏ một mặt hàng nào đó trong
Danh mục được các nước cho hưởng ưu đãi thực hiện dựa trên tình
hình sản xuất trong nước mặt hàng đó.
- Mức độ ưu đãi:

+ Các nước cho hưởng ưu đãi quy định thuế suất ưu đãi cho
chế độ GSP dựa trên mức thuế suất của chế độ đối xử tối huệ quốc
(MFN).
Trang 2
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
+ Nhìn chung, thuế suất ưu đãi theo chế độ GSP ở mức thấp
khoảng vài phần trăm hoặc được miễn hoàn toàn.
- Quy định đối với hàng hóa được hưởng chế độ GSP:
+ Không phải bất kỳ sản phẩm nào nhập khẩu vào các nước
cho hưởng từ những nước được hưởng đều được miễn hay giảm thuế
theo GSP. Để được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi GSP, hàng nhập
khẩu vào thị trường những nước cho hưởng phải thỏa mãn 3 điều kiện
cơ bản sau:
Điều kiện xuất xứ từ nước được hưởng
+ Điều kiện về vận tải (ví dụ như hàng vận chuyển không
qua lãnh thổ của nước thứ ba hoặc không bị mua bán, tái chế...tại nước
thứ ba)
+ Điều kiện về giấy chứng nhận xuất xứ ( chứng từ xác
nhận xuất xứ From A)
c.1) Điều kiện xuất xứ :
Mục đích chính của Điều kiện xuất xứ là đảm bảo là những
lợi ích của chế độ ưu đãi thuế quan theo Hệ thống ưu đãi phổ cập
(GSP) chỉ được dành cho những sản phẩm mà thực sự có được do thu
hoạch, sản xuất, gia công hoặc chế biến ở những nước xuất khẩu được
hưởng.
Một mục đích nữa là những sản phẩm xuất xứ ở một nước
thứ ba, ví dụ là một nước không được hưởng, chỉ quá cảnh qua, hoặc
đã chỉ trải qua một giai đoạn chế biến không đáng kể hoặc không ảnh
hưởng tới thành phần, bản chất của sản phẩm tại một nước được hưởng

ưu đãi, sẽ không được hưởng ưu đãi từ chế độ thuế quan GSP.
Có hai tiêu chuẩn được sử dụng để xác định hàng hóa có
thành phần nhập khẩu đã trãi qua “ quá trình gia công tái chế cần thiết”
hay chưa :
+Tiêu chuẩn gia công: những nguyên vật liệu, chi tiết hay
bộ phận nhập khẩu được coi là đã trãi qua “quá trình gia công tái chế
cần thiết” nếu như sản phẩm cuối cùng thu được nằm trong hạng mục
khác với những hạng mục của những nguyên vật liệu, chi tiết hay bộ
phận nhập khẩu sử dụng trong Biểu Thuế Quan Chung
+ Tiêu chuẩn tỷ trọng: Quy định tỷ lệ phần trăm tối thiểu
đối với lao động và nguyên vật liệu phải được sản xuất tại các nước
xuất khẩu hoặc quy định tỷ lệ phần trăm tối đa đối với nguyên vật liệu
nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu sang nước cho hưởng GSP. Và hàng
hóa đạt được tiêu chuẩn tỷ trọng thì mới được coi là sản phẩm thực sự
sản xuất tại các nước được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi. Ở các nước
công nghiệp phát triển khác nhau, cách quy định tiêu chuẩn về tỷ trọng
có khác nhau.
Ngoài ra còn có hai quy tắc khác, đó là : Quy tắc cộng gộp và quy tắc
bảo trợ :
* Quy tắc cộng gộp theo khu vực:
- Theo hệ thống này thì những nước cho hưởng sẽ ký kết một thỏa ước
với một khối nước trong khu vực cho phép rằng một hàng hóa có xuất
xứ tại bất kỳ một nước nào đó trong khu vực, cũng được coi là có xuất
xứ một nước khác trong cùng khu vực đó.
* Quy tắc bảo trợ:
- Một số nước như Úc, Canada, Nhật Bản, NewZealand, EU... áp dụng
quy tắc bảo trợ. Quy tắc này cho phép nguyên phụ liệu nhập từ nước
cho hưởng để sản xuất ra thành phẩm tại nước được hưởng sẽ có xuất
xứ của nước được hưởng với điều kiện sản phẩm này được xuất ngược
trở lại nước cho hưởng.

c.2) Điều kiện vận tải:
Quy định bắt buộc sản phẩm có xuất xứ phải được vận
chuyển thẳng từ nước được hưởng đến nước cho hưởng là một vấn đề
quan trọng phổ biến của tất cả các quy tắc xuất xứ GSP trừ của Úc.
Mục đích của quy định này là cho phép cơ quan hải quan nước cho
hưởng nhập khẩu bảo đảm rằng sản phẩm nhập khẩu chính là những
sản phẩm từ nước được hưởng, có nghĩa là chúng không bị tác động,
thay thế, gia công chế biến thêm hoặc được đưa vào buôn bán tại bất
kỳ nước thứ ba trung gian nào. Mỗi nước quy định điều kiện về vận tải
khác nhau. Dưới đây là quy định của một số nước:
+ Ca-na-đa, Cộng đồng Châu Âu, Nhật, Niu-di-lân, Na Uy và Thuỵ Sĩ
đều quy định:
(a) Sản phẩm phải được vận chuyển không qua lãnh thổ của
một nước thứ ba nào khác.
(b) Sản phẩm vận chuyển đi qua lãnh thổ của một nước
khác, có hoặc không có chuyển tải hoặc lưu kho ở nước đó, với điều
kiện sản phẩm đó vẫn nằm trong sự kiểm soát của hải quan của nước
quá cảnh hoặc lưu kho và không được mua bán hoặc được sử dụng tại
đó, và không trải qua các hoạt động nào khác ngoài hoạt động dỡ hàng,
xếp hàng và các hoạt động bắt buộc để bảo quản sản phẩm trong trạng
thái tốt.
Ngoài hai nội dung trên, mỗi nước trên lại có thêm quy định riêng
khác:
- Na-Uy và Thuỵ Sĩ quy định lô hàng có thể được chia nhỏ
và đóng gói lại, nhưng không được đóng gói để phục vụ bán lẻ.
- EU quy định vận chuyển qua nước thứ ba phải được
chứng minh là do điều kiện địa lý hoặc vì lý do yêu cầu vận tải. Những
sản phẩm được vận chuyển bằng đường ống liên tục qua lãnh thổ
không phải là lãnh thổ của nước được hưởng xuất khẩu hoặc lãnh thổ
của EU, được coi là được vận chuyển thẳng từ nước được hưởng đến

EU, và ngược lại.
- Nhật quy định vận chuyển qua nước thứ ba phải vì lý do
địa lý hoặc vì yêu cầu của vận tải. Nhật chấp nhận, trên nguyên tắc,
việc chuyển tàu hoặc lưu kho tạm thời dưới sự giám sát của cơ quan
hải quan nước quá cảnh. Việc chuyển tàu hoặc lưu kho tạm thời phải
được thực hiện tại khu vực ngoại quan hoặc những nơi tương tự.
- Niu-Di-Lân quy định những sản phẩm của một nước được
hưởng được phép đưa vào thương mại tại một nước được hưởng khác
mà không mất tiêu chuẩn xuất xứ.
- Na-Uy không có quy định về vận tải
- Mỹ quy định:
Những sản phẩm phải đến Mỹ sau khi rời khỏi nước sản
xuất. Quy tắc riêng áp dụng cho những chuyến đi qua khu vực mậu
dịch tự do tại nước được hưởng như sau:
(a) Hàng hoá không được đưa vào buôn bán tại nước có khu vực mậu
dịch tự do đó.
(b) Hàng hoá không được trải qua bất kỳ hoạt động nào khác ngoài:
+ Lựa chọn, phân loaị, hoặc kiểm tra;
+ Đóng gói, tháo mở bao bì, thay đổi bao bì, gạn chắt hoặc
đóng gói lại vào công ten nơ khác;
+ Dán hay ghi ký hiệu, nhãn hiệu, hoặc những dấu hiệu hay
những điểm hoặc bao bì phân biệt tương tự khác, nếu mang tính trợ
giúp cho những hoạt động được phép theo những quy định đặc biệt;
hoặc
+ Những hoạt động cần thiết để bảo đảm việc bảo quản
hàng hoá trong tình trạng bình thường khi được đưa vào khu mậu dịch
tự do;
(c) Hàng hoá có thể được mua và bán lại, không phải là bán lẻ, để xuất
khẩu trong khu mậu dịch tự do. Vì mục đích của những quy định đặc
biệt này, khu mậu dịch tự do là khu vực hoặc một vùng được xác định

trước đã được thông báo hoặc bảo hộ của chính phủ, ở nơi này những
hoạt động nhất định có thể được tiến hành đối với hàng hoá, trừ những
hàng hoá như vậy nhưng đã đi vào lưu thông thương mại của nước có
khu mậu dịch tự do.
+ Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga
và Slôvakia
+ Những nước này áp dụng quy tắc mua thẳng và vận
chuyển thẳng. Hàng hoá được coi là được "mua thẳng" nếu người nhập
khẩu đã mua chúng từ một công ty đăng ký tại nước được hưởng. Hàng
hoá xuất xứ từ nước được hưởng phải được vận chuyển tới nước cho
hưởng. Hàng hoá vận chuyển qua lãnh thổ một hoặc nhiều nước vì lý
do địa lý, vận tải, kỹ thuật hay lý do kinh tế cũng phải tuân theo quy tắc
vận tải thẳng thậm chí nếu chúng được lưu kho tạm thời tại lãnh thổ
những nước này, với điều kiện hàng hoá đó vẫn luôn nằm dưới sự kiểm
soát của hải quan nước quá cảnh.
c.3) Điều kiện về giấy chứng nhận xuất xứ:
Việc đòi ưu đãi từ chế độ GSP phải được chứng minh bằng
chứng từ phù hợp về xuất xứ và vận tải
* Chứng từ về xuất xứ
- Tất cả các nước cho hưởng đều quy định:
- Sản phẩm có xuất xứ khi nhập khẩu phải có Tờ Khai Tổng Hợp và
Giấy chứng nhận Xuất Xứ Mẫu A, đã được điền đầy đủ và ký bởi
người xuất khẩu và được chứng nhận bởi một cơ quan có thẩm quyền
tại nước xuất khẩu được hưởng.
- Các nước cho hưởng còn có các quy định thêm khác:
+ Úc, yêu cầu chính là lời khai của người xuất khẩu trên
hoá đơn thương mại. Mẫu A có thể được dùng để thay thế, nhưng
không yêu cầu phải có chứng nhận.
+ Canada, yêu cầu chính là lời trình bày của người xuất
khẩu trên hoá đơn hoặc làm thành bản riêng.

Trang 3
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
+ Niu-Di-Lân không đòi hỏi người xuất khẩu xuất trình
giấy chứng nhận xuất xứ hay tờ khai quy định chính thức, dù người
xuất khẩu có thể bị yêu cầu thẩm tra.
+ Nhật: Nhật chấp nhận giấy chứng nhận xuất xứ được cấp
bới cơ quan chính phủ (ví dụ: phòng thương mại)
* Chứng từ về vận chuyển thẳng:
- Đối với trường hợp xuất khẩu đến EU, Nhật, Na-Uy và Thuỵ Sĩ, hàng
hoá xuất khẩu đi qua lãnh thổ một nước thứ ba, chứng từ chứng minh
điều kiện vận chuyển thẳng đã được đáp ứng phải được trình cho cơ
quan hải quan nước nhập khẩu bao gồm:
+ Vận đơn suốt cấp tại nước xuất khẩu được hưởng, thể hiện
việc đi quan một hay nhiều nước quá cảnh; hoặc
+ Giấy chứng nhận của cơ quan hải quan của một hay nhiều
nước quá cảnh:
- Thể hiện mô tả chính xác hàng hoá;
- Ghi ngày dỡ hàng và xếp hàng hoặc ngày lên tàu hoặc
xuống tàu, ghi rõ tàu sử dụng;
- Xác nhận những tình trạng của sản phẩm trong khi đi qua
các nước quá cảnh.
+ Không có các giấy tờ trên, bất kỳ giấy tờ thay thế nào được
cho là cần thiết (ví dụ, bản sao lệnh mua hàng, hóa đơn của người cung
cấp hàng, vận đơn thể hiện tuyến đường hàng đi)
- Đối với hàng xuất sang Mỹ, người nhập khẩu có thể phải xuất trình
các giấy tờ hàng hải, hoá đơn hoặc các giấy tờ khác làm bằng chứng
chứng minh hàng hoá được nhập khẩu thẳng. Cơ quan hải quan Mỹ có
thể không đòi hỏi xuất trình chứng từ về vận chuyển thẳng khi cơ quan
này biết rõ rằng hàng hoá đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ GSP. Trong

trường hợp vận chuyển quá cảnh, hoá đơn, vận đơn và giấy tờ khác
liên quan đến vận tải phải được trình cho hải quan Mỹ nơi đến cuối
cùng.
e- Nguyên tắc đối xử quốc gia –NT ( National Treatment):
* Khái niệm:
- Nguyên tắc đối xử quốc gia là nguyên tắc tạo ra môi trường kinh
doanh bình đẳng giữa nhà kinh doanh trong nước và kinh doanh nước
ngoài trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và đầu tư. Cụ thể, hàng nhập
khẩu không phải chịu mức thuế, lệ phí, thủ tục kinh doanh, và bị áp đặt
những tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm cao hơn so với
hàng hóa sản xuất nội địa.
* Bản chất:
- Nguyên tắc đối xử quốc gia là không phải cho nhau hưởng các đặc
quyền, mà là đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền về
các cơ hội giao dịch thương mại và kinh tế.
- uyên tắc đối xử quốc gia áp dụng trong thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
* Cơ chế hoạt động:
- Nguyên tắc đối xử quốc gia chỉ được áp dụng một khi một sản phẩm,
dịch vụ hay quyền sở hữu trí tuệ nào đó đã vào thị trường nội địa.
Chính vì thế, việc đánh thuế quan đối với một loại hàng nhập khẩu
không được coi là vi phạm nguyên tắc này cho dù các sản phẩm sản
xuất trong nước không phải chịu loại thuế tương đương
II CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM :
- Hiệp định Thương Mại Việt Mỹ được ký kết tháng 7 năm 2000 và có
hiệu lực thực thi tháng 12 năm 2001
- Hiệp định Thương Mại Việt Mỹ được thiết lập dựa trên 2 Nguyên tắc:
Đối xử quốc gia và Đối xử Tối huệ quốc.
- Nội dung của Hiệp Định có thể khái quát trong 4 vấn đề cơ bản về
quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là:

 Thương mại hàng hóa
 Quyền sở hữu trí tuệ
 Thương mại dịch vụ
 Đầu Tư
* Tóm tắ́t cam kết thương mại hàng hóa của 2 phía Việt
Nam và Hoa Kỳ:
Phía Việt Nam Phía Hoa Kỳ
Hàng hóa Hoa Kỳ đưa vào Việt
Nam được hưởng Quy chế Tối
huệ quốc
Hàng hóa Việt Nam đưa vào Mỹ
được hưởng Quy chế Tối huệ
quốc
Hàng hóa Việt Nam đưa vào
Mỹ được hưởng Quy chế Tối
huệ quốc
Ngay lập tức và vô điều kiện, Việt
Nam có thể tổ chức phân phối
hàng hóa trên thị trường Mỹ.
Việt Nam cam kết giải quyết
tranh chấp thương mại với Hoa
Kỳ theo các thông lệ quốc tế
Hoa Kỳ cam kết giải quyết tranh
chấp thương mại với Việt Nam
theo các thông lệ quốc tế
- Việc thực thi Quyền Sở hữu Trí Tuệ được đặt trên Nguyên tắc Đối xử
quốc gia
- Về Thương mại dịch vụ:
+ Theo lộ trình, Chính phủ Việt Nam sẽ mở cửa thị trường
dịch vụ của mình cho các hoạt động dịch vụ của các công dân và công

ty Hoa Kỳ vào Việt Nam hoạt động dựa trên Nguyên tắc Tối huệ quốc-
MFN và Nguyên tắc Đối xử quốc gia –NT.
+ Quan hệ đầu tư giữa hai bên Hoa Kỳ và Việt Nam về cơ bản
được thiết lập dựa trên 2 nguyên tắc: Đối xử quốc gia và Đối xử Tối
huệ quốc.
+ Thượng viện Mỹ ngày 9/12 đã thông qua dự luật Quan hệ
thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam
+ Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) theo
luật Hoa Kỳ, cùng nghĩa với Tối huệ quốc (MFN) vô điều kiện quy
định trong WTO. Các thành viên WTO dành cho nhau quy chế Tối huệ
quốc, ngay lập tức, vô điều kiện.
+ Theo Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA)
ký tháng 7/2000 thì Hoa Kỳ mới dành cho Việt Nam quy chế Tối huệ
quốc - quan hệ thương mại bình thường có điều kiện, nghĩa là quy chế
này được xem xét gia hạn hàng năm.
+ Nay, Việt Nam trở thành thành viên WTO, Quốc hội Hoa
Kỳ phải thông qua luật dành cho Việt Nam PNTR - Quan hệ thương
mại bình thường vĩnh viễn.
+ Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào ngày 7 tháng11
năm 2006
+ Khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương Mại
Thế Giới WTO thì Việt Nam bắc buộc phải cam kết và thực hiện các
nguyên tắc của WTO.
Nguyên tắc đối xử quốc gia NT cùng với Nguyên tắc tối
huệ quốc MFN là hai nguyên tắc nền tảng quan trọng nhất của hệ
thương mại đa phương mà ý nghĩa thực sự là bảo đảm việc tuân thủ
một cách nghiêm túc những cam kết về mở cửa thị trường mà tất cả các
nước thành viên đã chấp nhận khi chính thức trở thành thành viên của
WTO.
Hiện tại Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO hiện có

khoảng 150 nước thành viên:
Tháng 7 năm 1995 Việt Nam chính thức trở thành hội viên của
ASEAN .
Hoạt động của khối ASEAN dựa trên Nguyên tắc bình
đẳng.Thông qua các chương trình hợp tác kinh tế giữa các nước
ASEAN để xây dựng ASEAN thành khu vực mậu dịch tự do AFTA
(Asean Free Trade Area).
- Bằng thực hiện kế hoạch thu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung –
CEPT (Common Effective Preferentical on Tariff).
- Thông qua các chương trình hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN,
các nước trong khối ASEAN cam kết thực hiện Nguyên tắc Tối huệ
quốc dành cho nhau .
- Một sản phẩm khi xuất khẩu sang các nước trong nội bộ ASEAN,
muốn được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi theo chương trình CEPT,
thì phải đồng thời thõa mãn các điều kiện sau :
+ Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của
nước xuất khẩu và nhập khẩu.
+ Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế đươc Hội
đồng AFTA thông qua
+ Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức
là phải thỏa mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên
ASEAN( hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%
Việt Nam cam kết thực hiện lộ trình giảm thuế theo
CEPT/AFTA
+Trên 10 ngàn mặt hàng thực hiện theo CEPT/AFTA
Trang 4
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
+ Theo Danh mục hàng hoá và mức thuế suất thuế nhập
khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định

CEPT/AFTA giai đoạn 2006-2013 (gọi tắt là Danh mục CEPT/AFTA),
có tổng số 10.342 mặt hàng đã được đưa vào danh mục cắt giảm thuế,
trong đó có 5.478 mặt hàng có thuế suất 0%; 10.283 mặt hàng có thuế
suất 0-5%. Thuế suất CEPT bình quân hiện nay là 2,48%.
+ Lộ trình xoá bỏ hoàn toàn thuế suất đối với toàn bộ các
sản phẩm nhập khẩu từ ASEAN theo CEPT kể từ năm 2015. Lộ trình
xoá bỏ thuế suất theo CEPT đã được các nhà hoạch định chính sách
chuẩn bị sẵn. Theo đó, mức thuế suất bắt đầu giảm để từ đó giảm
xuống 0% (xoá bỏ thuế quan) là mức thuế suất CEPT vốn dĩ đã ở mức
0-5% ngay từ năm 2006. Theo lộ trình hiện tại thì 97% số mặt hàng đã
có thuế suất 0-5%, trong đó trên 50% số mặt hàng đã có thuế suất 0%.
Đối với một số mặt hàng của các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, ôtô,
công nghệ thông tin, điện tử, y tế, sản phẩm cao su, may mặc và sản
phẩm gỗ sẽ được xoá bỏ thuế quan vào năm 2012. Tuy nhiên do Việt
Nam là một trong số những nước thành viên mới của ASEAN nên
được linh hoạt xoá bỏ thuế quan một số mặt hàng, nhóm mặt hàng đến
2018, thay vì 2015.
Từ tháng 3/1997, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định hợp tác
ASEAN – EU:
- Hiện tại EU có 27 nước thành viên gồm: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà lan,
Lúc- xăm-bua, Anh, Ailen, Đan mạch, Hylạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Áo, Thuỵ điển và Phần lan, Séc, Hungaria, Ba lan, Slovakia,
Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Síp, Bungari và Rumani.
Chính sách ưu đãi thuế quan mới của EU: Ngày
27/6/2005, Hội đồng Châu Âu đã thông qua các quy định mới về hệ
thống ưu đãi thuế quan (GSP). GSP mới sẽ có hiệu lực trong 3 năm từ
1/1/2006 đến 31/12/2008. Theo đó, hàng hóa của Việt Nam tiếp tục
được hưởng GSP như trước và không có mặt hàng nào, kể cả giày dép,
bị đưa ra khỏi danh sách được hưởng GSP mới.
Ngoài chính sách ưu đãi thuế quan mới của EU, chính sách

GSP của các nước phát triển dành cho Việt Nam :
* NHẬT BẢN
+ Hệ thống ưu đãi GSP của Nhật, dựa trên thoả thuận đạt
được tại UNCTAD, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của các
nước đang phát triển GSP của Nhật bắt đầu vào ngày 1/8/1971.
- Các sản phẩm được hưởng :
+ Sản phẩm nông nghiệp
- Nhật Bản dành ưu đãi cho một số sản phẩm hải sản và nông sản thuộc
74 hạng mục thuế quan.
+ Sản phẩm công nghiệp:
- Ưu đãi được dành cho tất cả các sản phẩm công nghiệp bao gồm
khoáng sản và lâm sản trừ một số sản phẩm thuộc 27 hạng mục thuế
quan.
- Ưu đãi thuế quan:
- Các sản phẩm nông sản:
+ Việc cắt giảm thuế, bao gồm cả miễn thuế, được áp dụng
cho nhiều sản phẩm thuộc chế độ.
+ Các sản phẩm công nghiệp:
- Các sản phẩm công nghiệp thuộc chế độ về nguyên tắc được miễn
thuế trừ một số sản phẩm thuộc 66 hạng mục thuế quan là những sản
phẩm được cắt giảm 50% thuế so với thuế suất Tối huệ quốc.
* NAUY
+ Các nước đang phát triển (Các nước GSP), theo Na-Uy, là
những nước mà vào bất kỳ lúc nào đều được cơ quan Na-Uy công nhận
là nước đang phát triển và được liệt kê trong "Danh sách các nước
GSP".
+ Các nước đang phát triển được chia thành hai nhóm.
Nhóm I bao gồm các nước GSP "chậm phát triển" (LDCs) và Nhóm II
bao gồm các nước GSP "bình thường". LDCs nói chung, theo tình hình
đặc biệt của họ, được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi tốt hơn so với các

nước đang phát triển "bình thường".
+ Việt Nam nằm trong danh sách các nước GSP bình
thường
+ Để được hưởng ưu đãi thuế quan khi nhập khẩu sản phẩm
hưởng GSP vào Na-Uy, các điều kiện sau phải được đáp ứng:
- Sản phẩm phải được làm tại nước đang phát triển được hưởng GSP
của Na-Uy.
- Sản phẩm phải được sản xuất tại nước đang phát triển được hưởng
liên quan tuân theo quy tắc xuất xứ của chế độ GSP Na-Uy.
- Sản phẩm phải được vận chuyển thẳng đến Na-Uy từ nước xuất khẩu
liên quan.
- Sản phẩm khi nhập khẩu vào Na-Uy (thông quan) phải được đi kèm
bằng chứng từ xuất xứ.
- Đề nghị hưởng ưu đãi GSP phải được đưa ra bởi người nhập khẩu khi
thông quan sản phẩm.
- Sản phẩm phải là những sản phẩm nói trong chế độ GSP Na-Uy dành
cho nước đang phát triển liên quan.
* THỤY SỸ
- Việt Nam nằm trong danh sách các nước được hưởng GSP của Thụy
Sỹ
+ Sản phẩm nông nghiệp:
- Thuỵ sỹ dàn ưu đãi cho lượng lớn sản phẩm nông nghiệp, dù đối với
một số trong đó bị áp dụng giới hạn. Những sản phẩm này được miễn
thuế trong mọi trường hợp hoặc ưu đãi giảm thuế. Những sản phẩm đối
với các nước kém phát triển bao gồm lượng lớn hàng nông sản. Hầu
hết được miễn thuế.
+ Sản phẩm công nghiệp.
- Thuỵ sỹ dành ưu đãi cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chịu thuế.
Những sản phần thuộc chế độ đều được miễn thuế trừ hàng dệt và
trang phục và tuy nhiên, đối với chúng ưu đãi là giảm 50% thuế bình

thường. Các nước kém phát triển đều được miễn thuế cho tất cả các sản
phẩm công nghiệp. Một số sản phẩm xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn
Quốc và Macao chỉ được giảm thuế.
* NGA
- Việt Nam nằm trong danh sách được hưởng GSP của Nga
III CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM THỰC THI VÀ
HƯỞNG CÁC NGUYÊN TẮC TRONG QUAN HỆ KINH TẾ
QUỐC TẾ:
Cơ hội của Việt Nam khi thực thi và được hưởng các nguyên tắc
này
+ Quan trọng nhất là thể chế và pháp luật của Việt Nam thay đổi
theo các tiêu chuẩn chung quốc tế để tạo ra hành lang pháp lý cho sự
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đây được coi là cơ sở nền tảng
cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, tham gia hội nhập thành công vào
nền kinh tế toàn cầu.
+ Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan của nước ta
tất yếu sẽ được hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa, công khai hóa và
thuận lợi, giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển mạnh, với chi
phí thủ tục thấp.
+ Hệ thống thuế quan của Việt Nam phải sửa đổi theo hướng
minh bạch, rõ ràng hơn (nguyên tắc dễ dự đoán) và có xu hướng giảm
giúp các doanh nghiệp có thể lập kế hoạch đầu tư và hoạt động thương
mại dài hạn.
+ Môi trường kinh doanh của Việt Nam sẽ được cải thiện theo
hướng thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế có thể cạnh tranh bình đẳng, không còn sự độc
quyền trong kinh doanh.
+ Môi trường đầu tư của Việt Nam được cải thiện theo hướng hấp
dẫn hơn, nhờ đó mà tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế.

 Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được hưởng Quy chế Tối huệ quốc khi đưa vào thị trường Mỹ, tính cạnh tranh về giá của sản phẩm gia tăng
đáng kể vì thuế nhập khẩu giảm, giảm bình quân từ̀ 40-70% xuống còn 3-7%.
 Thị trường xuất khẩu sẽ ngày càng được ổn định do có nhiều thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường. Chúng ta có thể dự báo được thị trường
cho hàng xuất khẩu dài hạn trong tương lai và tạo ra mối quan hệ thương mại chắc chắn hơn, góp phần tạo thuận lợi cho việc hoạch định các
chính sách về đầu tư và phát triển sản xuất công-nông nghiệp, giảm thiểu những rủi ro trong thương mại quốc tế.
 Là động lực kích thích các doanh nghiệp Việt Nam phải mau chóng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm mình trên thị trường trong và ngoài
nước.
 Hoạt động thương mại dịch vụ có điều kiện phát triển thuận lợi nên các doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam sẽ được hưởng các dịch vụ
chất lượng hơn, phong phú hơn, rẽ hơn nhờ đó chi phí kinh doanh hạ hơn, mức sống người lao động gia tăng.
Trang 5
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
 Việt Nam được hưởng các chính sách Chế độ thuế quan ưu đãi GSP của các nước phát triển là một cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu,
mở rộng thị trường tăng khả năng cạnh tranh so với nước không được hưởng chế độ ưu đãi này. Nhưng đây cũng là một thách thức lớn đối với
Việt Nam nếu như không được hoặc không còn hưởng chế độ này nữa.
Thách thức của Việt Nam khi thực thi và được hưởng các nguyên tắc này:
 Thách thức lớn nhất là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của từng nghành
và từng doanh nghiệp nói riêng còn yếu. Khi thực hiện các Nguyên tắc tối huệ quốc và Nguyên tắc đối xử quốc gia thì khi các nước đưa
hàng hóa và dịch vụ vào Việt Nam kinh doanh. Như vậy hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam phải trực diện đối đầu và cạnh tranh với hàng
xuất khẩu và các loại dịch vụ do các nước cung cấp vào Việt Nam.
 Một số doanh nghiệp nhà nước sẽ mất đi những đặc quyền đặc lợi trong hoạt động thương mại và dịch vụ đặc biệt trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu và phân phối.
 Doanh nghiệp Việt Nam phải tự cạnh tranh bình đẳng trong điều kiện mất đi sự bảo hộ, ưu đãi từ phía Nhà nước.
 Chế độ thuế quan ưu đãi GSP của các nước phát triển cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam nếu như không được hưởng nữa .
 Phải tái cơ cấu, cải tổ nền kinh tế, phải minh bạch và công khai chính sách ngoại thương, chính sách thuế.... làm giảm tính độc lập và tự
chủ của Chính phủ trong quản lý nền kinh tế.
 Nguyên tắc đối xử quốc gia và Nguyên tắc tối huệ quốc làm cho các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn
hơn khi phải cạnh tranh với các nhà đầu tư khác ví dụ như Hoa Kỳ... được hưởng quyền tương tự như mình: Cơ chế một giá được xác
lập, quyền tự do đầu tư nhiều hơn, thuế tương tự....
Trang 6

Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
BÁN PHÁ GIÁ & CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ - LIÊN HỆ THỰC TIỄN
I. BÁN PHÁ GIÁ:
1.Khái niệm bán phá giá:
- Pháp lệnh Giá của Việt Nam đưa ra định nghĩa : "Bán phá giá là
hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường
trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh
đúng pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
sản xuất kinh doanh khác và lợi ích Nhà nước".
- Trong thương mại quốc tế, theo quy định tại Điều 2.1, Hiệp định
Chống bán phá giá của WTO thì :
- Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi giá xuất khẩu sản phẩm
đó thấp hơn:
+ Giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại
thông thường ("giá trị thông thường")
+ Giá của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường
nước xuất khẩu.
- WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá sản phẩm tương tự
trong thị trường nội địa của một nước.
+ Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có
các đặc tính gần giống với sản phẩm là đối tượng điều tra.
+ Điều kiện thương mại thông thường: tuy không có định
nghĩa về điều kiện thương mại thông thường nhưng có một số trường
hợp, khi giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá
thành sản xuất thì có thể coi như là không nằm trong điều kiện thương
mại thông thường.
2. Nguyên tắc xác định phá giá:
+ Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông

thường (GTTT) - giá xuất khẩu (GXK)
+ Nếu BĐPG > 0 là có phá giá
+ BĐPG có thể tính bằng trị giá tuyệt đối hoặc
theo phần trăm theo công thức:
+ BĐPG = (GTTT-GXK)/GXK
a.)Tính biên độ phá giá ( BĐPG):
Cách tính GTTT
Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
- SPTT không được bán nước xuất khẩu trong điều kiện thương
mại thông thường; hoặc
- Có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc
- Số lượng bán ra không đáng kể (< 5% số lượng SPTT bán ở
nước nhập khẩu thì:
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba ; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý
chung…) + lợi nhuận
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế
phi thị trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do chính phủ
ấn định) thì các qui tắc trên không được áp dụng để xác định GTTT.
b.)Cách tính GXK:
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu
đầu tiên.
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do:
 Giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty;
hoặc
 Theo một thỏa thuận đền bù nào đó thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một
người mua độc lập ở nước nhập khẩu.
So sánh GTTT và GXK:
Để so sánh một cách công bằng GTTT và GXK, Hiệp định qui

định nguyên tắc so sánh như sau:
- So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất
xưởng/bán buôn/bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng;
- Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt.
Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức
tạp, vì không phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT
và GXK mà chỉ có mức giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị
trường nước xuất khẩu (GTTT+) và giá tính thuế hải quan, giá hợp
đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập khẩu (GXK+) nên
thường phải có một số điều chỉnh để có thể so sánh GTTT và GXK
một cách công bằng.
Điều chỉnh các chênh lệch trong:
- Điều kiện bán hàng
- Các loại thuế
- Số lượng sản phẩm
- Đặc tính vật lý của sản phẩm
- Và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá
3. Phân loại bán phá giá:
Có 3 loại bán phá giá:
 Bán phá giá dai dẳng
 Bán phá giá thường xuyên
 Bán phá giá không thường xuyên
Trong việc bán phá giá dai dẳng, thì hàng hóa liên tục được bán
với một giá thấp hơn so với giá cả trong nước nhập khẩu. Tình trạng
này là tình trạng mà trong đó hàng hóa đơn giản là hàng nhập khẩu
khác được bán dưới những điều kiện tối đa hóa lợi nhuận. Bất kỳ hàng
rào thương mại nào cũng sẽ dẫn đến một giá cả cao hơn đối với người
tiêu dùng trong nước nhập khẩu và ảnh hưởng của phúc lợi của chúng
Trong bán phá giá thường xuyên, một xí nghiệp nước ngoài sẽ
bán tại giá cả thấp cho đến khi những nhà sản xuất trong nước bị loại ra

khỏi thị trường; lúc đó giá cả sẽ gia tăng bởi sự độc quyền xuất hiện.
Những nhà sản xuất trong nước lúc đó có thể được lôi kéo trở lại thị
trường cho đến khi giá cả giảm xuống trở lại. Có một tranh luận có giá
trị cho việc bảo hộ với việc bán phá giá thường xuyên do việc di
chuyển nguồn lực lãng phí. Khi những nhân tố sản xuất di chuyển vào
và ra một ngành bởi ảnh hưởng của giá cả nhập khẩu thì chi phí và và
sự lãng phí đổ dồn cho xã hội
Việc bán phá giá không thường xuyên sẽ xuất hiện khi nhà sản
xuất nước ngoài (hoặc chính phủ) với một thặng dư sản phẩm tạm thời
xuất khẩu số này tại bất cứ giá nào mà nó cần. Việc bán phá giá theo
kiểu này có thể có những ảnh hưởng xấu tạm thời đến việc cạnh tranh
với những nhà cung cấp trong nước chủ nhà bởi việc làm gia tăng rủi
ro trong hoạt động của ngành. Những rủi ro này cũng như sự mất mát
phúc lợi từ việc di chuyển nguồn lực tạm thời có thể được tránh khỏi
bởi việc đưa ra chính sách bảo hộ, mặc dù những ảnh hưởng phúc lợi
khác có thể được đưa vào trong phân tích khi xem xét những hạn chế
thương mại. Tuy nhiên, việc bán phá giá thường xuyên dường như
không biện hộ được việc bảo hộ trong ngắn hạn.
4.Điều kiện xem xét bán phá giá:
- Theo Hiệp định, để áp dụng biện pháp chống bán phá giá, mỗi quốc gia
phải thông qua thủ tục điều tra và chứng minh được 3 yếu tố:
 Phải có hành vi bán phá giá của hàng hoá nước ngoài
trên thị trường trong nước
 Hành vi bán phá giá phải gây thiệt hại đáng kể, hoặc
đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất
trong nước của quốc gia nhập khẩu.
 Quốc gia nhập khẩu phải chứng minh được mối quan
hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại, hoặc
nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản
xuất trong nước mình.

* Xác định thiệt hại:
Định nghĩa thiệt hại:
 Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong
nước (thiệt hại hiện tại); hoặc
 Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành
sản xuất trong nước (thiệt hại tương lai); hoặc
 Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong
nước (không có qui định cụ thể).
Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau:
(i) Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá: có tăng một cách đáng
kể không?
(ii) Tác động của hàng nhập khẩu đó lên giá SPTT: giá của hàng nhập
khẩu đó:
- Có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không?
- Có làm sụt giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước nhập khẩu
không?
=> Khi sản phẩm thuộc diện điều tra được nhập khẩu từ nhiều nước:
đánh giá gộp tác động nếu BĐPG >= 2% GXK và khối lượng hàng
nhập khẩu từ mỗi nước >= 3% khối lượng nhập khẩu SPTT.
Việc khảo sát tác động của hàng nhập khẩu bị bán phá giá
đối với một ngành sản xuất trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố
Trang 7
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
kinh tế có thể ảnh hưởng đến ngành sản xuất đó, gồm những yếu tố
sau:
- Năng suất
- Thị phần
- Biên độ phá giá
- Giá nội địa ở nước nhập khẩu

- Suy giảm thực tế và nguy cơ suy giảm doanh
số bán hàng
- Số lượng hàng tồn kho
- Sản lượng
- Tình trạng thất nghiệp
- Lương
- Tác động tiêu cực đến luồng tiền
- Huy động năng lực
- Lợi nhuận
- Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư
- Đầu tư
- Khả năng huy động vốn
- Tốc độ tăng trưởng
Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập
khẩu và thiệt hại cho một ngành sản xuất trong nước: cần tính đến
những yếu tố khác (ngoài việc bán phá giá), nếu các yếu tố này gây
thiệt hại cho ngành sản xuất đó thì không được quy thiệt hại của ngành
sản xuất đó do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra.
* Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước :
Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần
xem xét:
 Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu
trong tương lai;
 Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu
dẫn đến khả năng tăng nhập khẩu;
 Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước
nhập khẩu;
 Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu
5. Chống bán phá giá, các hình thức chống bán phá giá:
Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì

chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (antidumping)
như: thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế
định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt
tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu,
trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay.
Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu
bổ sung đánh vào những hàng hóa bị bán phá giá ở nước nhập khẩu
nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phá giá đưa đến cho ngành
sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại
(nói chính xác đó là một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước).
Thuế này đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp
đặt chung cho hàng hóa của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra
trong Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng
thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu
từ những quốc gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ
áp đặt mức thuế chống phá giá ngang nhau. Mức thuế chống phá giá sẽ
phụ thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải
áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc
gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định.
* Có 2 hình thức thu thuế chống bán phá giá:
- Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Hoa kỳ):
+ Việc tính mức thuế được căn cứ vào số liệu của thời điểm
trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ quan chức
năng bắt đầu áp dụng một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp
dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu đánh giá lại mức
thuế (do giá xuất khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác
định lại số tiền thuế phải nộp trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18
tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau đó mức thuế mới sẽ được
áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày sau khi
xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp.

- Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU):
+ Cơ quan điều tra lấy số liệu của thời điểm trước khi điều
tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá trình áp
dụng thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu
nhà nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần trị giá cao hơn biên độ phá
giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét
việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau
khi nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc
hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định
hoàn thuế.
- Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp bán phá giá nào cũng bị áp
đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO cũng
như luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được
áp đặt khi hàng hóa được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe dọa
gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy,
nếu một hàng hóa được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng
không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước
nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện
pháp chống phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về sản lượng, mức tiêu thụ
trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm cho
người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong
nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành một ngành sản xuất
trong nước. Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: 1-
Biên độ phá giá từ 2% trở lên; 2- Số lượng, trị giá hàng hóa bán phá giá
từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ
trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hóa tương tự từ mỗi nước
có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hóa tương tự của các
nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên
7%).

II.VAI TRÒ VÀ TÁC HẠI CỦA BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ:
Tác động lớn nhất của bán phá giá là việc gây ra tổn thất vật
chất cho ngành sản xuất trong nước. Tổn thất này rất lớn xét trên cả
góc độ vĩ mô và vi mô. Trên góc độ vĩ mô, khi một ngành sản xuất bị
đe dọa sẽ dẫn đến việc phá sản của nhiều doanh nghiệp thuộc ngành
đó. Kéo theo đó là tình trạng mất việc làm của công nhân và các tác
động “lan chuyền” sang các ngành kinh tế khác. Trên góc độ vi mô, đối
mặt với hiện tượng bán phá giá, doanh nghiệp sẽ bị mất thị trường và
mất lợi nhuận. Đây thực sự là mối lo ngại không chỉ của các nước phát
triển mà của cả các nước đang phát triển, vì lợi thế so sánh của các
nước luôn thay đổi và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn trên thị
trường quốc tế.
Xét ở góc độ người tiêu dùng, việc hàng hóa nước ngoài được
bán phá giá sẽ mang lại những lợi ích cụ thể, trước mắt cho họ do mua
được hàng hóa với giá rẻ. Tuy nhiên, việc bán phá giá sẽ kéo theo hàng
loạt những tác động xấu cho các ngành sản xuất trong nước. Nó dần
dần bóp chết các ngành sản xuất non trẻ và thiếu sức cạnh tranh. Ngoài
ra, một khi hàng hóa bán phá giá đã chiếm lĩnh được thị trường thì các
nhà xuất khẩu chắc chắn không dừng lại ở đó mà họ sẽ nâng dần giá
hàng để thu lợi nhằm bù đắp những chi phí của việc bán phá giá. Lúc
đó, người tiêu dùng sẽ phải mua hàng hóa với giá cao.
Chống phá giá là một công cụ lợi hại mà các nước đang sử
dụng như một con bài để bảo hộ sản xuất trong nước và bảo đảm một
nền thương mại công bằng.
Thông thường thì tranh chấp liên quan tới bán phá giá chỉ
thuần tuý mang tính thương mại, nhưng đôi khi ẩn đằng sau lại là các
vấn đề có tính chính trị nhạy cảm tại nước nhập khẩu cũng như giữa
nước nhập khẩu với nước xuất khẩu. Tại nước nhập khẩu việc điều tra
và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá sẽ động chạm trực tiếp tới

lợi ích vật chất của hai nhóm lợi ích căn bản là những nhà sản xuất mặt
hàng tương tự và những người tiêu dùng mặt hàng đó, trong số này
phải kể tới những nhà sản xuất sử dụng mặt hàng này như đầu vào cho
quá trình sản xuất của họ.
Mặc dù lợi ích chung của toàn xã hội có thể bị giảm nếu áp
dụng biện pháp chống bán phá giá nhưng thông thường do sức mạnh
chính trị của các nhà sản xuất cao hơn của nhóm còn lại nên cơ quan có
thẩm quyền vẫn đưa ra những quyết định có lợi cho họ. Chính vì vậy
trong một số tranh chấp dù cho nước xuất khẩu rất tích cực vận động
nhưng do bối cảnh chính trị ở nước nhập khẩu mà kết quả cuối cùng
vẫn khó có thể thay đổi.
III. TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI :
Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời điểm cuối năm 2001, trên
thế giới đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và có tất
cả là 1066 lần áp dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số
cuộc điều tra). Điều này thể hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra
về chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế chống
bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là
các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm
công nghiệp cơ khí, v.v…
Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá
thường bị nước xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán
phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp.
Trang 8
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là
vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn
đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra rất nhiều mâu thuẫn,
ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì vậy,

các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế
chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước
mình.
Trong thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới,
đã có nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra đời. Căn cứ
thống kê từ năm 1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay
luôn thể hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát
triển so với các nước phát triển. Điều này được thể hiện bằng biểu đồ
dưới đây:
Một điểm cần quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp
dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước đang phát triển và
ngược lại. Các nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối
với các nước phát triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với
các nước đang phát triển.
IV. THỰC TIỄN BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở
VIỆT NAM. PHÂN TÍCH VỀ MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA TỪ
CÁC VỤ CHỐNG PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI CÁ DA TRƠN VÀ TÔM:
1. Tình hình hàng xuất khẩu của Việt Nam bị nước ngoài điều tra
và áp dụng thuế chống bán phá giá:
Hơn một thập kỷ qua Việt nam đã đạt được thành tựu ngoạn
mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, tình trạng
hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế
chống bán phá giá ngày càng tăng. Trong xu hướng nhiều nước trên thế
giới tăng cường sử dụng biện pháp chống bán phá giá như một công cụ
bảo hộ thì có thể dự kiến rằng trong thời gian tới chúng ta sẽ phải đối
phó với biện pháp này nhiều hơn khi kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt
hàng tăng mạnh.
2. Phân tích về một số bài học rút ra từ vụ chống phá giá đối với cá
da trơn:
a.) Khái quát về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ:

Chính sách chống phá giá của Hoa kỳ được thể hiện thông
qua Luật chống bán phá giá năm 1921. Sau khi WTO ra đời trên cơ sở
kết quả đàm phán của vòng Uruguay vào năm 1995, các quy định của
Hoa kỳ về chống bán phá giá phải tuân thủ theo Hiệp định về chống
bán phá giá của WTO. Trên cơ sở đó, Hoa kỳ đã ban hành Quy định về
chống bán phá giá và chống trợ cấp vào năm 1997, trong đó hướng dẫn
tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.
b.) Vụ cá da trơn:
* Khi “Catfish” không được gọi là “Catfish”
Câu

chuyện

về

vụ



da

t
rơn

không

bắ
t

đầu


vào

ngày
28

t
háng

6

năm

2002,

ngày

mà Hiệp

hộ
i

Doanh

ngh
i
ệp




da

trơn
Mỹ

(CFA)

gử
i

đơn

khở
i

kiện

lên

ITC



DOC



tuyên bố




sản
phẩm

philê



da

trơn

của

V
i

t

Nam

đã

bán

phá

giá.

Câu


chuyện
thực

chấ
t

đã

bắ
t
đầu

t


mộ
t

năm

t
rước

đó Vào

năm

2001,


các

nhà
sản

xuấ
t



da

trơn

của

Mỹ

sau

kh
i

bị các

nhà

sản

xuấ

t

Việ
t

Nam
cạnh

tranh

mạnh

mẽ

đã

phá
t

động

thành

công

mộ
t

ch
i

ến

dịch
t

i
cả

cấp

bang



liên

bang

để

cấm

các

nhà

sản

xuấ
t


Việ
t

Nam

sử
dụng

t


“catf
i
sh”

cho các

sản

phẩm

của

m
ì
nh.




da

t
rơn

Việ
t
Nam,

vốn

rẻ

hơn

g
i
á

t
hành



da

trơn

t


i

khu

vực Đông

Nam

của
nước

Mỹ,

đã

t
ăng

t


0,6

triệu

pao

vào

năm


1998

lên

26

tr
i
ệu
pao

vào năm

2001.


Hiệp

định

thương

mạ
i

giữa

Việ
t


Nam



Hoa

Kỳ


hiệu

l
ực

vào

ngày

10 tháng

12

năm

2001

đã

xoá


bỏ

thuế

nhập
khẩu

đố
i

vớ
i



da

trơn

của

V
i

t

Nam




thể

là mộ
t

trong

những
nguyên

nhân

của

sự

gia

t
ăng

đáng

kể

số

l
ượng


nhập

khẩu



vào
Mỹ

t
ừ 12,5

t
r
i
ệu

pao

vào

năm

2000

t

i


26

triệu

pao

vào

năm
2001.

Năm

2001,

giá

của



sản xuấ
t

t

i

Mỹ


đã

g
i
ảm

xuống

50

xu
mộ
t

pao,

t
ức

l
à

thấp

hơn

g
i
á


t
hành

khoảng

15

xu



thấp hơn
khoảng

30

xu

so

vớ
i

giá



vào

năm


2000.
Vào

năm

2001,

CFA

đã

phát

động

mộ
t

ch
i
ến

dịch

tiêu
t
ốn

500.000


đô

l
a

Mỹ

t
ấn

công vào



da

trơn

nhập

khẩu

theo

ba
yếu

t



sau:

(i)

đ
i
ều

k
i
ện

vệ

sinh

của



da

trơn

V
i

t


Nam, (ii)

vấn
đề

chủng

loại,



(iii)

sự

cạnh

tranh

không

lành

mạnh

của

các
nhà


sản

xuấ
t

V
i

t
Nam

khi

l

i

dụng

thị

trường

đã

được

phát
triển


bằng

nguồn

l
ực


i

chính

của

các

doanh nghiệp

Mỹ.
Để

chứng

m
i
nh

việc

các


nhà

sản

xuấ
t

V
i

t

Nam

đã

cố


nh

gây
l
ẫn

l
ộn

về


nhãn

mác, CFA

l
ập

l
uận

rằng



chỉ



g
i
ống



t

i

Bắc

Mỹ,



tên

gọ
i



Ictaluridae

-

mớ
i

t
hực

sự

là cá

da

trơn”

bấ

t

chấp
sự

thực





hơn

2.000

giống



da

t
rơn.

Họ

cũng

g
i


i

t
hích

rằng
“cá

da

trơn

chỉ



loạ
i



thuộc

dòng



tên


Latinh

Ictaluridae.
Giống



của

Việ
t

Nam thuộc

về

họ

Pangasiidae,

loạ
i



da

trơn
sống


t

i

Châu

Phi



Đông

Nam

Á’”.

Quy

định

về nhãn

h
i
ệu

sau

đó


được

mở

rộng

t

i

việc

cấm
mọ
i

hoạ
t

động

market
i
ng



bán

các


l
oạ
i

cá dướ
i

tên

catfish.
Những

quy

định

t
ương

t


về

nhãn

mác

cũng


được

ban

hành
t

i

các
bang

Mississipp
i
,

Louisiana,



Arkansas.

Các

nhà

sản

xuấ

t

Việ
t
Nam

sau

đó

ti
ếp
thị

sản

phẩm

của

m
ì
nh

dướ
i

t
ên





t
ra”

hoặc
“basa”.
c.) Tình tiết vụ việc:
Mặc





t
ranh

chấp

về

nhãn

hiệu,

sản

l
ượng


nhập

khẩu

của


basa



tra

của

V
i

t
Nam

vào

năm

2002

vẫn


đạ
t

số

l
ượng

36

t
r
i
ệu
pao,

cao

hơn

hẳn

năm

2001

(26

triệu


pao).
Tỷ

l


t
ăng

trưởng

của

sản

l
ượng

nhập

khẩu

t


năm
2000

đến


2002



187,4%



t
ăng trưởng

của

giá

trị

nhập
khẩu



127,5%.Vào

ngày

28
/
6/2002,


CFA



mộ
t

số

nhà

chế
biến



da

trơn

Mỹ

(Sau

đây

gọ
i

l

à

Bên

nguyên)

đã

nộp

đơn

l
ên
ITC



DOC

t
uyên

bố

rằng ngành

công

nghiệp




da

t
rơn

của

Mỹ
bị

chịu

thiệ
t

hạ
i

đáng

kể



nhập

khẩu


của



da

trơn Việ
t

Nam.


Vào

ngày

24
/
7/2002,

DOC

tuyên

bố

bắ
t


đầu

đ
i
ều

t
ra

vụ

án
chống

phá

giá

trên Công

báo

(67

FR

48437).

Việt Nam chưa phải là nước có nền kinh tế thị trường, ngay khi
DOC kết luận kinh tế Việt Nam là phi thị trường, con cá basa đã đối

mặt với muôn vàn khó khăn. Và cũng từ đây, vụ kiện bán phá giá đã
chuyển sang giai đoạn mới, trong đó, cá basa của Việt Nam được "giả
dụ" là đến từ Bangladesh.
* Các công ty Việt nam đối phó như thế nào với vụ kiện:
- Các biên sơ bộ:
+ Đối với bốn bị đơn bắt buộc trong cuộc điều tra này, Công
ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Thuỷ sản An Giang (“Agifish”), Công ty Xuất
Nhập khẩu Nông sản và Súc sản Cần Thơ (“Cataco”), Công ty Trách
nhiệm Hữu hạn Nam Việt (“Nam Việt”), và Công ty Trách nhiệm Hữu hạn
Vinh Hoan (“Vinh Hoan”), các biên sơ bộ dao động từ 37,94 đến 61,88%.
+ Đối với các nhà sản xuất/xuất khẩu Việt Nam tự nguyện trả
lời Phần A trong bản các câu hỏi điều tra của Bộ, và là các đối tượng mà
Bộ xác định được hưởng một mức riêng (Công ty Xuất nhập khẩu Nông
sản Thực phẩm An Giang (“Afiex”), Doanh nghiệp Chế biến Xuất khẩu
Súc sản và Ngư sản Cần Thơ (“CAFATEX”), Tổng Công ty Xuất Nhập
khẩu Hải sản Đà Nẵng (“Đà Nẵng”), Công ty Cá Mê Kông (“Mekonimex”),
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Lương thực QVD (“QVD”), và Công ty
Trách nhiệm Hữu hạn Hải sản Việt Hải (“Việt Hải”), chúng tôi ấn định
mức biên là 49,16%, căn cứ vào biên trung bình tính theo trọng lượng
của các bị đơn bắt buộc.
+ Các sản phẩm nhập khẩu của các nhà sản xuất/xuất khẩu
Việt Nam khác sẽ phải chịu mức chung dành cho Việt Nam là 63,88%.
+ DOC

ban

hành

phán


quyế
t



bộ

khẳng

định

việc
phá

giá

và trường

hợp

khẩn

cấp

vào

ngày

31/1/2003


(68

FR
4986).

Khẳng

định

việc

phá

g
i
á

và trường

hợp

khẩn

cấp

được
sửa

đổ
i


ngày

5



28/5/2003.

ITC

t


chức

phiên


t

xử

vào
ngày

17/6/2003.

DOC




phán

quyế
t

cuố
i

cùng

về

thuế

bán

phá
g
i
á



t
rường

hợp


khẩn cấp

vào

ngày

23/6/2003

(68

FR

37116)
3. Các giải pháp đối phó với các vụ kiện:
Việc tham gia các vụ điều tra chống phá giá đòi hỏi rất
nhiều kiến thức chuyên môn và cách ứng xử chuyên nghiệp. Mặc dù
thủ tục chống phá giá là thủ tục hành chính nhưng nó vẫn được coi
như là “bán tố tụng”. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp không
thể trả lời chỉ dựa trên cảm tính đơn thuần mà phải dựa trên bằng
chứng. Các doanh nghiệp cần ý thức được rằng các phản ứng cảm
tính có thể làm xấu đi mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và doanh
Trang 9
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
nghiệp chứ không làm nó tốt lên.

Do đó, các doanh nghiệp cần phải
coi việc chuẩn bị thông tin và dữ liệu cho cuộc điều tra là quan
trọng hàng đầu trong kế hoạch làm việc của họ.
Các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình điều tra phải

hợp tác với cơ quan điều tra. Thay vì việc cố gắng chứng minh “ai
đúng” và “ai sai” thì doanh nghiệp cần tập trung vào việc cung cấp
cho cơ quan điều tra tất cả các thông tin mà cơ quan này cần.
Điều quan trọng nhất không phải là chứng minh rằng “lẽ phải thuộc
về mình” mà là giảm thiểu mức áp thuế chống bán phá giá càng
thấp càng tốt.
Các doanh nghiệp không hợp tác trong vụ kiện cá da trơn
và vụ tôm đã bị áp mức thuế suất cao hơn nhiều so với các doanh
nghiệp được coi là hợp tác.
Tôn trọng thời hạn của các Bảng câu hỏi là rất quan
trọng. Những thông tin cung cấp muộn có thể bị cơ quan điều tra từ
chối chấp nhận và do đó, có thể dẫn tới thuế bán phá giá cao hơn.
Bên cạnh đó, thông tin do các doanh nghiệp cung cấp cũng có thể bị
từ chối chấp nhận nếu cơ quan điều tra cho rằng doanh nghiệp
không hợp tác đầy đủ hoặc là không trung thực.
Hợp tác với bị đơn khác trong quá trình điều tra cũng rất
quan trọng. Cơ quan điều tra chống phá giá có thể kiểm tra chéo các
thông tin do các bị đơn cung cấp. Thông qua việc phối hợp với các
bị đơn khác, doanh nghiệp có thể tìm thấy các sai sót hoặc sai biệt
trong thông tin của mình và sửa chữa nó trước khi báo cáo cho cơ
quan điều tra.
Vận động hành lang: vụ cá da trơn cho thấy rằng vận
động hành lang đối với ngành lập pháp là rất có hiệu quả. Tuy
nhiên các nhà sản xuất nội địa bao giờ cũng có ưu thế hơn các nhà
sản xuất nước ngoài trong lĩnh vực này. Vận động hành lang đối với
ngành hành pháp có hiệu quả hạn chế. Tuy nhiên vận động là cần thiết
vì nó có thể khiến cho cơ quan chống phá giá áp dụng các biện pháp
công bằng và hợp lý trong quá trình điều tra. Tuy nhiên, vận động
hành lang cần một chiến lược với các mục tiêu và mục đích rõ ràng.
Trong vận động hành lang, chứng cứ tạo ra sức thuyết phục mạnh

hơn là chỉ tiếp cận tới các đối tượng và đưa ra những lập luận cảm
tính đối với họ. Hợp tác với báo chí, các tổ chức có quyền lợi chung
và các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giành
sự ủng hộ của dư luận.
4. Các giải pháp cho các doanh nghiệp Xuất khẩu Việt Nam đẩy
mạnh xuất khẩu nhưng hạn chế bị kiện bán phá giá:
Từ vụ cá da trơn, vai trò của Hiệp Hội Doanh Nghiệp là
rất quan trọng. Hiệp hội là cơ quan điều phối mọi hoạt động liên
quan tới vụ kiện. Trước khi vụ kiện xảy ra, hiệp hội là cơ quan
theo dõi tình hình của ngành và vận hành cơ chế cảnh báo sớm.
Hiệp hội cũng chịu trách nhiệm trong việc tổ chức đào tạo cho các
thành viên để đối phó với việc điều tra chống bán phá giá cũng như
là người phát triển mạng lưới quan hệ ở quốc gia xảy ra vụ kiện.
Mỗi hiệp hội doanh nghiệp cần thành lập một nhóm chuyên trách để
chuẩn bị cho các vụ kiện chống bán phá giá. Các nhiệm
vụ chính
của nhóm chuyên trách này gồm:
+ Đánh giá mức khả năng hàng hoá của hiệp hội bị
kiện chống bán phá giá ở nước ngoài;
+ Nghiên cứu luật pháp về chống bán phá giá tại các thị
trường xuất khẩu chính của hiệp hội;
+ Làm việc với luật sư và các kinh tế gia chuyên ngành
về chống bán phá giá để nghiên cứu các vụ kiện trước đây tại các
quốc gia mà hàng hoá Việt Nam có khả năng bị kiện để tìm hiểu
chiến thuật và chiến lược của ngành công nghiệp nội địa tại quốc
gia đó cũng như quan điểm của cơ quan quản lý chống bán phá
giá;
+ Làm việc với các thành viên hiệp hội để hoàn thiện
tiêu chuẩn kế toán nhằm đáp ứng các đòi hỏi của việc điều tra
chống bán phá giá;

+ Hoạch định một kế hoạch nhằm hợp tác giữa các thành
viên của hiệp hội trong trường hợp bị kiện.
Việc gia nhập WTO giúp chúng ta mới tránh được sự phân
biệt đối xử trong thương mại, bao gồm cả việc giải quyết các tranh
chấp về bán phá giá. Hơn nữa, ta có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh
chấp có hiệu quả và khá công bằng của WTO. Chẳng hạn, từ 1995 tới
10/2000 đã có tổng cộng 186 vụ tranh chấp thương mại được giải quyết
trong WTO, trong đó có 24 vụ liên quan tới bán phá giá (13%). Trong
số 24 vụ tranh chấp này thì Hoa kỳ bị kiện 7 vụ, EU 2 vụ, các nước
đang phát triển 7 vụ. Trong năm 2001 có 8 vụ kiện về bán phá giá thì
Hoa kỳ bị kiện tới 3 vụ.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 90/2005/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu vào VN. Đây vừa là công cụ pháp lý bắt buộc phải
có để đối phó với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam, vừa là
vũ khí tốt giúp cho đàm phán với các nước khác theo kiểu “nếu anh
điều tra phá giá với hàng của tôi thì tôi cũng sẽ điều tra phá giá với
hàng của anh”.
5. Những giải pháp khi thua kiện hoàn toàn:
* Đa dạng hóa thị trường:
Bài học đầu tiên từ vụ cá da trơn là khi ưu thế cạnh tranh
của các nhà sản xuất nội địa giảm sút, thị phần của họ suy giảm, họ
có thể sử dụng mọi biện pháp có thể để ngăn cản hàng nhập khẩu.
Chống phá giá chỉ là một trong các biện pháp mà người sản xuất nội
địa có thể sử dụng. Bài học thứ hai là: các nhà sản xuất nội địa có
nhiều ưu thế hơn các nhà sản xuất nước ngoài trong việc vận động
hành lang đối với ngành lập pháp.
Những ưu thế này là :
(i) kiến thức của họ về nền chính trị tại nước họ,
(ii) tính “địa phượng cục bộ” của nền chính trị các

quốc gia lớn như Hoa Kỳ,
(iii) sự hiểu biết và kinh nghiệm trong các hoạt động
quan hệ quần chúng (public relations) tại quốc
gia đó, và
(iv) hệ thống quan hệ của họ.
Do đó, các nhà sản xuất trong nước có nhiều cơ hội trong
việc ngăn cản hàng ngoại nhập hơn là ngược lại. Đa dạng thị
trường xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp Việt Nam giảm thiểu các
ảnh hưởng xấu trong việc xuất khẩu sang một quốc gia bị ngăn cản.
Thực tế năm 2007 Bộ Thủy sản cho biết sản phẩm cá tra, ba sa
đạt mức tăng trưởng nhanh nhất. Dự kiến cả năm, sản lượng cá
tra, ba sa xuất khẩu đạt 210.000 tấn, trị giá khoảng 560 triệu USD.
Đáng nổi bật là giá trị kim ngạch xuất khẩu cá tăng mạnh ở hầu
hết các thị trường. Cá tra, ba sa được tiêu thụ mạnh ở EU và Đông
Âu. Nga nhập gần 54,9 triệu USD cá tra, ba sa Việt Nam, bằng
2.751% so với năm 2005. Ba Lan đạt 45 triệu USD, bằng 858% so
với năm 2005. Điều này chứng tỏ thị trường cá tra, ba sa tại Nga,
Đông Âu và EU rất có triển vọng.
Nga đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của cá tra, basa
Việt Nam,
Số liệu từ Tổng cục Thống kê, năm 2006, bất chấp những sức ép cạnh
tranh và rào cản thương mại mới, thủy sản Việt Nam vẫn đạt kim
ngạch xuất khẩu 3,36 tỷ USD, vượt hơn nửa tỷ USD so dự kiến kế
hoạch năm.Việt Nam Phấn đấu đạt 72,5 tỷ USD giá trị xuất khẩu vào
năm 2010.
* Xây dựng thương hiệu mạnh:
Vụ cá da trơn có một hệ quả mà VASEP không ngờ tới.
Sau khi DOC áp dụng thuế bán phá giá đối với cá da trơn Việt Nam,
lượng xuất khẩu cá da trơn của VASEP tới các thị trường khác tăng
vọt(ví dụ EU, Nhật, Úc). Người Việt Nam cũng bắt đầu sử dụng cá

da trơn trong bữa ăn. Lý do khá đơn giản, cá da trơn được giới truyền
thông quan tâm và là đề tài nóng hổi – dù rằng chỉ trong thời gian
ngắn nhưng cũng đủ để người tiêu dùng Mỹ và các quốc gia khác
biết về sản phẩm. Kinh nghiệm này cho thấy rằng, chất lượng tốt và
giá rẻ là chưa đủ cho một sản phẩm để thâm nhập thị trường nước
ngoài. Thương hiệu mạnh và các biện pháp marketing phù hợp là cần
thiết
Trang 10
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRƯỚC NGUY CƠ
BỊ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI
THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
I. Khái niệm:
- “Bán phá giá” xảy ra khi một nhà sản xuất nước ngồi bán sản phẩm
thấp hơn giá trị thơng thường của sản phẩm đó tại thị trường của nước
nhập khẩu.
- Giá trị thơng thường có thể là giá bán tại thị trường nội địa, thị trường
của một nước thứ ba, giá trị cấu thành hay các yếu tố sản xuất trong
trường hợp quốc gia xuất khẩu là một nước có nền kinh tế phi thị
trường.
II. Ngành dệt may Việt Nam đối mặt với những đơn kiện chống
bán phá giá:
- Cuối tháng 9/2006, Chính phủ Mỹ tun bố sẽ chủ động điều tra
chống phá giá đối với Việt Nam nếu số liệu cho thấy hàng dệt may của
Việt Nam bán phá giá.
- Chính phủ Mỹ sẽ theo dõi số liệu nhập khẩu, thu thập số liệu sản xuất
từ ngành cơng nghiệp nội địa của Mỹ và kiểm tra định kỳ 6 tháng để
xác định liệu có thể khởi kiện hay khơng.
- Vì Việt Nam đã được chính thức kết nạp vào WTO từ ngày

7/11/2006, nên đợt kiểm tra số liệu đầu tiên của Chính phủ Mỹ sẽ diễn
ra vào mùa hè năm 2007.
- Số liệu bị kiểm tra sẽ bao gồm trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 6
năm 2007
- Tất cả sản phẩm dệt (textile) và may (apparel) xuất sang Mỹ, đặc
biệt là quần, áo sơ-mi, đồ lót, đồ bơi và áo len sẽ là sản phẩm
mục tiêu.
- Đại diện Thương mại Hoa Kỳ hứa sẽ theo dõi hàng nhập khẩu từ Việt
Nam “trong thời gian của chính quyền này (chính quyền Bush)”, tức là
đến hết 2008.
III. Cơ chế giám sát hàng Dệt May Việt Nam của Hoa Kỳ (đang
lấy ý kiến, chưa thông qua):
1/. Tóm tắt nội dung chương trình giám sát:
- Nhóm sản phẩm dự kiến giám sát: quần dài, áo, đồ lót, đồ bơi, áo len
(dự kiến xác định theo CAT, mã 3 số - dữ liệu tập hợp để giám sát sẽ
thực hiện theo mã 10 số)
- Quy trình sản xuất mẫu (danh mục chi phí sản xuất): sẽ được xác định
khi cần thiết
- Giai đoạn giám sát: Việc phân tích các thơng tin thu thấp trong q
trình giám sát sẽ được thực hiện 6 tháng 1 lần
2/. Các nhóm vấn đề bất cập liên quan đến chương trình giám sát:
a- Căn cứ pháp lý:
- Việc giám sát khơng phù hợp với quy định của WTO về điều tra
chống bán phá giá và ngun tắc khơng phân biệt đối xử;
- Khơng thoả mãn điều kiện nào để tiến hành giám sát theo pháp luật
Hoa Kỳ;
- DOC khơng có thẩm quyền tiến hành giám sát
b- Về đối tượng giám sát
- Danh mục sản phẩm dự kiến giám sát q rộng, chưa được cụ thể hố
- Các sản phẩm dự kiến giám sát (được xem là nhạy cảm) khơng phải

là những sản phẩm được sản xuất bởi các đơn vị đã lobby để thiết lập
cơ chế giám sát này (trong khi bản thân các đơn vị sản xuất những sản
phẩm này lại khơng có nhu cầu và do đó khơng u cầu DOC giám
sát).
c- Về thủ tục giám sát
- Chưa thiết lập được các ngun tắc, các phương pháp và bước giám
sát cụ thể >> khơng đảm bảo tính khả đốn, minh bạch
- u cầu đối với thủ tục giám sát:
+ Tất cả các bước của q trình giám sát phải có sự tham
gia bình luận và cung cấp thơng tin của các bên liên quan (các bên trực
tiếp sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, bán lẻ nhóm sản phẩm thuộc diện
bị giám sát), đặc biệt là phải tư vấn cộng đồng doanh nghiệp dệt may
VN;
+ Các thơng tin liên quan đến CTGS (từ thủ tục, phương
pháp, nguồn số liệu, báo cáo giám sát…) phải được cơng khai hố trên
Internet
IV. Những điểm chính của luật Chống Phá Giá Hoa Kỳ:
- Cho phép Chính phủ Hoa Kỳ áp đặt thuế chống bán phá giá để bù trừ
việc hàng nhập khẩu bán ở mức “khơng cơng bằng” và gây thiệt hại
cho một ngành cơng nghiệp của Hoa Kỳ
- Để áp đặt thuế chống bán phá giá, chính phủ Hoa Kỳ phải xác định
rằng hàng hố nhập khẩu:
+ đã bán ở mức “thấp hơn giá trị bình thường”
+ gây ra hoặc đe dọa gây ra “thiệt hại vật chất”
- Vai trò của Bộ Thương Mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy Ban Thương Mại
Quốc Tế Hoa Kỳ (ITC):
+ Thông thường Bộ Thương Mại Hoa Kỳ (DOC) bắt đầu căn
cứ vào đơn kiện của một nhà sản xuất Hoa Kỳ, một nhóm các
nhà sản xuất Hoa Kỳ, hoặc một liên đoàn lao động Hoa Kỳ
để tiến hành điều tra.

+ Trong một số rất ít trường hợp, DOC có thể “tự tiến hành”
điều tra.
- Giá bán vào Hoa Kỳ được xem là “thấp hơn giá trị bình thường” nếu
giá bán được điều chỉnh tại Hoa Kỳ thấp hơn giá so sánh:
+ Giá bán tại thị trường trong nước – khơng áp dụng
cho Việt Nam
+ Giá bán tại nước thứ ba – khơng áp dụng cho Việt
Nam
+ “Giá áp đặt” – áp dụng cho Việt Nam (thông
thường là giá từ thò trường Bangladesh và n Độ),
trong đó bao gồm:
• Các yếu tố tiêu thụ thực tế
• Giá trị thay thế
Minh hoạ:
Trang 11
Các yếu tố SX thực tế và giá trò
thay thế
Giá bán, chi phí quản lý và chi phí
chung của nước thay thế
Lợi nhuận từ nước thay thế
Giá trị áp đặt áp
dụng cho các
nước khơng có
nền kinh tế thị
trường
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
* Phương pháp tính biên độ phá giá đối với nền kinh tế phi thò
trường (NME):
- Bước 1: Tính giá ròng cho mỗi đợt bán hàng vào Hoa Kỳ

- Bước 2: Tính bình quân có trọng số cùng với giá ròng của mỗi số
hiệu kiểm soát của Hoa Kỳ (sản phẩm được sử dụng để khớp nhau
như được DOC đònh nghóa)
- Bước 3: Tính giá trò thông thường căn cứ vào các yếu tố sản xuất
đối với số hiệu kiểm soát của Hoa Kỳ
- Bước 4: Tính biên độ trên mỗi đơn vò đối với từng số hiệu kiểm
soát của Hoa Kỳ
- Bước 5: Nhân biên độ trên mỗi đơn vò với số lượng của số hiệu
kiểm soát của Hoa Kỳ
- Bước 6: Cộng tất cả các biên độ phá giá (ví dụ: kể cả các biên độ
âm và dương đối với tất cả số hiệu kiểm soát).
- Bước 7: Chia tổng các biên độ phá giá cho giá trò của các đợt bán
hàng vào Hoa Kỳ để có biên độ phá giá bình quân có trọng số
chung.
- Bước 8: Xác đònh biên độ chung có lớn hơn 2% hay không; nếu
lớn hơn, thì kết luận có bán phá giá.
- Bước 9: Nếu biên độ phá giá chung do DOC tính tại quyết đònh
cuối cùng nhỏ hơn 2%, thì kết thúc điều tra nhà sản xuất.
Ví dụ:
Hoa Kỳ xem xét một sản phẩm áo dệt kim xuất xứ từ
Việt Nam, bán tại thò trường Hoa Kỳ với giá 7.50 USD/pc có bán
phá giá hay không. Kết quả theo bảng sau:
V/. Những yêu cầu đối với đơn kiện chống bán phá giá tại Hoa
Kỳ:
1/. Phạm vi:
- Khi nộp đơn, bên khiếu kiện cần mơ tả chi tiết loại hàng hố u cầu
điều tra bao gồm:
+ Các đặc điểm kỹ thuật và mục đích sử dụng của
hàng hố
+ Số phân loại hạng mục thuế quan hiện hành tại Mỹ

(số HTS)
- Đánh giá của Bộ TM về phạm vi của vụ kiện:
+ Nếu trước khi nộp đơn bên khiếu kiện có u cầu
Bộ TM tư vấn về việc nộp đơn kiện thì Bộ TM phải
đảm bảo rằng phạm vi của đơn kiện là sự phản ánh
chính xác về loại sản phẩm đang chịu thiệt hại.
+ Các bên liên quan có thể đưa ra bình luận về phạm
vi của vụ kiện trong thời hạn 20 ngày sau khi viêc
khởi xướng vụ kiện được thơng báo trên Cơng báo
của Liên bang.
2/. Sản phẩm tương tự:
- Bên khiếu kiện phải miêu tả rõ ràng sản phẩm tương tự của thị trường
trong nước, tức là sản phẩm bán tại thị trường Mỹ có những đặc điểm
giống nhất với sản phẩm được nhập khẩu đang bị điều tra.
- Bộ TM sẽ quyết định về sản phẩm tương tự cho mục đích tiến hành
điều tra, ITC cũng sẽ có quyết định riêng của mình về sản phẩm tương
tự.
3/. Cáo buộc phá giá:
- Cáo buộc về mức doanh số bán trong điều kiện thương mại khơng
cơng bằng (phá giá) là lý do của mọi đơn kiện. Cáo buộc về bán phá
giá cần cung cấp đủ các thơng tin và dữ kiện cần thiết:
+ Việc tính tốn giá cả hàng hố bán ra tại thị trường
Mỹ nội địa và
+ Giá trị thơng thường của sản phẩm tương tự được
nhập khẩu từ nước ngồi
4/. Thiệt hại thực tế:
- Theo định nghĩa trong Đạo luật “thiệt hại thực tế” là sự thiệt hại
mang tính hậu quả, thực tế hoặc quan trọng.
+ ITC chịu trách nhiệm xác định xem có phải ngành
sản xuất trong nước đang chịu thiệt hại thực tế hay bị

đe doạ chịu thiệt hại thực tế do tác động của loại hàng
hố nhập khẩu đang bị cáo buộc bán phá giá hay
khơng.
- Bộ TM sẽ kiểm tra xem liệu đơn kiện có cung cấp đủ bằng chứng về
thiệt hại thực tế hay đe doạ gây thiệt hại thực tế hay khơng.
+ Để đánh giá tính chính xác và đầy đủ của chứng cứ
liên quan đến thiệt hại thực tế và cáo buộc về mối
quan hệ nhân quả, Bộ TM sẽ so sánh các chứng cứ
trong đơn kiện với những thơng tin sẵn có hợp lý.
- Đánh giá về cáo buộc thiệt hại của Bộ TM liên quan đến:
Trang 12
Nôi dung
Giá trò
(USD/unit)
I. Chi phí đầu vào

Nguyên vật liệu A 9.26250
Chi phí điện năng B 0.04195
Nhân công trực tiếp C 1.78450
Vải vụn tái SX D 0.03293
Vật liệu đóng gói E 0.12295
Nhân công đóng gói F 0.02075
II.Giá trò thông thường

Tổng giá trò đầu vào
t/tiếp
G = A + B 9.30445
Nhân công trực tiếp C 1.78450
Đóng gói H = E + F 0.14370
Chi phí quản lý nhà

xưởng
(11.4% theo báo cáo tài
chính tương tự)
I = (G + H)*11.4% 1.07709
Chi phí sản xuất J = G + C + H + I 12.30974
Chi phí bán hàng, chi phí
chung, chí phí
hành chính (32% theo
BCTC tương tự)
K = J * 32% 3.93912
Chi phí tiền lãi (32%
theo BCTC tương tự)
L = J * 4.6% 0.56625
Tổng chi phí sản xuất M = J + K + L 16.81510
Lợi nhuận N = M * 14% 2.35411
Giá thành sản phẩm O = M + N 19.16922
III. So sánh

Giá trò bình thường P = O - D 19.13629
Giá trò ròng tại Hoa Kỳ Q 7.50000
Biên độ trên mỗi đơn vò R = P - Q 11.63629
Biên độ tính theo tỷ lệ S = R / Q * 100% 155.1506%
IV. Kết luận


> 2% Bán Phá Giá
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
+ Giá bán tại thị trường trong nước giảm
+ Khối lượng sản xuất giảm

+ Khả năng khai thác cơng suất giảm
+ Thị phần và doanh thu giảm
+ Doanh thu mất di do hàng nhập khẩu
+ Khả năng lợi nhuận giảm
+ Số lượng cơng ăn việc làm giảm
+ Phá sản
VI. Các giai đoạn diều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ:
Ngày Sự kiện
0

Đơn kiện được
nộp
20

DOC Bắt Đầu
Điều Tra
45

Quyết Đònh Sơ Bộ
của ITC
160
Ngày 210, nếu
được gia hạn
Quyết Đònh Sơ Bộ
của DOC
235
Ngày 345, nếu
quyết đònh sơ
bộ và quyết
đònh cuối cùng

đều được gia
hạn
Quyết Đònh Cuối
Cùng
của DOC
280
Ngày 390, nếu
quyết đònh sơ
bộ là quyết
đònh cuối cùng
của DOC đều
được gia hạn
Quyết Đònh Cuối
Cùng
của ITC
287
Ngày 397, nếu
quyết đònh sơ
bộ và quyết
đònh cuối cùng
của DOC đều
được gia hạn
DOC ban hành
lệnh
áp dụng thuế
chống
phá giá
VII. Thủ tục của Bộ Thương mại Hoa Kỳ về diều tra chống bán
phá giá:
1/. Bảng câu hỏi:

- DOC sẽ đưa ra bảng câu hỏi cho các công ty được chọn để trả lời
bảng câu hỏi (bò đơn).
- Bảng câu hỏi dài và chi tiết và được chia thành các phần sau:
+ Phần A: Thông tin về tổ chức, phạm vi quản lý của
chính phủ trung ương đối với hoạt động xuất khẩu, nghiệp vụ kế
toán và hoạt động kinh doanh và thông tin chung về doanh số bán
hàng.
+ Phần B: Không áp dụng cho các vụ kiện thuộc nền
kinh tế phi thò trường.
+ Phần C: Thông tin về doanh số của hàng hóa tại Hoa
Kỳ.
+ Phần D: Các yếu tố sản xuất.
- Thời hạn: Thời hạn trả lời thông thường là ba mươi ngày kể từ
ngày đưa ra bảng câu hỏi, có thể được gia hạn thêm hai tuần.
2/. Đối tượng xem thông tin của công ty:
- DOC và bên tư vấn của nguyên đơn.
+ Căn cứ vào lệnh bảo vệ hành chính, hoặc viết tắt là
APO, bên tư vấn của nguyên đơn được xem thông tin mật do bò đơn
cung cấp. Ngay cả khi thông tin mật được vô ý tiết lộ, bên tư vấn
của nguyên đơn vẫn được phép xem thông tin đó.
+ Bên tư vấn của nguyên đơn sẽ đệ trình ý kiến cho
DOC về các lónh vực mà họ tin là thiếu hoặc các lónh vực mà
nguyên đơn tin là bò đơn đã sử dụng phương pháp không thích hợp.
3/. Bảng câu hỏi bổ sung:
- Căn cứ vào các ý kiến của nguyên đơn, và sau khi kiểm tra độc
lập, DOC sẽ đưa ra bảng câu hỏi bổ sung.
+ Độ dài và độ dày: sẽ thay đổi căn cứ vào chất lượng
của dữ liệu do bò đơn nộp và chất lượng kiểm tra của cả nguyên
đơn và DOC.
+ Thời Hạn Trả Lời: Thông thường là hai tuần, có thể

được gia hạn thêm hai tuần nữa.
* Lưu ý: DOC có thể đưa ra nhiều bảng câu hỏi bổ sung.
4/. Thẩm tra:
- Sau khi quyết đònh sơ bộ, DOC tiến hành kiểm tra tại chỗ dữ liệu
do bò đơn nộp.
+ Mục Đích: thẩm tra tính chính xác của thông tin được
nộp và thẩm tra rằng bò đơn chưa bỏ qua bất kỳ thông tin liên quan
nào.
+ Thẩm Tra Việc Bán Hàng: Nếu việc bán hàng được
thực hiện trực tiếp đến Hoa Kỳ, thì việc thẩm tra sẽ được thực hiện
tại nhà máy xuất khẩu; nếu thông qua công ty trực thuộc tại Hoa
Kỳ, thì có thể được thực hiện tại Hoa Kỳ.
+ Các Yếu Tố Sản Xuất: Sẽ được điều tra tại nhà máy
hoặc trụ sở công ty.
Lưu ý: Việc chuẩn bò tốt trước là cực kỳ quan trọng. Thông thường,
luật sư hỗ trợ cho công ty sẽ chuẩn bò cho công ty một tuần trước khi
thẩm tra.
5/. Báo cáo thẩm tra:
- Ngay sau khi DOC hoàn tất thẩm tra, DOC sẽ ban hành báo cáo
thẩm tra.
- Giải Trình Tóm Tắt: Căn cứ vào các báo cáo này, cùng với bất
kỳ vấn đề pháp lý nào khác có thể tồn tại, cả nguyên đơn và bò đơn
đều có thể nộp tóm tắt cho DOC (gọi là “giải trình tóm tắt vụ
kiện”).
- Phản Hồi Giải Trình Tóm Tắt: Trong vòng năm ngày, mỗi bên có
quyền phản đối bản giải trình tóm tắt của bên kia. DOC sẽ tổ chức
điều trần công khai (nếu được yêu cầu).
VIII. Lựa chọn bò đơn:
- Lựa chọn các nhà sản xuất lớn nhất
+ Đây là phương pháp được DOC sử dụng trong hầu hết

mọi trường hợp để lựa chọn bò đơn bắt buộc khi DOC không thể
điều tra hết tất cả các nhà sản xuất hoặc các nhà xuất khẩu do
nguồn lực hạn chế.
Trang 13
X.đònh sơ bộ
về thiệt hại
X.đònh sơ bộ
về bán PG
Q.đònh c/cùng
về bán PG
Q.đònh c/cùng
về thiệt hại
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
+ DOC thông thường sẽ tìm cách điều tra các nhà sản
xuất chiếm ít nhất 60% lượng hàng xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
- Chọn nhóm mẫu
+ Hoặc DOC có thể lựa chọn một nhóm mẫu bao gồm
các nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, hoặc các mặt hàng có giá trò
thống kê căn cứ vào thông tin mà DOC có được tại thời điểm lựa
chọn.
+ Cách thức này không được sử dụng thường xuyên do
sự phức tạp của việc lựa chọn đúng nhóm mẫu để tiến hành.
- Cách thức Để DOC xác Đònh Được các nhà xuất khẩu lớn nhất:
+ DOC đưa ra một bảng câu hỏi tiểu mục A.
+ Chủ yếu yêu cầu cung cấp thông tin về khối lượng và
giá trò vận chuyển mặt hàng liên quan của nhà sản xuất/nhà xuất
khẩu đến Hoa Kỳ.
- Các Nhà Sản Xuất Chưa Được Điều Tra: trong một vụ kiện đối
với nhà sản xuất thuộc nền kinh tế phi thò trường (NME), các nhà

sản xuất chưa được điều tra thường được áp dụng mức thuế chung
cho toàn quốc, mà mức thuế này thì cao:
+ Áp Dụng Các Mức Thuế Riêng: Nếu nhà sản xuất
chứng minh được rằng không có sự kiểm soát của chính phủ, thì
được áp dụng biên độ bằng với trung bình có trọng số của tất cả
các bò đơn bắt buộc (ngoại trừ biên độ tối thiểu và biên độ có thể
có trên thực tế), thường thì thấp hơn mức thuế chung cho toàn quốc.
+ Phải nộp đơn trong vòng 30 ngày kể từ ngàycó thông
báo công khai thực hiện nếu công ty muốn bảo đảm quyền điều
chỉnh đơn. Phải nộp trong vòng 60 ngày để được xem xét toàn bộ.
IX. Thông tin được sử dụng để đánh giá các yếu tố đối với nền
kinh tế phi thò trường:
1/. Cách thức xác đònh:
- Thông tin có được công khai từ một “quốc gia tương tự” đơn lẻ,
ngoại trừ đối với nhân công.
+ Ngoại Lệ: Khi một yếu tố được cung cấp từ một nhà
cung cấp thuộc nền kinh tế thò trường và được thanh toán bằng tiền
tệ của quốc gia thuộc nền kinh tế thò trường, thì DOC sẽ sử dụng
giá được thanh toán cho nhà cung cấp của nền kinh tế thò trường
(nếu việc cung cấp từ nền kinh tế thò trường đó chiếm 33% trong
toàn bộ nguồn cung cấp của yếu tố đó)
Lưu ý: Các nguồn cung cấp từ Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, và
Indonesia không thích hợp để được xem là “nguồn cung cấp của nền
kinh tế thò trường”.
+ Nhân công: DOC sẽ sử dụng “mức lương thấp” phản
ánh quan hệ giữa lương và thu nhập quốc gia tại các quốc gia có
nền kinh tế thò trường.
2/. Mức lương nhân công:
- Hiện nay, Mức lương Nhân công tại Việt Nam là 0,65 USD/giờ.
- Do sự thay đổi có lợi trong cách DOC tính mức lương nhân công

nên mức lương nhân công của Việt Nam dự đoán sẽ giảm đáng kể.
Thực tế là DOC đã công bố sơ bộ mức lương nhân công mới tại
Việt Nam là 0,36 USD/giờ.
- Mức lương Nhân công được sửa đổi hàng năm.
3/. Quốc gia tương tự:
- Quốc gia đó phải có trình độ phát triển kinh tế có thể so sánh
được với trình độ phát triển kinh tế của quốc gia có nền kinh tế phi
thò trường.
+ Chủ yếu nhấn mạnh vào GDP trên đầu người như là
biện pháp có thể so sánh về kinh tế.
+ Quốc gia đó phải có những nhà sản xuất đáng kể đối
với mặt hàng có thể so sánh được.
+ Thông thường DOC sẽ chọn Bangladesh làm quốc gia
tương tự trong các vụ kiện liên quan đến Việt Nam.
X. Rủi ro của nhà sản xuất được điều tra:
- Thuế chống phá giá bổ sung được áp dụng đối với việc bán hàng
vào Hoa Kỳ của nhà sản xuất.
+ Mặc dù bên nhập khẩu nộp thuế chống phá giá, nhưng
rủi ro dài hạn là bên nhập khẩu sẽ gặp phải những nhà sản xuất
không bò áp thuế bổ sung hoặc nhà sản xuất được áp mức thuế thấp
nhất.
+ Tổn thất kinh doanh đối với các nhà sản xuất bò áp
mức biên độ chống phá giá cao nhất.
XI. Những khó khăn chủ yếu của cá doanh nghiệp Việt Nam khi
đối phó với các tranh chấp phá giá:
1/. Kiến thức về Luật thương mại quốc tế liên quan đến bán phá
giá:
- Hầu hết tất cả các cán bộ nhà nước chịu trách nhiệm về vấn đề này
còn thiếu kiến thức về các khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá
và luật quốc tế điều chỉnh hành vi này. Cho đến nay, Việt Nam chưa

lần nào điều tra bán phá giá. Kinh nghiệm đối phó với hàng xuất khẩu
của ta bị điều tra phá giá còn ít. Hơn thế nữa, giới nghiên cứu khoa học
cũng chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề bán phá giá. Hệ thống đào tạo
về luật và thương mại chưa có chương trình và đội ngũ giảng dạy về
bán phá giá. Trong bối cảnh như vậy nên chúng ta cũng khơng có luật
sư hay nhà tư vấn nào có kiến thức đầy đủ hay có kinh nghiệm phong
phú về bán phá giá cả.
- Trong khi đó, để đối phó thành cơng ở mỗi vụ tranh chấp về bán phá
giá, sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều bên liên quan là u cầu sống
còn. Chẳng hạn, phải có một cơ quan đầu mối về các tranh chấp liên
quan tới bán phá giá. Cơ quan này phải cộng tác chặt chẽ với các bộ
ngành liên quan và phối hợp hành động với các nhà sản xuất, các nhà
xuất khẩu hay nhập khẩu, hội bảo vệ người tiêu dùng, v.v... Mặc dù
chúng ta đang cải cách nền hành chính quốc gia, chính phủ nhiệm kỳ
mới vừa được thành lập nhưng rõ ràng là sự phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước chưa thích hợp để giải quyết tranh chấp bán phá giá. Đó là
chưa tính tới sự liên kết lỏng lẻo và có phần yếu kém của các nhà sản
xuất và các nhà xuất khẩu. Vì thế bên cạnh khó khăn lớn nhất về thiếu
kiến thức và kinh nghiệm thì sự phối hợp khơng đồng bộ của các cơ
quan hữu quan đang trở thành một cản trở lớn.
2/. Hệ thống pháp luật về kinh tế và thương mại của Việt Nam
đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện:
- Nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hố tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được
hai thập kỷ. Mặc dù hệ thống pháp luật về kinh tế – thương mại của
chúng ta đã được xây dựng mới, bổ sung và sửa đổi liên tục nhưng rõ
ràng là trong một giai đoạn ngắn như vậy hệ thống pháp luật của chúng
ta chưa thể đầy đủ và phù hợp với luật thương mại quốc tế ngay được.
Trong lĩnh vực chống bán phá giá, chúng ta chưa có luật để đối phó với
hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá cũng như những qui định

cần thiết để đối phó với việc hàng xuất khẩu của chúng ta bị các đối tác
thương mại khác áp dụng biện pháp này.
- Khi đối phó với biện pháp chống phá giá thì ngồi luật về chống bán
phá giá chúng ta còn cần hồn chỉnh các luật liên quan khác cho phù
hợp với chuẩn quốc tế. Chẳng hạn, điều tra xác định biên độ phá giá là
vấn đề rất phức tạp về kỹ thuật, những quy định về kế tốn có tầm
quan trọng lớn trong việc tính tốn cụ thể chi phí sản xuất, doanh thu,
lợi nhuận, v.v... Nếu khơng có hệ thống kế tốn phù hợp với thơng lệ
quốc tế thì rất khó có thể điều tra và đưa ra kết luận thích hợp được.
- Trong việc đối phó với biện pháp chống bán phá giá cũng cần cải tổ
hệ thống tồ án. Nhà nhập khẩu có thể kiện ra tồ các quyết định liên
quan tới biện pháp chống phá giá của cơ quan hành chính có thẩm
quyền. Trong trường hợp ta chủ động áp dụng biện pháp chống bán
phá giá thì hệ thống tồ án của ta có lẽ chưa đủ điều kiện để giải quyết
khiếu kiện kiểu này, còn trong trường hợp ta phải đối phó với biện
pháp chống phá giá của các đối tác khác thì chúng ta cũng chưa có kinh
Trang 14
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
nghiệm sử dụng cơ chế kiện ra tồ chống lại quyết định của các cơ
quan hành chính có thẩm quyền của họ.
3/. Các biện pháp chống bán phá giá quốc tế chịu ảnh hưởng lớn bởi
quan hệ chính trị giữa các đối tác:
- Trong trường hợp hàng xuất khẩu của Việt Nam bị nước ngồi điều
tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chúng ta có thể gây áp lực
chính trị với họ. Nhưng với tiềm lực kinh tế, quốc phòng, khoa học kỹ
thuật, v.v... của chúng ta hiện nay, chúng ta cần thấy rõ áp lực của
chúng ta khơng đủ mạnh. Ngược lại, trong trường hợp chúng ta chủ
động tiến hành điều tra áp dụng biện pháp này với hàng nhập khẩu thì
có thể dự đốn rằng một số nước có thể dùng sức mạnh chính trị để ép

chúng ta nhân nhượng họ, chẳng hạn họ có thể dùng những lá bài như
viện trợ phát triển chính thức (ODA), gia hạn qui chế đối xử tối huệ
quốc (MFN) v.v... để đem ra mặc cả với ta.
4/. Chi phí gia tăng:
- Trong việc áp dụng hay đối phó với biện pháp chống bán phá giá,
chúng ta cũng khơng thể khơng tính đến nhiều chi phí cần thiết. Thật
vậy, nhiều khi chúng ta cần phải cử các nhóm cơng tác ra nước ngồi
để điều tra, thu thập các thơng tin cần thiết, hoặc phải tham dự các cuộc
gặp với các cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi để giải trình, cung
cấp thơng tin hoặc thuyết phục họ chấm dứt điều tra, chấp nhận biện
pháp cam kết giá hay áp dụng mức thuế chống bán phá giá ở mức càng
thấp càng tốt.
5/. Việt Nam chưa được công nhận là nền kinh tế thò trường:
- Cuối cùng khơng thể khơng lưu ý đến thực tế là một số nước chưa
cơng nhận nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường (KTTT).
Cần phải nhìn nhận vấn đề này từ hai khía cạnh.
+ Thứ nhất, khơng có những tiêu chí rõ ràng khách quan để
phân biệt đâu là nền KTTT và đâu là nền kinh tế phi thị trường. Do đó,
việc thừa nhận một nền kinh tế là nền kinh tế thị trường hay khơng
nhiều khi phụ thuộc vào đánh giá mang tính chủ quan của từng đối tác
thương mại và việc đánh giá này có thể chịu ảnh hưởng bởi quan hệ
chính trị.
+ Thứ hai, chúng ta đang trong q trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cho đến nay ta cũng chưa
có đánh giá tổng kết nào về nền kinh tế của ta đang ở đâu trong q
trình này.
- Nếu trong q trình điều tra bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của
Việt Nam mà đối tác chưa cơng nhận nền kinh tế nước ta là nền KTTT
thì chúng ta sẽ gặp bất lợi trong việc chứng minh chúng ta khơng bán
phá giá hoặc bán phá giá với biên độ thấp.

XII. Chiến lược chống lại các cáo buộc chống bán phá giá:
1/. Kiểm tra, ngăn chặn Chống phá giá:
- Mục đích của việc kiểm tra ngăn chặn chống phá giá :
+ Ước tính biên độ phá giá có thể có
+ Cung cấp các chiến lược kòp thời nhằm giảm hoặc
giảm thiểu biên độ phá giá.
- Gặp các luật sư chống phá giá:
+ Tìm hiểu về cách thức tổ chức của nhà sản xuất, kể cả
các nhà cung cấp liên quan.
+ Tìm hiểu cách thức nhà sản xuất kinh doanh tại Hoa
Kỳ và tại thò trường trong nước hoặc nước thứ ba.
+ Giải thích chi tiết cách thức tính toán bán phá giá
- Thu thập dữ liệu cho việc phân tích ban đầu:
+ Có được thông tin về bán hàng đối với việc bán hàng
vào Hoa Kỳ
+ Lựa chọn khối lượng sản phẩm cao nhất để phân tích
+ Xác đònh có cần thông tin về công ty Hoa Kỳ liên
quan hay không
+ Thu thập thông tin về chi phí (cước phí vận chuyển,
chi phí bán hàng, v.v…)
- Thu thập các yếu tố sản xuất
+ Xác đònh thông tin cần thiết để đánh giá các yếu tố
sản xuất
+ Xác đònh quốc gia tương tự (thường là Bangladesh đối
với các vụ kiện đối với Việt Nam)
+ Thu thập thông tin từ các nguồn công khai
+ Xác đònh có yếu tố nào được mua từ nền kinh tế thò
trường hay không
+ Xác đònh có yếu tố đầu vào nào thuộc nền kinh tế thò
trường đến từ một quốc gia mà DOC cho là có hỗ trợ về tài chính

cho các yếu tố đầu vào hay không
- Tính Biên Độ Đối Với Các Sản Phẩm Mẫu:
+ Báo cáo cho ban quản trò về dữ liệu cần phải bổ sung
để tính toán
+ Phân tích biên độ phá giá
+ Nhận diện các lónh vực rủi ro
+ Cung cấp báo cáo cho ban quản trò
+ Thảo luận các phương pháp có thể có để tối thiểu hóa
biên độ
2/. Thiết lập hệ thống kiểm soát:
- Mục đích: Thu thập thông tin chi tiết cần thiết để ước tính và
giảm thiểu biên độ phá giá tốt hơn
- Gặp gỡ nhà sản xuất để thảo luận về các lónh vực cần quan tâm
và các lónh vực rủi ro từ việc kiểm tra ngăn chặn chống phá giá
- Giải thích dữ liệu cần thiết của công ty
- Thiết lập lòch biểu thu thập dữ liệu
- Thu thập dữ liệu tổng quát từ nhà sản xuất
+ Đánh giá dữ liệu về tính hoàn thiện và tính xác thực
+ Phân tích biên độ phá giá
+ Cung cấp văn bản phân tích cho ban quản trò công ty
+ Cung cấp chiến lược nhằm giảm thiểu biên độ phá giá
+ Xác đònh lòch biểu kiểm soát đònh kỳ
3/. Giảm thiểu biên độ trong tương lai:
- Giảm hoặc Giảm Thiểu Biên Độ:
+ Mua đầu vào từ các nền kinh tế thò trường
+ Thay đổi quốc gia xuất xứ
+ Sử dụng các nhà máy hiệu quả
+ Hợp tác với các nhà cung cấp
+ Cước phí vận tải đường biển
+ Cước phí vận tải đường bộ

+ Diễn giải sai lệch về tài khoản
+ Đặc điểm về sản phẩm của DOC
XIII. Một số vấn đề đối với các doanh nghiệp Việt Nam:
- Chuẩn bị cho vụ kiện chống bán phá giá , sử dụng phương pháp tính
tốn Đối với nước khơng có nền kinh tế thị trường vì Việt Nam vẫn bò
xem là nền kinh tế phi thò trường khoảng 12 năm nữa.
Trang 15
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
- Cần xem xét tư cách pháp lý và cơ chế hoạt động theo Luật Doanh
Nghiệp để chứng minh sự độc lập của doanh nghiệp mình, không có
sự can thiệp của chính phủ Việt Nam.
- Thu thập dữ liệu từ Bangladesh và Ấn Độ; xem xét việc th các nhà
tư vấn hoặc liên kết với các quốc gia đó.
- Cần xem xét lại tập qn lưu trữ tài liệu của cơng ty vì:
+ DOC tiến hành điều tra xác minh tại chỗ đối với các nhà
xuất khẩu, một cơng ty sẽ được điều tra trong vòng 5 ngày làm
việc.
+ DOC xem xét các tài khoản, hố đơn, hồ sơ hải quan, các
khoản hồn thuế, tài liệu cơng ty, hồ sơ sản xuất.
+ DOC thu thập cả hàng ngàn tài liệu để xem xét.
- Làm việc với các nhà xuất khẩu của các quốc gia khác, các nhà nhập
khẩu Hoa Kỳ và các bạn bè của Việt Nam để củng cố sự hỗ trợ chính
trị cho các nhà xuất khẩu hàng dệt may vì:
+ Vụ kiện chống phá giá sẽ mang tính chính trị rất cao.
+ Các nhà sản xuất nội địa Hoa Kỳ và các phe nhóm chính
trị khác đều liên quan.
- Cần tham vấn các chun gia pháp luật Việt Nam người mà có thể hỗ
trợ đáp ứng các u cầu của DOC và bảo đảm rằng các câu trả lời phải
thống nhất với các vụ kiện chống phá giá đã xảy ra có liên quan đến

Việt Nam vì:
+ DOC u cầu dịch hàng ngàn tài liệu.
+ DOC u cầu phân tích chi tiết về luật pháp và quy định
của Việt Nam.
Trang 16
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ
I- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC
TẾ
1/ Khái niệm :
Có rất nhiều khái niệm về liên kết kinh tế quốc tế xét ở
trên góc độ khác nhau, sau đây là những khái niệm mang tính phổ
biến.
- Liên kết kinh tế quốc tế là việc thiết lập những luật lệ
và nguyên tắc vượt phạm vi một quốc gia để cải thiện thương mại
kinh tế và sự hợp tác giữa các nước.
- Liên kết kinh tế quốc tế được xem là mỗi quan hệ kinh
tế vượt ra khỏi biên giới một quốc gia, được hình thành dựa vào sự
thoả thuận hai bên hoặc nhiều bên ở tầm vó mô hoặc vi mô nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế và thương mại phát
triển.
2/ Cơ sở hình thành các liên kết kinh tế quốc tế.
Điều kiện tự nhiên luôn gắn liền với sự ra đời và phát
triển của xã hội loài người. Song điều kiện sống và sự phát triển
của các vùng, các châu lục lại có sự khác biệt. Bởi vì cấu tạo tự
nhiên của trái đất đã phân thành các vùng với vò trí đòa lý, khí hậu,
tài nguyên thiên nhiên khác nhau. Chẳng hạn Châu mỹ có diện tích
tới 42.049.000 km2 nhưng cư dân chỉ vào khoảng 820 triệu người,
Châu Phi có 30.306.000 km2 dân số khoảng 780 triệu người, Châu

á diện tích 31.764.000 km2, song dân số lên đến 3,640 triệu, Châu
âu diện tích 22.985.000 km2 dân số vào khoảng 730 triệu…
Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của các châu lục cũng
khác nhau rất nhiều , Châu phi có diện tích rộng lớn, mật độ dân số
thấp, song bình quân GNP/ đầu người chỉ khoảng 700
USD/người/năm. Châu á có mật độ dân số gấp 5 lần, nhưng bình
quân GNP đầu người khoảng 2450 USD/ người/ năm, còn Châu âu
có GNP lên tới 13.900 USD/ người/năm. Chính sự phân bố không
đều về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, môi trường dẫn đến sự
khác nhau về trình độ phát triển, về thu nhập và mức sống, nên
hiện tượng di chuyển dân cư từ vùng mật độ dân số cao, điều kiện
sống khó khăn, đến nơi có điều kiện tốt hơn. Điều đó diễn ra
thưỡng xuyên và trở thành tất yếu khách quan. Mặt khác con người
phải tìm các giải pháp khắc phục tình trạng khan hiếm tài nguyên,
bằng cách giao thương trao đổi, mua bán không chỉ hàng tiêu dùng
mà cả các loại tài nguyên khoáng sản, nhằm khai thác các nguồn
lực dư thừa của các nước khác để bổ sung cho sự khan hiếm, thiếu
hụt nguồn lực phát triển của nước mình. Điều này cũng trở thành
xu thế tất yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển của các quốc gia trên
thế giới. Bởi vì không có một quốc gia nào trên thế giới có đầy đủ
nguồn lực để tự mình xây dựng một nền kinh tế phát triển bền
vững.
Ngoài những vấn đề thương mại tài chính quốc tế, thế
giới ngày nay có qúa nhiều vấn đề chính trò- xã hội – môi trường
có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế toàn cầu như vấn đề :
khủng bố, dòch bệnh thiên tai, môi trường… đòi hỏi phải có sự liên
kết chặt chẽ giữa các nước.
Ngày nay với sự phát triển kinh tế mang tính chất đa
phương, toàn cầu, các quốc gia trở nên phụ thuộc rất mạnh lẫn
nhau thông qua liên kết kinh tế.

II- CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ
A) Liên kết kinh tế quốc tế nhà nước (Macrointergration)
a) Khái niệm:
Là những liên kết kinh tế được hình thành trên cơ sở Hiệp
đònh được ký kết giữa hai hoặc nhiều chính phủ nhằm lập ra các
liên minh kinh tế khu vực hoặc liên kết khu vực nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại.
b) Nguyên nhân hình thành.
Liên kết kinh tế nhà nước là tham gia vào qúa trình toàn
cầu hoá, nhằm tạo điều kiện tăng cường hợp tác giúp đỡ lẫn nhau
khai thác nguồn lực của nhau để cùng nhau phát triển kinh tế, dựa
vào các nước đồng minh trong liên kết để thực hiện bảo hộ một số
lónh vực nhất đònh Thực tế cho thấy nửa đầu thế kỷ 20 GDP của thế
giới tăng khoảng 2,7 lần, thì nửa cuối thế kỷ 20 tăng 5,3 lần.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá chuyển giao
công nghệ, vốn, kinh nghiệm tổ chức quản lý giữa các quốc gia
nhất là giữa các nước phát triển và đang phát triển,
Mở rộng giao lưu tăng cường quan hệ kinh tế, chính trò, xã
hội giữa các nước, tham gia các vấn đề mang tính toàn cầu mà mỗi
một quốc gia không thể giải quyết được, cũng như giải quyết các
vấn đề hợp tác, tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ các nước đã ký
kết.
c) Các hình thức liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế quốc tế mà trước hết là theo khu vực đang
trở thành mô hình chủ yếu của nền kinh tế thế giới. Thông qua liên
kết kinh tế mà mậu dòch tự do được thúc đẩy nhiều hơn, tiến tới
liên kết về nhiều mặt và xoá bỏ dần sự tách biệt giữa các quốc gia.
Từ thấp đến cao thế giới đã trải qua các hình thức liên kết
sau.
1/ Khu vực mậu dòch tự do. (Free Trade Area).

Đây là hình thức kinh tế khá phổ biến hiện nay, trong đó
tất cả các hàng rào mậu dòch sẽ được bãi bỏ dần giữa các nước
thành viên, còn với các nước không phải là thành viên thì mỗi
thành viên vẫn giữ lại những hàng rào mậu dòch riêng của mình tức
không thống nhất một mức thuế quan chung để đánh ra bên ngoài.
Xây dựng các chương trình hợp tác kinh tế, đầu tư vì sự phát triển
chung tiến tới hình thành một thò trường thống nhất về hàng hoá và
dòch vụ.
Một hình thức khu vực mậu dòch tự do có từ rất sớm đó là
“ khu vực mậu dòch tự do Châu âu- AFTA được thành lập năm
1960, bao gồm Anh, Áo, Đan Mạch, Na uy, Bồ Đào Nha, Th Sỹ
và Th Điển, Phần Lan tham gia với tư cách là quan sát viên.
Năm 1992, một khu vực mậu dòch tự do ra đời đó là khu
vực mậu dòch tự do Bắc Mỹ –NAFTA bao gồm Mỹ, Canada,
Mexico. Đây là hình thức liên kết kinh tế lớn nhất hiện nay tổng
GDP đạt vào khoảng 12.000 tỷ USD.
Việt nam hiện là thành viên trong khu vực mậu dòch tự do
của các nước ASEAN , đó là AFTA – theo quy đònh mức thuế quan
sẽ giảm từ 0 đến 5% đến năm 2003 và xét theo hoàn cảnh gia nhập
cũng như trình độ phát triển kinh tế của một số nước mà việc cắt
giảm thuế sẽ được gia hạn thêm.
2/ Liên minh thuế quan ( Customs Union)
Có những điều kiện giống khu vực mậu dòch tự do nhưng
cao hơn khu vực mậu dòch tự do ở chỗ sẽ thống nhất một mức thuế
quan chung để đánh ra bên ngoài với các nước không phải là thành
viên. Các nước tham gia bò mất quyền độc lập tự chủ trong quan hệ
buôn bán với nước ngoài khối.
Thoả thuận xây dựng chung về cơ chế hải quan thống
nhất áp dụng chung cho các nước thành viên.
Tiến tới xây dựng chính sách ngoại thương thống nhất.

Cộng đồng kinh tế châu âu (EEC) là một ví dụ đặc trưng
cho hình thức liên hiệp thuế quan, được thành lập vào năm 1957
bao gồm 6 thành viên đó là :Tây đức, Pháp, Ý, Bỷ, Luých Xăm
Bua và Hà Lan.
3/ Thò trường chung. (Common Market)
Hình thức này thể hiện trình độ liên kết cao hơn so với
liên hiệp thuế quan vì nó cho phép di chuyển tự do lao động và tư
bản giữa các nước thành viên. Từ năm 1992, EEC đã trở thành thò
trường chung Châu âu (ECM).
4/ Liên minh kinh tế (Economic Union)
Trang 17
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Là hình thức liên kết kinh tế có đặc điểm tương tự thò
trường chung. Nhưng tính tổ chức thống nhất cao hơn so với thò
trường chung.
Chính sách kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế chung.
Có nghóa là các nước xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại và đối
nội như chính sách phát triển kinh tế vùng mà không bò chia cắt bởi
lãnh thổ quốc gia
Phân công lao động sâu sắc giữa các thành viên.
Thiết lập một tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế
giữa các nước.
5/ Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Một ví dụ rõ nét để minh hoạ cho hình thức liên kết này
chính là liên hiệp Châu âu (EU) sau khi hiệp ước Maastricht được
phê chuẩn một EU thống nhất đã ra đời, bao gồm 12 thành viên
của EEC trước đây. Sau đó đến tháng 1/1995 kết nạp thêm 3 thành
viên mới đó là Áo, Th Điển, Phần Lan, Vào tháng 5/2004 EU
kết nạp thêm 10 thành viên nữa. Nâng tổng số thành viên lên 25.

Nếu thành công EU sẽ có một đồng tiền chung, một tiếng nói
chung, dân cư di lại tự do giữa các thành viên.. Nói tóm lại gần như
xoá bỏ đường biên giới giữa các quốc gia, chỉ còn là một quốc gia
thống nhất.
Đây là hình thức liên kết kinh tế quốc tế cao nhất, đã đạt
trình độ của các hình thức liên kết trên và còn tiến xa hơn nữó là
chẳng những thống nhất về kinh tế mà còn về tài chính. Tiến tới
thành lập một “Quốc gia kinh tế chung” xây dựng chính sách kinh
tế chung, đối ngoại chung, hình thành một đồng tiên chung thống
nhất cho toàn khối, ngân hàng chung, quỹ tiền tệ chung, chính sách
lưu thông tiền tệ thống nhất, cũng như chính sách quan hệ tài chính
chung, tiến tới thực hiện liên minh về chính trò.
Tuy mức độ liên kết khác nhau nhưng tất cả các hình thức
liên kết trên đây đều đưa đến kết quả là gia tăng khối lượng mậu
dòch, sử dụng tài nguyên tốt hơn và nâng cao mức sống của nhân
dân với mức độ ngày càng chặt chẽ hơn
BẢNG TỔNG HP CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ
Các hình thức
liên kết
Xoá
bỏ
hàng
rào
thuế
quan
và phi
thuế
quan
giữa
các

thành
viên
Hệ
thống
thuế
và phi
thuế
chung
cho
bên
ngoài
Tự do
di
chuyển
các
yếu tố
giữa
thành
viên
Các
chính
sách
phát
triển
kinh
tế
chung
Đồng
tiền
chung

Free trade of
area
Có Không Không Không Không
Customs
Union
Có Có Không Không Không
Common
Market
Có Có Có Không Không
Economic
Union
Có Có Có Có Không
Monetary
Union
Có Có Có Có Có
B/ Liên kết kinh tế quốc tế tư nhân (Microintergration)
a) Khái niệm:
- Liên kết kinh tế quốc tế tư nhân là hình thức liên kết kinh tế quốc
tế ở tầm vi mô để lập ra các công ty quốc tế.
b) Cơ sở hình thành và vai trò của các công ty quốc tế.
- Cơ sở hình thành.
Xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất, hình thành các
công ty xuyên quốcsgia xu hướng sát nhập các công ty có quy mô
nhỏ thành các công ty khổng lồ để tăng khả năng cạnh tranh, nhằm
độc chiếm vai trò chi phối thò trường quốc tế đang tăng nhanh.
Nhằm tránh sự rủi ro bất ổn của chu kỳ kinh doanh nội đòa,
mở rộng thò phần ra nước ngoài, cũng như nhằm chống lại chính
sách bảo hộ mậu dòch ở các nước, ở các khối liên kết kinh tế đang
gia tăng. Sự gia tăng nhu cầu trên thò trường thế giới về sản phẩm,
dòch vụ công ty cung cấp.

Chiến lược “ theo sau cạnh tranh”để bảo vệ thò phần, giảm
chi phí, đa nguồn cung để giảm rủi ro, thu thập kiến thức, vượt qua
hàng rào thuế quan.
Sử dụng lợi thế kỹ thuật chuyên môn bằng sản xuất trực
tiếp hơn là license và đặc biệt là nhằm phân khúc thò trường để
phục vụ khách hàng quan trọng.
- Vai trò của các công ty quốc tế :
Các công ty đa quốc gia là những công ty mà việc sở hữu,
điều hành quản lý sản xuất tiến hành ở nhiều quốc gia. Công ty đa
quốc gia là một hình thức di chuyển vốn quốc tế nhằm đem lại hiệu
quả cao. Bởi vì trong quá trình thực hiện vốn di chuyển ra nước
ngoài, các công ty mẹ ngoài cung cấp vốn, kỹ thuật, thiết bò, kinh
nghiệm quản lý..còn giám sát trực tiếp kết quả và hiệu quả kinh
doanh của các công ty con.
Các công ty quốc tế ra đời có một vai trò to lớn trong nền
kinh tế thế giới là thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Các
công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia đã có ảnh hưởng và tác
động mạnh mẽ đến quá trình toàn cầu hoá.
Theo số liệu của UNCTAD, năm 1998 có hơn 53.000
doanh nghiệp hoạt động xuyên quốc gia với 450.000 cơ sở sản xuất
và chiếm gần 2/3 tổng khối lượng buôn bán trên thế giới, trong đo
¼ buôn bán nội đòa. Theo tài liệu Liên Hiệp Quốc thì 60.000 hãng
xuyên quốc gia trên thế giới chiếm ¼ sản lượng sản phẩm đầu ra
của thế giới, kiểm soát 2/3 thương mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu công nghệ
trên thế giới.
Công ty xuyên quốc gia được hình thành dựa trên hệ thống
so sánh của hệ thống sản xuất và phân phối mang tính chất toàn
cầu nhằm thu lợi nhuận tối đa. Mỗi liên hệ giữa công ty mẹ và
công ty con được thực hiện dưới 2 dạng :

Thứ nhất: Liên kết dọc là liên kết giữa công ty mẹ và công
ty con ở các quốc gia khác nhau . Mỗi liên kết này giúp cho các
công ty đa quốc gia nắm chắc và chủ động trong cung cấp nguyên
vật liệu và các sản phẩm trung gian cần thiết từ nước ngoài.
Thứ hai: Liên kết ngang là mỗi liên kết giữa các công ty
con ở các quốc gia. Mỗi liên kết này tạo điều kiện thuận lợi cho
các công ty tổ chức tốt mạng lưới dòch vụ, phân phối sản phẩm,
tiến hành marketing nhằm cho các sản phẩm nhanh chóng chiếm
lónh thò trường.
Công ty đa quốc gia có những ưu điểm hơn so với các công ty quốc
gia thuần tuý ở những điểm sau:
+ Mở rộng thò trưòng mỗi liên kết dọc, ngang giữa các
công ty mẹ và con đã hình thành một thò trường xuyên suốt giữa
các quốc gia. Ví dụ: các Công ty lữ hành quốc tế tổ chức các tua
du lòch theo hệ thống khách sạn, dòch vụ của mình.
+ Công ty đa quốc gia có nhiều vốn và dễ tiếp cận với các
thò trường vốn quốc tế, cho nên có đủ điều kiện để thực hiện các
dự án đầu tư đòi hỏi quy mô lớn.
+ Các công ty đa quốc gia có thể huy động nguồn vốn
nước sở tại.
+ Đủ điều kiện tài chính để nghiên cứu và phát triển công
nghệ mới tiên tiến.
+ Các công ty đa quốc gia có thể kích thích nguồn vốn
viện trợ.
Trang 18
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
+ Các công ty có điều kiện thu thập thông tin toàn cầu, do
vậy có khả năng đánh giá đầy đủ, chính xác các tình huống thuận
lợi, khó khăn của thò trường thế giới, tạo điều kiện cho công ty có

những chiến lược và sách lược cụ thể để đối phó. Chính vì vậy mà
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, hàng hoá phù hợp
với thò hiếu của khách hàng hơn.
Các công ty quốc tế góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế của
các nước, thay đổi thể chế chính sách kinh tế của một quốc gia và
bằng hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp các công ty quốc tế
đã cung cấp một số lượng vốn khổng lồ cho các nước đang phát
triển.
Giúp đỡ các nước nghèo phát triển kinh tế, trình độ khoa
học kỹ thuật, công nghệ, chuyển giao phát minh sáng chế, khai
thác sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực thông qua đầu tư.
Các công ty đa quốc gia góp phần tăng phúc lợi của thế
giới nhưng cũng gay ra khó khăn cho bản thân quốc gia đi đầu tư
và quốc gia tiếp nhận đầu tư.
* Đối với quốc gia đầu tư :
+ Do một lượng vốn di chuyển sang các quốc gia khác cho
nên dẫn đến giảm việc làm trong nước gay tình trạng thất nghiệp
và bán thất nghiệp tăng. Thu nhập bình quân giảm dẫn đến phát
sinh về tệ nạn xã hội, gây khó khăn cho quản lý an ninh trật tự xâ
hội.
+ Thất thoát công nghệ tiên tiến của quốc gia, do các công
ty đa quốc gia vì mục đích lợi nhuận cao nên đã tăng cường xuất
khẩu công nghệ tiên tiến.
* Đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư:
Các công ty đa quốc gia là một trong những nguyên nhân
dẫn đến nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ do năng
lực cạnh tranh tại thò trường nội đòa kém. Ví dụ Công ty P & G và
UNILEVER đầu tư vào Việt nam đã làm phá sản NET, DASSO.
+ Các công ty đa quốc gia tạo ra sự lệ thuộc về kỹ thuật ở
các nước sở tại. Thông thường các công nghệ đựơc chuyển giao

vào các nước đang và chậm phát triển là những công nghệ đã lạc
hậu, lỗi thời. Dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, gây ô
nhiễm môi trường.
+ Khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên
+ Thông qua chiến dòch quảng cáo rầm rộ làm thay đổi thò
hiếu người tiêu dùng.
* Các hình thức công ty quốc tế.
- Phân loại theo nguồn vốn:
+ Công ty đa quốc gia (Multinational Company or
Enterprise – MNC or MNE) là công ty được thành lập do vốn của
nhiều nước đóng góp
+ Công ty toàn cầu : (Global Company- GC) là công ty
tiêu chuẩn hoá các hoạt động toàn cầu trên mọi lónh vực.
+ Công ty xuyên quốc gia : ( Transnational Corporation-
TNC) là MNC hoặc GC
- Phân loại theo phương thức hoạt động :
+ Trust – Tổ chức độc quyền quốc tế liên kết 1 số lượng
lớn các xí nghiệp của một ngành hay những ngành gần nhau trong
1 số nước.
+ Consotium – Hình thức liên kết số 1 lớn các xí nghiệp
của các ngành khác nhau trong 1 số nước.
+ Syndicat – Hiệp đònh thống nhất về tiêu thụ sản phẩm
của một số Trust và Consotium
+ Cartell- Hiệp đònh độc quyền liên minh giữa các nhà tư
bản trong một ngành nào đó.
- Đặc điểm phát triển của Công ty quốc tế :
Các Công ty quốc tế chuyển dòch dần hướng đầu tư sang
các lónh vực quan trọng đòi hỏi trình độ, chất xám, vốn lớn như :
lónh vực nghiên cứu, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, dòch vụ thương
mại, bất động sản ..

Ngày nay các công ty xuyên quốc gia có tầm ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triên kinh tế toàn cầu, và ngày càng có nhiều
công ty ra đời và đang khẳng đònh được vò thế chỗ đứng và mở
rộng sự bành trướng ở khắp các châu lục. Muốn tồn tại và phát
triển tất cả các Công ty xuyên quốc gia các nước đều phảigia tăng
thực lực kinh tế của mình và lấy đó là điểm tựa chính để mở rộng
khả năng tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên
phạm vi toàn cầu, mặt khác cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực
kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng khiến
cho nền kinh tế ngày càng phát triển theo hướng quốc tế hoá và tập
đoàn hoá khu vực.
Toàn cầu hoá không phải là “trò chơi” hai bên đều thắng,
mà nó gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nứơc và
doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng, nhưng cũng có nơi thua thiệt
hoặc thậm chí bò đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động của thương mại
và đầu tư quốc tế, Do vậy để tránh thua thiệt và hưởng lợi trong
cạnh tranh quốc tế các Công ty xuyên quốc gia đã chủ động hội
nhập, sát nhập, liên hợp tăng sức cạnh tranh, học hỏi kinh nghiệm.
Ngược lại với các hình thức thuế quan và phi thuế quan
liên kết kinh tế quốc tế đem lại những lợi ích to lớn thông qua các
hình thức như khu vực mậu dòch tự do, liên hiệp quan thuế.. và đây
cũng là xu thế chung của các quốc gia trên con đường hội nhập!
Trang 19
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
TÀI TRỢ XUẤT KHẨU
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM THỰC THI CAM KẾT CỦA WTO VỀ BỎ TÀI
TRỢ XUẤT KHẨU
1/ Khái niệm về tài trợ và tài trợ xuất khẩu
- Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có hai bộ

tiêu chuẩn về trợ cấp. Một bộ áp dụng cho nông sản,
được đề cập trong Hiệp định Nông nghiệp. Một bộ áp
dụng cho sản phẩm phi nông nghiệp, được quy định
trong Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng
(SCM). Đối với nông sản, cho tới trước Hội nghị Hồng
Kông 12-2005, WTO không cấm hình thức trợ cấp nào
cả, kể cả trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, trước sức ép
của các thành viên cũ, các thành viên mới gia nhập
WTO từ năm 1995, kể cả Trung Quốc và Campuchia,
đều phải cam kết loại bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản.
- Với sản phẩm phi nông nghiệp, trợ cấp được chia
thành ba nhóm lớn. Nhóm đèn đỏ là trợ cấp bị cấm sử
dụng, bao gồm trợ cấp xuất khẩu (lấy xuất khẩu làm
tiêu chí để cho hưởng trợ cấp). Theo SCM, trợ cấp xuất
khẩu không chỉ là trợ cấp dựa trên kết quả xuất khẩu
mà còn bao gồm cả trợ cấp dựa trên mục tiêu hoặc
tiềm năng xuất khẩu. Các loại trợ cấp này đều bị cấm
bất kể chúng được quy định trong luật hay không (theo
luật định - de jure hoặc trên thực tế - de facto) và trợ
cấp thay thế nhập khẩu (trợ cấp để khuyến khích sử
dụng đầu vào trong nước, khuyến khích nội địa hóa).
Nhóm đèn vàng là trợ cấp riêng biệt cho một ngành
hoặc một vùng, gây lệch lạc thương mại, tuy không bị
cấm sử dụng nhưng có thể bị “trả đũa” (bị đánh thuế
chống trợ cấp hoặc bị kiện ra WTO). Nhóm đèn xanh là
trợ cấp được coi là ít gây lệch lạc cho thương mại (trợ
cấp R&D, trợ cấp phát triển vùng khó khăn...), được
phép áp dụng mà không bị “trả đũa”. Tuy nhiên, WTO
đưa ra những tiêu chí rất chặt chẽ cho trợ cấp loại này.
- Với cả trợ cấp nông nghiệp và phi nông nghiệp,

WTO đều có ngoại lệ dành cho các nước chậm và đang
phát triển. Thí dụ, với trợ cấp phi nông nghiệp, Hiệp
định SCM liệt kê một số thành viên có GNP bình quân
đầu người dưới 1.000 đô la Mỹ/năm và cho phép họ
được duy trì trợ cấp xuất khẩu (trong danh sách này có
cả Ấn Độ, Indonesia và Philippines). Hiệp định cũng cho
phép các thành viên là nền kinh tế chuyển đổi được xóa
bỏ dần trợ cấp bị cấm trong vòng bảy năm, kể từ
1-1-1995. Tuy nhiên, bất kể quy định của Hiệp định
SCM, các thành viên gia nhập WTO từ năm 1995 đều
không được hưởng bất kỳ ngoại lệ gì, trừ một vài trường
hợp hãn hữu, quy mô trợ cấp nhỏ, thời gian xin chuyển
đổi ngắn (thí dụ, Jordan được duy trì chỉ hai chương
trình trợ cấp xuất khẩu trong vòng hai năm). Thực tế
này và việc ép các nước mới gia nhập phải bãi bỏ trợ
cấp xuất khẩu nông sản là những ví dụ điển hình của cái
gọi là “tiêu chuẩn kép” trong đàm phán gia nhập WTO
mà các tổ chức như Oxfam và Action Aid đã đề cập.
- Muốn hiểu về trợ cấp xuất khẩu, trước hết phải
biết thế nào là trợ cấp. Theo Điều 1.1 của HĐ SCM, trợ
cấp phải là một khoản hỗ trợ tài chính của chính phủ
cho tư nhân, và khoản hỗ trợ đó phải mang lại món nợ
cho bên được nhận hỗ trợ. Bên cạnh đó, khoản hỗ trợ
phải mang tính chất khu biệt, có nghĩa là cấp cho những
doanh nghiệp nhất định nào đó. Hỗ trợ tài chính bao
gồm: (a) Cơ chế của chính phủ mang lại các khoản tiền
trực tiếp (như cho vay), hoặc có thể mang lại các khoản
tiền trực tiếp đó (ví dụ như đứng ra bảo đảm cho vay);
(b) Các khoản thu nhập của chính phủ đến hạn có thể
có, nhưng được bỏ qua hoặc không thu (ví dụ như miễn

giảm thuế); (c) Chính phủ cung cấp hàng hoá hoặc dịch
vụ, hoặc mua hàng hoá; (d) Chính phủ trả tiền cho một
thiết chế do mình lập ra hoặc chỉ đạo tư nhân thực hiện
các công việc (a) - (c) nói trên.
- Trong quá trình xem xét tranh chấp về trợ cấp,
các ban hội thẩm và Ban phúc thẩm của WTO đã giải
thích cụ thể hơn các thuật ngữ. Trong các vụ US-Lead
and Bismuth II, US-Sofwood Lumber IV, Canada-Aicraft,
và Brazil - Aicraft; Ban phúc thẩm giải thích thế nào là
"món lợi": (a) Món lợi phải tạo ra từ sự khác biệt cụ thể
dựa trên lợi thế so sánh với thị trường, ví dụ nếu doanh
nghiệp nhận được khoản vay với điều kiện như mọi
doanh nghiệp khác trên thị trường, thì nó không bị coi là
trợ cấp ngay cả khi nó mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp; (b) Nếu DNNN trước đây được trợ cấp, nay tư
nhân hoá theo đúng giá thị trường, thì khoản trợ cấp
trước kia không bị gán cho doanh nghiệp mới (no pass -
through of subsidies); (c) Về thời điểm để xác định có
trợ cấp hay không, nếu doanh nghiệp đã nhận được cam
kết pháp lý của chính phủ về khoản trợ cấp thì đó đã
được coi là thời điểm nhận trợ cấp, ngay cả khi trên
thực tế doanh nghiệp chưa nhận được xu nào.
- Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn trợ cấp
xuất khẩu. Đây là dạng trợ cấp bị cấm trong WTO, vì
thế nó còn được gọi là trợ cấp "đèn đỏ". Trợ cấp xuất
khẩu là dạng trợ cấp phụ thuộc vào hoạt động xuất
khẩu, tức là doanh nghiệp muốn nhận trợ cấp này thì
phải sử dụng nó cho mục đích xuất khẩu (Điều 3.1 HĐ
SCM). Phụ lục I của HĐ SCM cũng cung cấp danh sách
tham khảo những trợ cấp nào thì bị liệt vào trợ cấp xuất

khẩu.
- Trợ cấp xuất khẩu có thể là chính thức (de jure),
cũng có thể là trên thực tế (de facto). Trong vụ Canada
-Automotive Industry, Ban phúc thẩm giải thích rằng,
một cách chính thức, "phụ thuộc vào hoạt động xuất
khẩu" có nghĩa là "điều kiện để nhận trợ cấp được thể
hiện thành câu chữ trong văn bản liên quan; hoặc điều
kiện đó được thể hiện rõ, dù gián tiếp, trong chính sách
liên quan". Vì thế, trong vụ này, Ban phúc thẩm phán
rằng, việc miễn một loati thuế nhập khẩu cho doanh
nghiệp liên quan đến xuất khẩu cũng bị coi là trợ cấp
xuất khẩu chính thức. Còn trong vụ Canada-Aicraft, Ban
phúc thẩm giải thích trợ cấp xuất khẩu chính thức là loại
trợ cấp "dù trực tiếp hay gián tiếp có mục đích hỗ trợ và
phát triển nền xuất khẩu của canada".
- Cũng theo Ban phúc thẩm trong vụ Canada-
Aicraft, trợ cấp xuất khẩu trên thực tế "được luận ra từ
việc tổng hợp tất cả các sự kiện thực tế liên quan" tuỳ
theo từng vụ. Ví dụ, trong vụ Australia-Leather, Ban hội
thẩm đã phân tích các sự việc để đi đến kết luận công ty
Howe đã nhận trợ cấp xuất khẩu của Chính phủ Úc, mặc
Trang 20
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
dù trên văn bản hoặc chính sách không hề có trợ cấp
nào như thế cho Howe. Điều kiện ban đầu để nhận
khoản trợ cấp này là công ty Howe phải tăng sản lượng,
mở rộng sản xuất và thị trường. Thế nhưng, Ban hội
thẩm nhận xét, thị trường Úc quá nhỏ đối với Howe, cho
nên để đáp ứng điều kiện nói trên, công ty buộc phải

tăng lượng xuất khẩu. Khi ký kết hợp đồng trợ cấp,
Chính phủ Úc chắc chắn thấy trước điều này, như vậy đã
chủ ý hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của Howe. Ban hội
thẩm kết luận, "những sự việc này trên thực tế đã biến
các mục tiêu tăng trưởng bán hàng thành mục tiêu tăng
trưởng xuất khẩu".
2/ Vai trò và hậu quả của tài trợ
- Trợ cấp xuất khẩu được quy định trong các điều
XVI và VI của Hiệp định GATT 1994 (gọi tắt là GATT
1994), và Hiệp định của WTO về trợ cấp và các biện
pháp đối kháng 1995 (gọi tắt là HĐ SCM). Ngoài ra,
Hiệp định về nông nghiệp (HĐ NN) cũng nói đến dạng
trợ cấp này.
- Ngoài ra, còn có "luật án lệ" (case law) do các bạn
hội thẩm (panel) và Ban phúc thẩm (Appellate Body)
của WTO phát triển qua thực tiễn phán xét các tranh
chấp giữa các quốc gia thành viên. Chúng ta sẽ thấy vai
trò của "luật án lệ" này trong khi xem xét các quy định
thành văn của WTO, cụ thể trong bài này là các quy
định về trợ cấp xuất khẩu.
- Các tranh chấp về trợ cấp xuất khẩu có thể giải
quyết theo hai kênh: đa phương và song phương. Đa
phương trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và
song phương khi tự quốc gia đó tiến hành điều tra và áp
dụng các biện pháp thuế đối kháng.
* Đa phương: Đưa ra WTO
Nếu một quốc gia thành viên WTO (tạm gọi là
A) tin rằng quốc gia thành viên khác (B) áp dụng trợ cấp
xuất khẩu, trước hết A có quyền yêu cầu tham vấn với
B. Nếu trong vòng 30 ngày (hoặc lâu hơn tuỳ theo thoả

thuận đôi bên), các cuộc tham vấn vẫn không đem lại
giải pháp thích dáng, bất cứ bên nào cũng có quyền yêu
cầu Hội đồng giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement
Body-DSB) của WTO thành lập một ban hội thẩm 3
người để xem xét vụ việc. Trong vòng 90 ngày kể từ khi
thành lập, ban hội thẩm phải xem xét và công bố bản
báo cáo cuối cùng cho tất cả các nước thành viên. Ban
này có thể tự mình quyết định liệu có trợ cấp xuất khẩu
hay không; hoặc cũng có thể nhờ đến sự giúp đỡ của Tổ
chuyên gia thường trực (Permanent Group of Experts -
PGE) thuộc Uỷ ban trợ cấp và Các biện pháp thuế đối
kháng. Mặc dù đây không phải là điều khoản bắt buộc,
nhưng một khi đã đề nghị PGE trợ giúp, Ban hội thẩm
phải chấp nhận ý kiến kết luận của PGE và không được
sửa đổi kết luận đó. PGE cũng có quyền tư vấn cho bất
kỳ thành viên WTO nào về trợ cấp, trong đó có trợ cấp
xuất khẩu.
Nếu các bên kháng án, DSB phải thông qua báo
cáo cuối cùng của ban hội thẩm trong vòng 30 ngày kể
từ khi nó được công bố. Trong trường hợp kháng án,
Ban phúc thẩm sẽ xem xét lại những vấn đề về luật
(không xem xét những vấn đề về sự việc). Ban phúc
thẩm phải công bố báo cáo cuối cùng trong vòng 60
ngày kể từ khi nhận đơn kháng án, nhưng nếu trong
vòng 30 ngày vẫn chưa thể công bố báo cáo, Ban này
phải giải thích nguyên nhân. Quy trình này ngắn hơn
một nửa so với các quy trình giải quyết tranh chấp khác.
Nếu Ban hội thẩm hoặc Ban phúc thẩm cho
rằng có trợ cấp xuất khẩu, quốc gia bị đơn phải huỷ bỏ
ngay trợ cấp trong thời hạn do DSB quy định. Trong thời

hạn đó, nếu trợ cấp xuất khẩu vẫn không bị huỷ bỏ,
quốc gia nguyên đơn có quyền áp dụng biện pháp trả
đũa (countermeasures) thích đáng. Theo Điều 22.4,
Hiệp định về giải quyết tranh chấp trong WTO, các biện
pháp trả đũa tính theo mức độ thiết hại. Tuy nhiên, trên
thực tế, có nhiều trường hợp trọng tài phán quyết rằng
biện pháp trả đũa được tính theo mức độ trợ cấp, ví dụ
trong vụ Brazil-Aircraft.
* Song phương: Các biện pháp thuế đối kháng
Trợ cấp xuất khẩu nếu gây thiệt hại cho nền
công nghiệp của nước nhập khẩu cũng có thể bị kiện
theo cơ chế song phương và có thể bị áp thuế đối kháng
theo quy trình chung về áp dụng các biện pháp thuế đối
kháng khác. Muốn vậy, trước hết nước nhập khẩu phải
chứng minh 3 điều kiện : (a) xác định được đó là có trợ
cấp xuất khẩu như đã trình bày ở phần thứ nhất; (b)
xác định được có thiệt hại xảy ra đối với ngành sản xuất
mặt hàng tương tự của nước nhập khẩu; (c) xác định
được mối liên quan giữa hai yếu tố trên, đồng thời thiệt
hại do các yếu tố khác gây ra không được quy cho trợ
cấp xuất khẩu.
Tiếp theo, các điều 11 đến 13 của HĐ SCM quy
định cụ thể quy trình khởi xướng và tiến hành điều tra
về trợ cấp và áp dụng các biện pháp chống trợ cấp. Quy
trình này phải đảm bảo tính minh bạch, mọi bên liên
quan phải có cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình, cơ quan
có thẩm quyền phải giải trình rõ tại sao họ lại phán
quyết như thế này chứ không như thế kia.
Cơ quan có thẩm quyền ở nước nhập khẩu có
thể áp dụng một trong 3 dạng biện pháp sau đây: (a)

Sau khi điều tra sơ bộ ít nhất được 60 ngày, áp dụng
các biện pháp đối kháng tạm thời không quá 4 tháng;
(b) Nếu nước xuất khẩu tự nguyện huỷ bỏ hoặc hạn chế
trợ cấp, hoặc xem xét lại giá nhập khẩu khiến cho cơ
quan có thẩm quyền đồng ý rằng thiệt hại sẽ không còn
xảy ra, thì cuộc điều tra sẽ được tạm dừng hoặc chấm
dứt mà không áp dụng các biện pháp tạm thời hoặc thuế
đối kháng; (c) Nếu cho rằng cả 3 điều kiện nói trên đều
đã được xác minh, nước nhập khẩu có thể áp thuế đối
kháng.
Trang 21
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mức thuế đối kháng không được vượt quá mức trợ cấp.
Thậm chí, nếu mức thiệt hại nhỏ hơn mức trợ cấp thì áp
mức thuế tương ứng với thiệt hại. Thuế đối kháng phải
được áp dụng trên nguyên tắc không phân biệt đối xử
và không hối tố. Sau một thời gian nhất dịnh (muộn
nhất là 5 năm) sau khi áp dụng hoặc sau lần xem xét lại
mới nhất, thuế đối kháng phải chấm dứt. Tuy nhiên, nếu
cơ quan có thẩm quyền xác minh được rằng nếu chấm
dứt áp thuế đối kháng sẽ dẫn đến việc phục hồi trợ cấp
và xảy ra thiệt hại, thuế đối kháng sẽ không được huỷ
bỏ. Nếu không hài lòng với phán quyết cuối cùng của cơ
quan có thẩm quyền, có thể kiện lên toà án nước nhập
khẩu theo quy trình xem xét lại các quyết định hành
chính.
Trước hết, WTO là nơi kiện tụng giữa các quốc
gia. Hầu hết các vụ kiện về trợ cấp đều liên quan đến
trợ cấp xuất khẩu. Vì thế, chính phủ là nơi biết rõ nhất

và chia sẻ những tri thức đó. Thế nhưng, những gì diễn
ra xung quanh vụ thép Trung Quốc giá rẻ vào Việt Nam
cho thấy, có vẻ như ngay cả các cơ quan liên quan trực
tiếp nhất cũng chỉ biết lơ mơ và trả lời còn lờ mờ về
thương mại quốc tế, cụ thể là về bán phá giá. Có lẽ đối
với trợ cấp cũng không khá hơn. Điều này quả thật rất
đáng ngại.
Trợ cấp xuất khẩu nói riêng và những kiện tụng
khác liên quan đến thương mại quốc tế nói chung trong
WTO đòi hỏi một vốn tri thức khổng lồ và cặn kẽ về
pháp luật, kinh tế, chính trị và cả các chuyên ngành
khác. Nó cũng cần thứ tiếng Anh tuyệt hảo để tranh cãi
trước các ban hội thẩm và Ban phúc thẩm, trước cơ
quan nước ngoài, để ra phán quyết tâm phục khẩu phục
với đại diện các nước. Ngoài ra, nó cần những kỹ năng
chuyên sâu như hùng biện, ngoại giao... Những điều
kiện này trước hết tối cần thiết cho những chuyên viên
của Bộ Thương mại và có thể là Bộ Ngoại giao, Bộ Tư
pháp sẽ thay mặt chính phủ trực tiếp hầu kiện ở WTO.
Như đã thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp
trong WTO chịu ảnh hưởng lớn từ luật án lệ của hệ
thống Anh - Mỹ. Cách giải thích luật ở đấy rất giống với
cách thẩm phán Mỹ hoặc Anh giải thích luật: họ không
chỉ vận dụng các điều khoản được trực tiếp quy định
trong các Hiệp định của WTO, mà còn viện dẫn đến cả
những nguồn khác như luật tập quán quốc tế, lịch sử
của hiệp định, ý đồ của nhà soạn thảo. Ngay cả khi viện
dẫn câu cú của luật, họ cũng có thể giải thích khá rộng,
có khi ngược với ý đồ ban đầu của văn bản. Biết và hiểu
được tư duy này để: thứ nhất, không bị ngã ngửa khi

nghe lập luật và phán quyết; thứ hai, để sống chung với
nó, lựa theo nó để lập luận tốt nhất cho mình. Cùng một
mức độ về chứng cứ, con người, cứ ai lập luận thuyết
phục hơn thì họ nghe. Thứ ba, khi cần tìm hiểu luật của
WTO, không thể bỏ qua các bản báo cáo của các ban hội
thẩm và Ban phúc thẩm. Các bản báo cáo này là một
nguồn không thể thiếu của luật WTO, vì vậy, nếu cứ
quen như ở nhà chỉ chăm chăm lục tìm văn bản sẽ
không đủ.
Đó là cho chính phủ. Nhưng điều này không có
nghĩa là doanh nghiệp không có việc gì làm ở đây. Ví dụ,
đừng hy vọng nhiều vào việc trợ cấp xuất khẩu, vì phần
lớn nó sẽ rơi vào trường hợp bị cấm, bị áp thuế rất cao,
lợi bất cập hại. Mặt khác, dù cơ hội ít ỏi, nhưng cũng
cần tìm hiểu cặn kẽ để xem lúc nào có thể nhận trợ cấp
xuất khẩu mà không bị cấm. Doanh nghiệp cũng có thể
chủ động đề nghị chính phủ điều tra các mặt hàng nhập
khẩu cùng loại có nhận trợ cấp nhập khẩu hay không;
hoặc yêu cầu chính phủ đưa vấn đề ra cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO. Nhưng muốn thế, giống như chính
phủ, họ cũng phải nắm rõ các quy định liên quan và
nắm được các thông tin cần thiết để tin rằng có sự trợ
cấp như vậy. Bài học chung nhất là biết để tránh, khi
nhỡ xảy ra rồi thì biết để sửa và chịu thiệt hại ít nhất.
3/ Phân loại các hình thức tài trợ
- Ngay tại Điều 1 của Hiệp định này đã quy định:
Một ngành công nghiệp được coi là đã nhận được trợ
cấp khi ngành này “được lợi” do 4 hành động sau đây
của Chính phủ: 1/Hoạt động của Chính phủ liên quan
đến việc chuyển tiền trực tiếp (ví dụ các khoản cho vay

không, cho vay và hỗ trợ cổ phiếu), bảo đảm chuyển
tiền hoặc chuyển nợ trực tiếp (như bảo lãnh thuế).
2/Chính phủ miễn hoặc hoãn thu các khoản thuế đến
hạn (ví dụ các biện pháp khuyến khích tài chính như tín
dụng, thuế). 3/Chính phủ cung cấp hàng hoá hoặc dịch
vụ ngoài cơ sở hạ tầng chung hay mua hàng hoá.
4/Chính phủ tài trợ cho một cơ chế cấp vốn. Tuy vậy,
không phải mọi hoạt động trợ cấp đều bị WTO loại bỏ.
Theo Hiệp định SCM có thể phân ra các loại trợ cấp như
sau: 1/Trợ cấp bị cấm vận hoàn toàn (hay có thể gọi là
“trợ cấp đèn đỏ”) bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp
khuyến khích sử dụng hàng nội so với hàng nhập khẩu.
2/ Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể là đối tượng của
các biện pháp đối kháng (gọi là ềtrợ cấp đèn vàngể). 3/
Trợ cấp không bị cấm và cũng không là đối tượng của
các biện pháp đối kháng (gọi là “trợ cấp đèn xanh”).
- Theo Hiệp định SCM thì tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
của Quỹ Hỗ trợ Phát triển là một hình thức trợ cấp xuất
khẩu. Vấn đề đặt ra ở đây là khi gia nhập WTO, tín dụng
hỗ trợ xuất khẩu có tiếp tục duy trì được hay không và
nếu còn tồn tại thì sẽ có biến đổi gì? Hiện nay SCM hầu
như không còn ngoại lệ dành cho nước phát triển hoặc
những nền kinh tế chuyển đổi nữa vì thế tất cả các ềtrợ
cấp đèn đỏể đều bị hạn chế hoặc nếu nó vẫn được duy
trì sử dụng thì đương nhiên sẽ trở thành đối tượng của
Trang 22
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
các biện pháp đối kháng (điển hình là áp mức thuế cao
vào sản phẩm được trợ cấp ...). Dẫu vậy thì WTO vẫn

ưu ái hơn tới các nước đang phát triển khi có thể cho
phép một số nước có thời gian quá độ 8 năm để từng
bước loại bỏ trợ cấp xuất khẩu và có thời gian 5 năm
chuyển tiếp để cắt giảm các trợ cấp khuyến khích sử
dụng hàng nội so với hàng nhập khẩu.
- Vì vậy, tính từ thời điểm này thì tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu chỉ còn được tối đa là 10 năm nữa để duy trì
và cắt giảm dần dần theo đúng lộ trình mà đoàn đàm
phán gia nhập WTO có thể thương lượng đạt được. Đồng
thời trong quãng thời gian đó hoạt động tín dụng này
cũng cần có sự chuyển biến cho phù hợp hoặc thậm chí
có thể ch m dứt hoàn toàn. Tuy nhiên, khi mà hầu như
không một quốc gia thành viên nào của WTO lại không
duy trì trợ cấp thì Việt Nam cũng sẽ phải nghiên cứu để
duy trì trợ cấp phù hợp nhất. Quan trọng là hình thức
trợ cấp này nên thuộc loại “đèn xanh” và cũng có thể là
“đèn vàng”, nhưng có thể được bỏ qua không sử dụng
các biện pháp đối kháng hay biện pháp đối kháng sử
dụng có thể chấp nhận được.
- Trong vòng 5-10 năm tới tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu phải thực sự tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy
xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
đối với những ngành hàng ưu thế (như nông sản, thuỷ
sản, hạt tiêu, hạt điều, gạo, hàng thủ công mỹ nghệ,
hàng mây tre lá ...) hay những thị trường thế mạnh (thị
trường Đông Âu truyền thống, thị trường Trung Quốc,
Nhật Bản, EU, Mỹ ...) đủ sức trụ vũng và cạnh tranh
được trên thị trường quốc tế. Tiến tới dù không còn sự
hỗ trợ này của Chính phủ thì các doanh nghiệp, các
ngành hàng trên sẽ lại có được sự giúp sức của Hiệp hội

ngành nghề, làng nghề hay Hiệp hội doanh nghiệp lúc
đó là đủ tầm hỗ trợ. Vì thế ngay từ bây giờ song song
với việc hỗ trợ xuất khẩu thì Chính phủ cũng cần quan
tâm tới việc hỗ trợ hình thành và phát triển các hiệp hội
làng nghề hoặc hiệp hội doanh nghiệp rất cần đối với
doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai.
- Vì vậy, tính từ thời điểm này thì tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu chỉ còn được tối đa là 10 năm nữa để duy trì
và cắt giảm dần dần theo đúng lộ trình mà đoàn đàm
phán gia nhập WTO có thể thương lượng đạt được. Đồng
thời trong quãng thời gian đó hoạt động tín dụng này
cũng cần có sự chuyển biến cho phù hợp hoặc thậm chí
có thể ch m dứt hoàn toàn. Tuy nhiên, khi mà hầu như
không một quốc gia thành viên nào của WTO lại không
duy trì trợ cấp thì Việt Nam cũng sẽ phải nghiên cứu để
duy trì trợ cấp phù hợp nhất. Quan trọng là hình thức
trợ cấp này nên thuộc loại “đèn xanh” và cũng có thể là
“đèn vàng”, nhưng có thể được bỏ qua không sử dụng
các biện pháp đối kháng hay biện pháp đối kháng sử
dụng có thể chấp nhận được.
- Mặt khác, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
mong muốn trở thành thành viên của WTO trở thành
hiện thực thì trợ cấp có còn nữa hay không? Thực tế tất
cả các nước thành viên WTO đều duy trì trợ cấp cho
doanh nghiệp, đó là loại ềđèn xanhể hay “đèn vàng”
chấp nhận được: ví dụ như trợ cấp cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D); trợ cấp phát triển khu
vực; Trợ cấp bảo vệ môi trường.
- Cùng với lộ trình cắt giảm dần dần hoạt động hỗ
trợ xuất khẩu trong đó có tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thì

Chính phủ và Quỹ Hỗ trợ phát triển cũng nên nghiên cứu
xem xét mở rộng sang các hoạt động tín dụng ưu đãi
cho các hoạt động “đèn xanh” trên mà đặc biệt là hoạt
động nghiên cứu và phát triển (R&D) hay hoạt động bảo
vệ môi trường làm định hướng phát triển cho các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam trong hội nhập.
* Trợ cấp bị cấm : là các khoản trợ cấp yêu cầu người nhận phải
đáp ứng được những mục tiêu xuất khẩu nhất định, hoặc phải sử dụng
hàng trong nước thay cho hàng nhập khẩu. Chúng bị cấm vì chúng
được xây dựng nhằm làm biến dạng thưưong mại quốc tế, và do đó có
khả năng tác động tiêu cực đến trao đổi thương mại của các thành viên
khác. Những trợ cấp này phải bị dỡ bỏ dần theo một thời gian biểu quy
định. Chúng có thể bị đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
nếu không tuân theo thời gian biểu dỡ bỏ đó. Nếu cơ chế giải quyết
tranh chấp kết luận rằng một khoản trợ cấp thuộc nhóm bị cấm, khoản
trợ cấp đó phải được dỡ bỏ ngay lập tức. Nếu không được dỡ bỏ, nước
nguyên đơn có thể có những biện pháp phản kháng lại khoản trợ cấp
đó. Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi hàng
nhập khẩu được trợ cấp, thuế chống trợ cấp có thể được áp dụng đối
với hàng nhập khẩu.
* Trợ cấp có thể áp dụng : đối với những khoản
trợ cấp trong nhóm này, nước nguyên đơn phải chứng
minh được rằng khoản trợ cấp đó có tác động tiêu cực
đối với lợi ích của họ. Nếu không chứng minh được điều
đó, khoản trợ cấp được phép áp dụng. Hiệp định quy
định ba hình thức thiết hại có thể gây ra bởi các khoản
trợ cấp thuộc nhóm này. Thứ nhất, trợ cấp của một
nước có thể gây thiệt hại đến ngành sản xuất nội địa
của nước nhập khẩu. Thứ hai, trợ cấp của một nước có
thể gây thiệt hại đến xuất khẩu của một nước khác khi

hàng của 2 nước cạnh tranh với nhau trên thị trường của
một nước thứ ba. Thứ ba, trợ cấp nội địa của một nước
có thể gây thiệt hại đối với hàng xuất khẩu của các nước
khác được bán trên thị trường của nước áp dụng biện
pháp trợ cấp. Cũng giống như trường hợp trên, khi
ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi hàng nhập
khẩu được trợ cấp, thuế chống trợ cấp có thể được áp
dụng đối với hàng nhập khẩu
- Hiệp định công nhận rằng trợ cấp có thể đóng một vai trò
quan trọng ở các nước phát triển cũng như trong việc chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang các nền kinh tế thị
trường.
4/ Những điểm chính (hiệp định) của WTO về
chống tài trợ trong lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp
- Một trong những nội dung mà cả Quỹ Hỗ trợ phát
triển, các tổ chức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến các
doanh nghiệp xu t khẩu quan tâm tìm hiểu để có những
bước chuyển biến phù hợp với tiến trình Việt Nam gia
nhập WTO là: Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối
kháng - Agreement on Subsidies and Countenrvailing
Measures (SCM). SCM là một trong rất nhiều Hiệp định
của WTO mà mục đích chung của các Hiệp định này là
ngăn cấm hoặc hạn chế các ảnh hưởng xấu tới hoạt
động thương mại giữa các nước thành viên WTO, nhằm
tạo ra một sân chơi chung bình đẳng cho mọi thành viên
của Tổ chức này.
- Theo Hiệp định SCM thì tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
của Quỹ Hỗ trợ Phát triển là một hình thức trợ cấp xuất
khẩu. Vấn đề đặt ra ở đây là khi gia nhập WTO, tín dụng

hỗ trợ xuất khẩu có tiếp tục duy trì được hay không và
nếu còn tồn tại thì sẽ có biến đổi gì? Hiện nay SCM hầu
như không còn ngoại lệ dành cho nước phát triển hoặc
những nền kinh tế chuyển đổi nữa vì thế tất cả các ềtrợ
cấp đèn đỏể đều bị hạn chế hoặc nếu nó vẫn được duy
trì sử dụng thì đương nhiên sẽ trở thành đối tượng của
các biện pháp đối kháng (điển hình là áp mức thuế cao
vào sản phẩm được trợ cấp ...). Dẫu vậy thì WTO vẫn
ưu ái hơn tới các nước đang phát triển khi có thể cho
phép một số nước có thời gian quá độ 8 năm để từng
bước loại bỏ trợ cấp xuất khẩu và có thời gian 5 năm
chuyển tiếp để cắt giảm
Hiệp định nông nghiệp của WTO yêu cầu các nước phải
giảm các hình thức trợ cấp bóp méo thương mại và chia
trợ cấp thành các nhóm:
* Hộp Xanh lá cây: gồm các biện pháp hỗ trợ
không hoặc hầu như không gây bóp méo thương mại
nên các nước được phép duy trì không giới hạn. Đặc
điểm của các biện pháp hỗ trợ thuộc Hộp Xanh lá cây là
do ngân sách chính phủ chi trả và không mang tính chất
hỗ trợ giá trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội so với
hàng nhập khẩu.
* Hộp Xanh lơ: gồm các khoản chi trả trực
tiếp từ ngân sách nhà nước mà gắn với sản xuất và
Trang 23
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
thuộc các chương trình thu hẹp sản xuất nông nghiệp.
Các nước không phải cam kết cắt giảm các biện pháp
này.

* Hộp Hổ phách: gồm các biện pháp hỗ trợ bị
coi là gây bóp méo sản xuất và thương mại, vì thế các
nước phải cam kết cắt giảm theo một lộ trình nhất định.
Các biện pháp được xếp vào Hộp Hổ phách có thể là hỗ
trợ giá, trợ cấp gắn với sản xuất, tức là tất cả biện pháp
hỗ trợ trong nước mà không nằm trong Hộp Xanh lá cây
và Xanh lơ. Theo qui định của hiệp định nông nghiệp,
tổng mức hỗ trợ gộp cho phép đối với nước đang phát
triển là 10% giá trị sản lượng của sản phẩm nếu là hỗ
trợ cho sản phẩm cụ thê, và là 10% giá trị sản xuất
nông nghiệp cả nước nếu là hỗ trợ không

5/ Vài nét về cam kết của Việt Nam về việc gia
nhập WTO về tài trợ xuất khẩu, nêu lộ trình bỏ tài
trợ xuất khẩu
- Việt Nam cũng đã cam kết xóa bỏ trợ cấp xuất
khẩu nông sản kể từ ngày gia nhập WTO và ràng buộc
trợ cấp xuất khẩu nông sản ở mức 0 trong Biểu cam kết
về hàng hóa. Đối với trợ cấp bị cấm theo quy định của
Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của
WTO, Việt Nam cam kết xóa bỏ trợ cấp theo tỷ lệ nội địa
hoá hoặc yêu cầu sử dụng nguyên liệu trong nước và trợ
cấp trực tiếp từ ngân sách theo thành tích xuất khẩu từ
thời điểm gia nhập WTO.
Đối với một số trợ cấp xuất khẩu bị cấm dưới hình thức
ưu đãi đầu tư đã cấp cho các dự án sản xuất hàng xuất
khẩu được cấp phép trước khi gia nhập, Việt Nam đề
nghị được áp dụng giai đoạn chuyển đổi 5 năm để xóa
bỏ từng bước các trợ cấp này nhằm bảo đảm tôn trọng
cam kết của Chính phủ với các nhà đầu tư hiện tại và ổn

định môi trường kinh doanh trong nước.
- Với nông sản, cũng như các thành viên mới gia
nhập khác, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ trợ cấp xuất
khẩu kể từ ngày gia nhập WTO. Các hình thức hỗ trợ
nông nghiệp khác không gắn với xuất khẩu vẫn được
duy trì.
- Với sản phẩm phi nông nghiệp, trong suốt 12 năm
đàm phán, Việt Nam đã kiên trì thuyết phục các thành
viên WTO cho Việt Nam hưởng ngoại lệ của Hiệp định về
Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM) nhưng do đàm
phán gia nhập là đàm phán một chiều, các nước mới gia
nhập trước đó đều không đòi được ngoại lệ nên cuối
cùng Việt Nam đã cam kết như sau:
+ Bãi bỏ trợ cấp thay thế nhập khẩu (như thuế
ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa) và các loại trợ cấp xuất
khẩu dưới hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà
nước (như bù lỗ cho hoạt động xuất khẩu, thưởng theo
kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất cho hợp đồng xuất
khẩu…) kể từ khi gia nhập WTO.
+ Với trợ cấp xuất khẩu “gián tiếp” (chủ yếu
dưới dạng ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất
khẩu), sẽ không cấp thêm kể từ khi gia nhập WTO. Tuy
nhiên, với các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã được
hưởng ưu đãi loại này từ trước ngày gia nhập WTO, ta
được một thời gian quá độ là năm năm để bãi bỏ hoàn
toàn.
Riêng với ngành dệt - may, tất cả các loại trợ cấp bị cấm
theo Hiệp định SCM, dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều
được bãi bỏ ngay từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tóm lại, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ hoàn toàn trợ

cấp bị Hiệp định SCM cấm kể từ khi gia nhập, chỉ bảo
lưu năm năm cho các ưu đãi đầu tư sản xuất hàng xuất
khẩu (ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất,
tiền sử dụng đất...) đã cấp cho các dự án từ trước ngày
gia nhập WTO (nhưng không bao gồm các dự án dệt-
may). Các hình thức hỗ trợ khác cho sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp, nếu không gắn với xuất khẩu
hoặc khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu, vẫn tiếp
tục được duy trì.
+ Giai đoạn quá độ năm năm là ngoại lệ chưa
từng có kể từ ngày WTO được thành lập. Trước yêu cầu
kiên trì và chính đáng của Việt Nam, một nước đang
phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình
chuyển đổi, các thành viên WTO đã phải nhân nhượng.
Tuy chưa được như mong muốn nhưng kết quả đàm
phán này đã phần nào giúp các doanh nghiệp của ta có
thêm thời gian để tự điều chỉnh, tránh được sự thay đổi
đột ngột.
* Tác động tới doanh nghiệp:
+ Việc bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội
địa hóa chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới một số doanh
nghiệp. Để đánh giá mức độ ảnh hưởng, cần xem xét
các khía cạnh như đối tượng và quy mô được hưởng trợ
cấp, hiệu quả thực tế của trợ cấp, mối quan hệ giữa trợ
cấp với nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng
của Nhà nước trong việc chuyển đổi từ trợ cấp thuộc
diện phải bãi bỏ sang các hình thức trợ cấp khác được
WTO cho phép.
+ Về quy mô, không có nhiều số liệu để phân
tích. Tuy nhiên, với ngân sách còn hạn chế như hiện nay

(và trong nhiều năm tới), có thể khẳng định con số là
rất khiêm tốn. Chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu
được áp dụng từ 1998 nhưng mãi tới 2004, tổng tiền
thưởng mới đạt 29,4 tỉ đồng, tương đương gần 2 triệu
đô la Mỹ (báo Tuổi Trẻ ngày 25-7-2006). Số doanh
nghiệp được thưởng là 349. Thật khó để nói rằng hàng
vạn doanh nghiệp xuất khẩu của ta, với kim ngạch xuất
khẩu trên 30 tỉ đô la Mỹ/năm, lại “gặp khó khăn nghiêm
trọng” khi Nhà nước bãi bỏ hình thức trợ cấp này.
+ Đối tượng được hưởng trợ cấp xuất khẩu
cũng là việc cần bàn. Có ý kiến cho rằng bãi bỏ trợ cấp
xuất khẩu nông sản sẽ khiến nông dân gặp khó khăn,
nhưng từ trước tới nay, đã bao giờ người nông dân được
tiếp cận trực tiếp trợ cấp xuất khẩu, hay đối tượng được
hưởng chỉ là các doanh nghiệp? Cứ cho là doanh nghiệp
được hưởng thì giá mua sản phẩm của nông dân sẽ tăng
lên thì còn cần xét xem điều
+ Trong báo cáo của Bộ Tài chính về những
cam kết của Việt Nam gia nhập WTO cho biết, theo quy
định của WTO về trợ cấp tập trung chủ yếu vào việc
phân biệt giữa các hình thức trợ cấp được phép với các
trợ cấp không được phép. Trợ cấp được phép áp dụng
bao gồm các hỗ trợ cho nghiên cứu phát triển, hỗ trợ
vùng khó khăn, hỗ trợ bảo vệ môi trường ... Trợ cấp bị
cấm, chủ yếu là các khoản trợ cấp xuất khẩu hoặc thay
thế hàng nhập khẩu sẽ phải loại bỏ hoàntoàn.
Cụ thể, trong cam kết WTO, Việt Nam phải bỏ
toàn bộ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản ngay
khi gia nhập; với các khoản hỗ trợ trong nước được duy
trì ở mức 10% giá trị sản lượng như các nước đang phát

triển khác trong WTO. Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính thì
mức hỗ trợ trong nước thực tế hiện nay đang thấp hơn
10%.
Trong công nghiệp, xóa bỏ từ thời điểm gia
nhập các khoản trợ cấp bị cấm như trợ cấp xuất khẩu và
trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu; những khoản trợ cấp
chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp
bị cấm dưới hình thức ưu đãi đầu tư cho xuất khẩu và
thay thế hàng nhập khẩu sẽ phải bỏ sau 5 năm từ thời
điểm gia nhập đối với các dự án đã đi vào hoạt động.
Tuy nhiên các ưu đãi này không được áp dụng với các dự
án mới thành lập từ sau khi gia nhập. Riêng các khoản
trợ cấp bị cấm đang áp dụng với ngành dệt may sẽ phải
bỏ ngay từ thời điểm gia nhập.
- Những trợ cấp khác mà WTO không cấm thì chúng
ta vẫn được sử dụng. Một số thông tin gần đây có đăng
gia nhập WTO chúng ta sẽ bỏ hết trợ cấp, điều đó không
Trang 24

Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
phải. Chúng ta chỉ bỏ những trợ cấp bị cấm, còn những
trợ cấp không cấm thì vẫn được duy trì và thực hiện.
Còn đối với trợ cấp trong các lĩnh vực khác liên quan dệt
may, chúng ta có Quyết định 55 của Thủ tướng Chính
phủ. Khi những người dịch lại cho các cơ quan nước
ngoài, phiên dịch không chuẩn. Trong Quyết định số 55,
chúng ta nói hỗ trợ các doanh nghiệp để sản xuất hàng
dệt và may để xuất khẩu. Nhưng, từ hỗ trợ không có
nghĩa là cho không (nhiều người dịch là subsidize - cho

không) dẫn đến có sự hiểu lầm. Chúng ta chỉ hỗ trợ vay
vốn, Nhà nước chỉ hỗ trợ chênh lệch giữa lãi suất thông
thường và lãi suất ưu đãi, tổng cái đó chỉ có năm triệu
USD. Khi đàm phán với Hoa Kỳ, phía họ nói Việt Nam
trợ cấp bốn tỷ USD cho ngành dệt may. Ðiều đó không
phải. Khi chúng ta chứng minh đầy đủ số liệu, đoàn Hoa
Kỳ mới cho là đúng. Thứ nhất, vấn đề cấp phép, Việt
Nam cấp phép cho tất cả các doanh nghiệp thuộc tất cả
các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tham gia lĩnh vực dệt may. Thứ hai,
chênh lệch, Việt Nam chỉ ưu đãi về lãi suất, trong thời
gian qua chỉ có năm triệu USD, như vậy không phải lớn.
Nhưng, để thực hiện đàm phán với Hoa Kỳ, Việt Nam đã
bỏ Quyết định 55. Hoa Kỳ sẽ bỏ hạn ngạch dệt may đối
với Việt Nam. Khi bỏ hạn ngạch dệt may của Hoa Kỳ, thì
EU và Canada đã bỏ hạn ngạch cho chúng ta từ năm
2005. Khi gia nhập WTO, toàn bộ dệt may không bị hạn
ngạch nữa. Ðây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt
Nam. Chúng ta cũng phải bỏ một số quy định cấm:
nhập khẩu thuốc lá điếu, ô-tô đã qua sử dụng, linh kiện
liên quan máy tính. Trên thực tế, cấm nhập ô-tô đã qua
sử dụng đã bỏ rồi, vấn đề hiện nay là thuế, làm thế nào
bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Bộ Tài chính đang
tiếp tục làm để xử lý vấn đề thuế, vì đây cũng là một
trong những vấn đề đáng quan tâm. Chúng ta một mặt
cần bảo vệ lợi ích của người sản xuất, đồng thời cũng
cần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Phải cân đối hai
lợi ích này, chứ không thể chỉ chú ý đến lợi ích của
người sản xuất, mà không chú ý đến lợi ích của người
tiêu dùng.

- Hai là, nền kinh tế của chúng ta có thời kỳ chuyển
đổi, nên có lộ trình giảm thuế, lộ trình chuyển đổi thị
trường. Lộ trình giảm thuế lấy mức thuế hiện hành bắt
đầu giảm trong vòng 3-5 năm sẽ xuống mức 14%. Tất
nhiên, từng mặt hàng có mức cắt giảm khác nhau: xe
máy phân khối lớn theo lộ trình chúng ta cắt xuống còn
45% (hiện nay 60%); ô-tô tùy loại mức cắt giảm xuống
còn 52% hoặc 47% hoặc 50%. Chúng ta áp mức thuế
bảo hộ cho ngành ô-tô, xe máy khá cao. Cho nên trên
thực tế mức đó không phù hợp lắm, nếu chỉ bảo vệ cho
người sản xuất, thì người tiêu dùng Việt Nam hiện nay
chịu mức giá ô-tô cao nhất thế giới. Vì vậy, chúng ta
phải giảm thuế, một mặt phải bảo vệ người sản xuất,
mặt khác phải cân đối lại lợi ích của người tiêu dùng.
Hơn nữa, thực tế các tập đoàn đa quốc gia phân vùng,
phân khu vực thành thị trường, cho nên đó cũng là điều
kiện. Một số ngành sản xuất trong nước của Việt Nam
hiện nay cũng đã phát triển. Cho nên, những ngành đó
trong thời gian qua đã thay thế được phần lớn các mặt
hàng lâu nay vẫn nhập khẩu. Khi chúng ta mở cửa thị
trường, các nhà sản xuất trong nước có sản phẩm rồi.
Muốn hay không họ phải giảm chi phí, nâng cao khả
năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Như thế,
chúng ta sẽ có điều kiện đó. Thí dụ, phân đạm chúng ta
đã có nhà máy phân đạm, nếu thuế có cao thì nhà máy
phân đạm trong nước đã có khả năng cung cấp cho thị
trường. Toàn bộ ngành bia, có mở nữa cũng coi như
toàn bộ các công ty bia của Việt Nam vẫn cạnh tranh
được; hoặc vật liệu xây dựng, xi-măng, thép (chủ yếu
thép xây dựng, bắt đầu có đầu tư thép cao cấp), điều

kiện kinh tế của Việt Nam bây giờ đã khác xa so với
cách đây 15 năm.
- Ðối với nông nghiệp, các nước thành viên cũ, mức
thuế nông nghiệp khoảng 22%. Nhưng xu hướng các
nước mới gia nhập phải giảm thuế nhiều hơn để gia
nhập. Vì các nước cho rằng, các nước đã gia nhập phải
mất vài chục năm đấu tranh từ GATT để có thành quả
như bây giờ. Các nước mới gia nhập nhiều hay ít đều
phải đóng góp qua việc cắt giảm thị trường, cắt giảm
thuế.
- Nhưng, tổng thuế với nông nghiệp, Việt Nam có
lợi thế là có nhiều mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu. Ðã
xuất khẩu được thì cạnh tranh được với thế giới. Chúng
ta lo mặt hàng thịt bò, thịt lợn. Chúng ta thấy, thịt bò,
thịt lợn là các mặt hàng từ chăn nuôi đơn lẻ, chưa có
theo hình thức trang trại. Cho nên, trong đàm phán rất
khó khăn. Các nước xuất khẩu thịt bò lớn: Hoa Kỳ,
Canada, Australia, New Zealand đều yêu cầu giảm thuế
tới 0-5%. Chúng ta trả lời: Bò Việt Nam phần lớn là bò
cóc, mỗi hộ nuôi 5-10 con, năng suất thấp, sức cạnh
tranh không cao. Giống bò của Việt Nam phần lớn phải
nhập khẩu, phần trợ cấp của Nhà nước trong lĩnh vực
này hầu như không có. Các nước cũng thấy được khó
khăn của Việt Nam và cũng đi đến mức giảm đến 4-5%
so với mức thuế hiện hành. Mức 0-5% thì chúng tôi
cũng nói thẳng đàn bò cóc Việt Nam chết, không tồn tại.
Và chúng tôi gia nhập WTO muốn để ổn định, phát triển,
mở cửa, nhưng mức độ phải phù hợp với Việt Nam chứ
không phải mở theo bất cứ điều kiện nào. Cuối cùng,
các nước cũng phải chấp nhận, ngay cả đàm phán với

Hoa Kỳ vấn đề cuối cùng là đàm phán về thịt bò và thịt
lợn, thuế nông nghiệp. Chúng tôi phải chấp nhận điều
kiện với Hoa Kỳ là cao hơn so với Australia và New
Zealand. Sau này cân đối lại biểu thuế sẽ có sự điều
chỉnh. Các mức thuế sẽ áp dụng MFN cho nên các nước
đều hưởng mức thuế như nhau. Cuối cùng Ban Thư ký
sẽ tổng hợp lại.
- Ðàm phán song phương là những cuộc đàm phán
căng thẳng. Tất cả các đối tác yêu cầu đàm phán đông
vì các lý do: họ cho rằng Việt Nam là một thị trường
tương lai hứa hẹn, vì Việt Nam có số dân đông thứ 13
thế giới, lao động hơn 40 triệu người, lao động trẻ hơn
30 triệu người. Việt Nam có vị trí thuận lợi cả trên bộ,
trên biển, hàng không, là điều kiện cho phát triển
thương mại sau này. Việt Nam có điều kiện thuận lợi
nữa là chúng ta ổn định về chính trị nhất trong khu vực.
Ðây là điều các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Có
thể nói, thương mại Việt Nam những năm qua tăng liên
tục nhưng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu chưa phải là
lớn lắm. Thí dụ, năm 2005 kim ngạch cả xuất, nhập
khẩu mới đạt hơn 60 tỷ USD. Nếu riêng xuất khẩu mới
khoảng hơn 30 tỷ USD, chúng ta phải phấn đấu nhiều
hơn nữa. Ðàm phán các nước thống nhất như vậy,
nhưng nhìn vào tương lai, nhiều nước đòi hỏi được đàm
phán. Khi chúng ta đàm phán với Trung Quốc, chúng ta
tưởng giữa Việt Nam - Trung Quốc đã có Hiệp định tự do
thương mại trong ASEAN, nên không cần đàm phán nữa,
nhưng với Trung Quốc vẫn phải đàm phán 10 phiên, rất
nhiều phiên căng thẳng, đàm phán suốt đêm, nhiều vấn
đề căng: mở du lịch, ngân hàng phụ, mở vận tải đường

bộ, nhưng sau đó, chúng ta thấy khi đàm phán phải dựa
vào quy định của WTO. Chúng ta thấy về vấn đề đường
bộ, trong WTO chưa phát triển, hầu như chưa nước nào
cam kết, nên bỏ, ngân hàng phụ thì chúng ta có ngân
hàng 100% vốn nước ngoài, chúng ta không thể mở
theo kiểu đó được. Cuối cùng, Trung Quốc cũng chấp
nhận.
- Ðặc biệt, đàm phán sau này với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ
và EU là các đối tác lớn nhất trong WTO cả về hàng hóa
và dịch vụ. Hoa Kỳ và EU đàm phán không phải vì lợi ích
của Hoa Kỳ và EU mà vì lợi ích của cả Tổ chức Thương
mại thế giới, nên yêu cầu đàm phán rộng hơn, sâu và đa
dạng hơn. Ðàm phán như vậy rất phức tạp. Chúng ta
cho rằng xong đàm phán song phương (BTA) thì sẽ gần
xong việc gia nhập WTO, trên thực chất, có một số vấn
đề rất lớn chưa giải quyết được, như hàng dệt may Việt
Nam còn hạn ngạch. Mặt khác chúng ta vẫn còn bị luật
Jackson vanik hằng năm Quốc hội Hoa Kỳ gia hạn một
lần về cơ chế thương mại và chúng ta chưa được hưởng
Trang 25

×