Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá chức năng thận tồn lưu ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.05 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẬN TỒN LƯU Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN
MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Bùi Thị Ngọc Yến*, Trần Thị Bích Hương*

TÓM TẮT
Mở đầu: Chức năng thận tồn lưu (Residual Renal Function, RRF) là chức năng thận còn lại ở bệnh nhân
(bn) suy thận mạn giai đoạn cuối (STMGĐC), tham gia thải các chất có trọng lượng phân tử trung bình.
Mục tiêu nghiên cứu: (1) Đánh giá chức năng thận tồn lưu, thể tích nước tiểu ở bn STMGĐC chưa điều trị
thay thế thận, (2) So sánh giữa nhóm “còn RRF” (RRF ≥1ml/ph/1,73m2) và “mất RRF” (RRF <1ml/ph/1,73m2)
về các biến chứng mạn tính của STMGĐC.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, tiền cứu, tiến hành tại khoa Nội Thận,
bệnh viện Chợ Rẫy, từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 3 năm 2013, trên 102 bn STMGĐC. Các bn được đo RRF
và đánh giá các biến chứng mạn tính của STMGĐC (tiêu hóa, tim mạch, thiếu máu, rối loại điện giải, thăng bằng
kiềm toan).
Kết quả: Chức năng thận tồn lưu của 102 bn có trung vị 3,14ml/ph/1,73m2, 91 bn (89,21%) “còn RRF”
(RRF ≥1ml/ph/1,73m2), 50% bn có thể tích nước tiểu >1000ml. Thể tích nước tiểu 24 giờ có tương quan với RRF
(r = 0,59, r2 = 0,35, p <0,001), và thể tích nước tiểu ≥200ml tương ứng với RRF ≥1ml/ph/1,73m2. Nhóm bn “còn
RRF” có tỷ lệ thiếu máu, nhu cầu truyền máu, suy tim, phù, tăng huyết áp và nguy cơ chạy thận nhân tạo cấp
cứu thấp hơn so với nhóm “mất RRF”.
Kết luận: Hầu hết các bn STMGĐC đều thuộc nhóm “còn RRF”. Tuy còn ít, RRF là yếu tố cần quan tâm
và bảo vệ để giảm thiểu các biến chứng ở bn STMGĐC, và tăng hiệu quả của các biện pháp điều trị thay thế thận.
Từ khóa: Chức năng thận tồn lưu, suy thận mạn giai đoạn cuối, "còn RRF", "mất RRF"

ABSTRACT
TO EVALUATE THE RESIDUAL RENAL FUNCTION OF END STAGE KIDNEY DISEASE PATIENTS
AT CHO RAY HOSPITAL
Bui Thi Ngoc Yen, Tran Thi Bich Huong


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 158 - 165
Background: Residual renal function (RRF), the preserved kidney function of end stage renal disease
(ERSD) patients, involves to the removal of the middle molecules.
Purposes: 1) To evaluate the residual renal function of ESRD patients at pre-dialysis stage, 2) To compare
some chronic complications at this end stage between the preserved (RRF>1ml/min/1.73) and loss RRF
(RRF<1ml/min/1.73) patients.
Methods: A prospective, cross sectional study was perfomed from Septemper 2012 to March 2013 at the
Nephrology Deparment, Cho Ray Hospital. Patients were measured residual renal function and evaluated some
chronic complications of ESRD (as gastrointestinal, cardiovascular complications, anemia, electrolytes and acid
base disorders).
Results: Median RRF of 102 patiens was 3.14 ml/min/1.73m2, in which 91 patients (89.21%) in
the“preserved RRF” group, 50% patients had urine volume ≥1000ml/24 hours. The 24h urine volume correlated
* Bộ Môn Nội, Đại Học Y Dược Tp Hồ chí Minh, Bệnh viện Chợ Rẫy, Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Bùi thị Ngọc Yến, ĐT: 0938052189, Email:

158

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học

to RRF (r=0.9, R2=0,35, p<0.001). The urine volume ≥200ml/24 hours was equivalent to RRF ≥1ml/min/1.73m2.
The “preversed RRF” patients had less anemia, less blood transfusion, less heart failure complications, less edema,
lower blood pressure, and less number of emergency hemodialysis than the “loss RRF” ones.
Conclusion: The majority of our ESRD patients well preserved RRF. This even tiny remained kidney
function needed to be concerned and protected to limit the chronic complications in ESRD patients and
supplemented to the effectiveness of renal replacement therapy.

Keywords: Renal Residual Function, End stage renal disease, Preserved RRF, Loss RRF.

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU

Chức năng thận tồn lưu (Residual Renal
Function, RRF) là chức năng thận còn lại ở bệnh
nhân (bn) suy thận mạn giai đoạn cuối
(STMGĐC) trước hoặc sau điều trị thay thế thận.
Tuy cùng giai đoạn cuối nhưng không phải mọi
bn STMGĐC đều có RRF giống nhau. Theo y
văn(10,11) những bn có RRF ≥1ml/ph/1,73m2 (còn
gọi là “còn RRF”) có tỷ lệ biến chứng tim mạch,
tử vong thấp hơn những bn có RRF
<1ml/ph/1,73m2 (còn gọi là “mất RRF”), ngay cả
RRF chỉ còn 0,5ml/ph/1,73m2 cũng làm giảm 9%
tỷ lệ tử vong. Trên thế giới, ở những nước có tỷ
lệ thẩm phân phúc mạc chiếm ưu thế như Hồng
Kông, Thái Lan, Canada, RRF được nghiên cứu
nhiều về lợi ích cũng như các yếu tố ảnh hưởng
và biện pháp bảo tồn RRF. Năm 2010, Nguyễn
Thị Thanh Thùy ghi nhận 71,66% (43/60) bn
thẩm phân phúc mạc định kỳ ngoại trú
(Continous Ambulatory Peritoneal Dialysis,
CAPD) "còn RRF"(12) và nhóm này ít có triệu
chứng suy tim, dùng ít thuốc tăng huyết áp hơn,
có nồng độ albumin máu, hemoglobin cao hơn
nhóm “mất RRF”. Chúng tôi chưa tìm được
nghiên cứu nào về đánh giá RRF ở những bn

STMGĐC chưa điều trị thay thế thận ở nước ta.
Do đó, chúng tôi đề ra nghiên cứu này nhằm
mục tiêu: (1) Đánh giá chức năng thận tồn lưu,
thể tích nước tiểu ở bn STMGĐC chưa điều trị
thay thế thận, (2) So sánh giữa nhóm “còn RRF”
(RRF ≥ 1ml/ph/1,73m2) và “mất RRF” (RRF <
1ml/ph/1,73m2) về các biến chứng mạn tính của
bn STMGĐC.

Tiêu chuẩn nhận bệnh

Chuyên Đề Thận Niệu

Các bệnh nhân đã được chẩn đoán STMGĐC
(dựa vào độ lọc cầu thận ước đoán (estimated
GFR, eGFR) <15ml/ph/1,73m2) từ creatinine
huyết thanh theo công thức MDRD
(Modification of Diet in Renal Disease Study)
kéo dài trong ít nhất 3 tháng, siêu âm kích thước
thận teo nhỏ (với chiều dài dưới 80mm)), chưa
điều trị thay thế thận, nhập khoa Nội Thận bệnh
viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2012 đến tháng 3/2013.

Tiêu chuẩn loại trừ
Suy thận cấp, suy thận tiến triển nhanh, bệnh
lý cấp tính nặng hoặc không thu thập đủ số liệu
cần thiết.

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, tiền cứu, mô tả.


Các bước tiến hành
a- Đo chức năng thận tồn lưu
Trước khi đo RRF, bn được đo creatinine
huyết thanh (HT) 2 lần trong 2 ngày liên tiếp và
đối chiếu với creatinine HT cơ bản để loại trừ
suy thận cấp hoặc tiến triển nhanh. Chức năng
thận tồn lưu là trung bình cộng của độ thanh lọc
creatinine 24 giờ (Clcre24h)và độ thanh lọc urê
24 giờ (Clurê24h).
Chức năng thận tồn lưu: RRF = (1/2) x
(Clcre24h + Clurê24h) (ml/ph/1,73m2).
Độ thanh lọc 24 giờ của creatinine và urê
được tính theo công thức sau:
Độ thanh lọc của chất X

159


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học

(Ux: nồng độ chất X trong nước tiểu (mg/dL),
V: thể tích nước tiểu trong 1 đơn vị thời gian
(ml/phút), Px: nồng độ chất X trong HT (mg/dL))
Hiệu chỉnh theo diện tích da: Diện tích da
(m ) = ((cân nặng x chiều cao)/3600)1/2

Định nghĩa các biến số

Thiếu máu
Nồng độ hemoglobin dưới 12g/dL ở nam và
dưới 11g/dL ở nữ (theo WHO).

2

Độ thanh lọc X (ml/ph/1,73m2) = (độ thanh
lọc X x 1,73)/diện tích da
b- Với cùng thể tích nước tiểu lưu 24 giờ, bn
còn được đo thêm độ thanh lọc 24 giờ của các
chất khác như Natri, Kali, Canxi, Chlor, acid uric,
protein nước tiểu 24 giờ.
c- Đánh giá các biến chứng mạn tính của
STMGĐC gồm dựa trên lâm sàng: huyết áp, suy
tim, thiếu máu, dinh dưỡng (cân nặng, chỉ số
khối cơ thể - BMI), rối loạn tiêu hóa (buồn nôn,
nôn, chán ăn) và cận lâm sàng gồm xét nghiệm
sinh hóa máu (ion đồ, canxi, phosphate, PTH,
khí máu động mạch, acid uric, albumin, protid,
lipid), sinh hóa nước tiểu (ion đồ, acid uric). Qua
đó tính phân suất thải natri, kali, chlor, canxi,
acid uric dựa vào công thức sau:
Phân suất thải (FE - Fractional Excretion) của
một chất là tỷ lệ phần trăm của chất được lọc mà
sau đó được thải qua nước tiểu.
Phân

suất

thải:


C(A): nồng độ chất A trong HT (mMol/L),
Ccreatinine: nồng độ creatinine trong HT
(mg/dL), U(A): nồng độ chất A trong nước tiểu
(mMol/L), Ucreatinine: nồng độ creatinine trong
nước tiểu (mg/dL).
Các xét nghiệm máu và nước tiểu được tiến
hành tại Khoa Huyết Học và Khoa Sinh Hóa,
Bệnh viện Chợ Rẫy. Creatinine HT được định
lượng bằng kỹ thuật picrate kiềm động, BUN
được định lượng bằng phương pháp đo màu
qua máy tự động Olympus AU400.
d- Xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh (ECG,
Xquang ngực, siêu âm tim, siêu âm bụng) được
tiến hành tại Khoa Siêu Âm và Khoa Chẩn Đoán
Hình Ảnh, Bệnh viện Chợ Rẫy.

160

Biến chứng tiêu hoá ở bn STMGĐC
Có một hoặc nhiều triệu chứng buồn nôn,
nôn, đau bụng, tiêu chảy, ói hoặc đi tiêu ra máu.
Tăng huyết áp
Huyết áp tâm thu ≥140mmHg và hoặc huyết
áp tâm trương ≥90mmHg (JNC VII) và hoặc
đang điều trị tăng huyết áp và hoặc có tiền căn
tăng huyết áp.
Đái tháo đường
Đường huyết lúc đói ≥126mg/dL (≥ 2 lần
thử), đường huyết bất kỳ ≥ 200mg/dL kèm

triệu chứng tăng đường huyết, HbA1C ≥ 6,5%
(ADA 2010).
Suy tim (theo tiêu chuẩn Framingham năm
1996)
Lâm sàng ít nhất 2 tiêu chuẩn chính (khó thở
kịch phát về đêm, tĩnh mạch cổ nổi, ran phổi, tim
to, phù phổi cấp, áp lực tĩnh mạch cổ >16cmH20,
phản hồi gan, tĩnh mạch cổ dương) hoặc 1 tiêu
chuẩn chính và 2 tiêu chuẩn phụ (phù chi, ho về
đêm, khó thở khi gắng sức, gan to, tràn dịch
màng phổi, dung tích sống giảm 1/3, nhim tim
nhanh ≥ 120 lần/ phút), tiêu chuẩn chính hoặc
phụ (giảm 4,5kg trong 5 ngày điều trị suy tim)
Thu thập và xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng SPSS 16.0. Khảo sát
tính chuẩn biến định lượng bằng phép kiểm
Kolmogorov Smirnov. Kiểm định sự khác biệt
biến định tính bằng Chi-square, 2 nhóm không
có phân phối chuẩn bằng Mann Whitney. p <
0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 10/2012 đến tháng
3/2013, chúng tôi có 102 bn thỏa tiêu chí chọn
bệnh, trong đó có 53 nam (52%), tuổi trung vị
của nhóm nghiên cứu là 55 (41 – 66) tuổi. Do các
biến số liên tục đều không có phân phối chuẩn,

Chuyên Đề Thận Niệu



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
nên chúng tôi trình bày bằng trung vị và tứ phân
vị. Về tiền căn, chúng tôi ghi nhận có 20 bn
(19,6%) có tiền căn đái tháo đường (type 1 và 2),
67 bn (65,69%) tiền căn tăng huyết áp, 76 bn
(74,5%) có tiền căn bệnh thận trước khi nhập
viện vì STMGĐC. Có 53/76 bn có tiền căn bệnh
thận được bác sĩ thận theo dõi đến trước nhập
viện, 33 bn biết được giá trị creatinine căn bản
(7,15 (4,5 – 7,7) mg/dL). Một bn được mổ tạo dò
động tĩnh mạch (Arteriovenous Fistule, AVF)
trước nhập viện 3 tháng, và AVF được dùng để
chạy thận nhân tạo (TNT) cấp cứu trong lần
nhập viện này. Phần lớn bn nhập viện vì lý do
mệt (36 bn, 35,29 %) và khó thở (20 bn, 19,61%).
Có 2 bn (1,96%) đái tháo đường type 2 nhập viện
vì hạ đường huyết sau dùng Metformin, 2 bn

Nghiên cứu Y học

(1,96%) nhập viện vì tăng kali khi đang dùng
thuốc ức chế men chuyển.

Kết quả chức năng thận tồn lưu
Chức năng thận tồn lưu của nhóm nghiên
cứu có trung vị 3,14ml/phút/1,73m2, cao nhất
19,3ml/phút/1,73m2 ở 1 bn đái tháo đường và
thấp nhất 0,14ml/ph/1,73m2 ở một bn nam, 25
tuổi. Trong đó, 91/102 bn (89,21%) trong nhóm

“còn RRF” (RRF ≥1ml/ph/1,73m2) và 11/102 bn
(10,79%)

nhóm
“mất
RRF” (RRF
2
<1ml/ph/1,73m ). Độ lọc cầu thận ước đoán (theo
công thức MDRD) có trung vị 5,88 ml/ph/1,73m2,
cao nhất là 14,56ml/ph/1,73m2, thấp nhất là
2,16ml/ph/1,73m2. Điểm đáng quan tâm là 54/102
bn (52,49%) có thể tích nước tiểu 24 giờ ≥1000ml
(bảng 1).

Bảng 1: Kết quả chức năng thận của nhóm nghiên cứu

Độ thanh lọc creatinine 24 giờ
2
(mL/ph/1,73m )
2
Độ thanh lọc urê 24 giờ (mL/ph/1,73m )
2
Chức năng thận tồn lưu (mL/ph/1,73m )
2
eGFR (MDRD) (mL/ph/1,73m )
Creatinine huyết tương (mg/dL)
Số TH creatinine HT >10mg/dL (n,%)
BUN (mg/dL)
Số TH BUN >100mg/dL (n,%)
Thể tích nước tiểu 24 giờ (mL)

Số TH thể tích nước tiểu 24 giờ
≥1000mL (n,%)

Chung
N=102

Nhóm "còn RRF"
N=91

Nhóm "mất RRF"
N=11

p

3,98 (1,85 - 6,34)

3,81 (2,29 - 5,68)

0,57 (0,33 - 0,95)

<0,01*

3,06 (1,65 - 5,14)
3,14 (1,81 - 5.54)
5,88 (4,15 - 8,12)
9,12 (5,90 - 12,45)
42 (41,18)
98 (74, 123)
49 (48,04)
1000 (780 - 1300)


2,75 (1,66 - 4,8)
4,40 (2,35 - 7,12)
6,30 (4,29 - 8,31)
8,70 (5,70 - 11,53)
35 (38,46)
68 (58, 90)
40 (43,96)
1040 (800 - 1320)

0,46 (0,20 - 0,52)
0,64 (0,41 - 0,86)
4,10 (2,68 - 7,00)
15,15 (7,55 - 21,21)
7 (63,64)
84 (53, 94)
10(90,9)
350 (150 - 460)

<0,01*
<0,001*
0,008*
0,007*
0,11
<0,01*
0,03*
<0,01*

54 (52,49)


53 (58,24)

1 (9,09)

<0,01*

Ghi chú: TH: Trường hợp
Chức năng thận tồn lưu tương quan thuận
với thể tích nước tiểu 24 giờ với hệ số tương
quan.
r = 0,59 (R2 = 0,35, p<0,001).
Phương trình hồi qui tuyến tính (1) của RRF
dựa vào thể tích nước tiểu 24 giờ:
RRF (ml/ph/1,73m2) = 0,128 + 0,004 x V nước
tiểu 24 giờ (mL) (1)
Dựa vào phương trình (1), chúng tôi tìm
được thể tích nước tiểu tương ứng với điểm cắt
của RRF 1ml/ph/1,73m2, là 200mL. Nếu dùng thể
tích nước tiểu 24 giờ ≥ 200mL để thay thế cho đo
trực tiếp RRF (tốn kém chi phí xét nghiệm, lấy

Chuyên Đề Thận Niệu

máu), chúng tôi ghi nhận thể tích nước tiểu 24
giờ ≥ 200mL có độ nhạy 98,9%, độ đặc hiệu 25%,
giá trị tiên đoán dương 91,84 %, và giá trị tiên
đoán âm 25% trong chẩn đoán RRF
≥1ml/ph/1,73m2 (bảng 2).
Bảng 2: Liên quan giữa thể tích nước tiểu 24h và
RRF


Thể tích NT ≥
200ml
Thể tích NT <
200ml

Còn RRF
(N=91)
90

Mất RRF
(N=11)
8

Tổng

P

98

<0,001

1

3

4

91


12

102

161


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

Nghiên cứu Y học

Các biến chứng mạn tính của suy thận mạn
giai đoạn cuối
Về tim mạch, chúng tôi ghi nhận 77,5% bn
tăng huyết áp ≥140/90mmHg, 42,15% bn có triệu
chứng suy tim trên lâm sàng, 96,7% bn có phì đại
thất trái dựa vào chỉ số khối thất trái trên siêu âm
tim. Các rối loạn tiêu hóa như nôn, buồn nôn,
đau bụng, tiêu chảy, tiêu máu gặp ở 43 bn
(42,16%) có thể được xem là biến chứng của
STMGĐC, vì các biến chứng này cải thiện ngay
sau chạy TNT. Tuy nhiên, vẫn có 2% bn các rối
loạn tiêu hóa không cải thiện ngay sau chạy TNT
gợi ý có thể do bệnh lý tại đường tiêu hóa (như
ngộ độc thực phẩm, nhiễm trùng đường ruột,
viêm loét dạ dày, viêm tụy cấp...). Hầu hết bn
(97%) đều có thiếu máu mạn khi nhập viện, với
83,33% thiếu máu đẳng sắc đẳng bào, 16,67%
thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc. Chỉ 1/3 bn
thiếu máu được dùng erythropoietin trước nhập

viện và 37 bn (36,37%) cần phải truyền hồng cầu
lắng trong thời gian nằm viện. Các bất thường
khác ghi nhận được là 83,33% bn giảm
bicarbonate HT (<22mMol/L), 80% bn tăng
phosphate (>45mg/L), 72% bn giảm albumin
HT(<38g/L), 60,42% bn có rối loạn lipid HT,
43,36% bn hạ natri HT (< 135mMol/L).

Tương quan giữa chức năng thận tồn lưu
và các biến chứng của suy thận mạn giai
đoạn cuối
Dựa vào phép kiểm Spearman, chúng tôi ghi
nhận có tương quan thuận giữa RRF với
hemoglobin, pH máu, Natri, Chlor và nước tiểu
như Natri, Kali, Chlor, acid uric nước tiểu 24 giờ,
tương quan nghịch với Phosphate huyết thanh,
phân suất thải Natri, Kali, Chlor.
Bảng 3: Tương quan giữa RRF với các yếu tố
Tương quan RRF với
Hemoglobin
pH máu
Natri HT
Chlor HT
Natri nước tiểu 24 giờ
Kali nước tiểu 24 giờ
Chlor nước tiểu 24 giờ

162

r

0,236
0,2
0,19
0,17
0,44
0,22
0,33

2

R
0,056
0,04
0,03
0,03
0,19
0,05
0,11

p
0,008
0,02
0,04
0,049
<0,001
<0,001
0,001

Tương quan RRF với
Acid uric nước tiểu 24 giờ

Phosphate HT
FE Natri
FE Kali
FE Chlor

r
0,73
-0,17
-0,34
-0,18
-0,18

2

R
0,54
0,03
0,11
0,03
0,03

p
<0,001
0,04
<0,001
0,03
0,03

Chúng tôi không ghi nhận khác biệt có ý
nghĩa giữa RRF với các biến số của biến chứng

tim mạch, nhưng thấy nhóm “còn RRF” có xu
hướng triệu chứng suy tim ít nặng hơn trên lâm
sàng như huyết áp trung bình thấp hơn, ít bn có
phù toàn thân và ít bn có Gallop T3, và chỉ số
tim/lồng ngực >0,55. Tuy nhiên, rối loạn chức
năng tâm trương ở nhóm “còn RRF” cao hơn.
Chỉ số khối thất trái và phân suất tống máu trên
siêu âm ở 2 nhóm tương đương nhau. Nhóm
"còn RRF" ít có triệu chứng rối loạn tiêu hóa hơn
nhóm “mất RRF” (p=0,006). Nhóm bn “còn RRF”
có nồng độ hemoglobin cao hơn nhóm "mất
RRF" có ý nghĩa mặc dù tỷ lệ dùng
erythropoietin trước nhập viện và tỷ lệ phải
truyền máu khi nhập viện thấp hơn nhưng
không có ý nghĩa thống kê (bảng 2).
Bảng 4: So sánh các biến chứng của STMGĐC giữa
2 nhóm còn và mất RRF
Nhóm còn Nhóm mất
p
RRF
RRF
9 (81,8)
0,005*
Biến chứng rối loạn tiêu 35 (38,46)
hóa (n,%)
Huyết áp trung bình
103 (93 – 110 (97 –
0,35
(mmHg)
110)

117)
Số TH THA (n,%)
70 (76,9)
9 (81,8)
1
Phân xuất tống máu, EF 61 (53 – 66) 60 (56 – 62) 0,62
(%)
Số TH suy tim NYHA III- 37 (40,66) 6 (54,55)
0,58
IV (n,%)
Số TH có bóng tim to 40 (49,38)
7 (70)
0,39
trên X quang (n,%)
Hemoglobin (g/L)
81 (71 – 92) 60 (47 -77) 0,006*
Số TH thiếu máu (n,%) 88 (96,7)
11 (100)
1
Số TH truyền máu lúc
30 (33)
7 (63,6)
0,1
nằm viện (n,%)

Ghi chú: (*) có ý nghĩa thống kê.
Nhóm "còn RRF" có protide HT thấp hơn và
ít số TH giảm albumine < 3,8g/dL, ít số TH giảm
HCO3, tăng phosphor hơn nhóm “mất RRF”. Do
còn nước tiểu, nên nhóm “còn RRF” có lượng

acid uric, Natri, Kali, Chlor, Canxi được thải qua

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
nước tiểu 24 giờ cao hơn có ý nghĩa ở nhóm “còn
RRF”. Như vậy, người còn RRF không chỉ bài
tiết nước, mà còn bảo tồn phần nào khả năng bài
tiết các chất tan trong nước.
Bảng 5: So sánh các biến chứng mạn tính của
STMGĐC giữa nhóm “còn RRF” và “mất RRF”
Chung Còn RRF
N=102
N=91
5,9
6
Protide HT (g/dL) (5,50-6,30) (5,57 –
6,40)
100
105
Acid uric nước
(31,50(62,50

tiểu 24 giờ (mg)
179,80)
200)
75,18
80
Natri nước tiểu

(51,50-104)
(56,91

24 giờ (mMol)
112)
14,9
17
Kali nước tiểu 24
(10,30-20)
(11,70

giờ (mMol)
20,90)
0,59
0,6
Canxi nước tiểu
(0,30-1,14)
(0,38

24 giờ (mMol)
0,95)
61
62,8
Chlor nước tiểu
(34-82,30)
24 giờ (mMol)
(40 – 83,2)

Mất RRF
p

N=11
5,3
(5,15 – 0,006
5,85)
13
(7,80 – < 0,01
30)
34
< 0,01
(11 – 48)
5,2
(2,84 –
9,6)
0,2
(0,08 –
0,6)
26,4
(6,8 –
40,5)

< 0,01

0,004

0,006

BÀN LUẬN
Chức năng thận tồn lưu (Residual Renal
Function – RRF) ở thời điểm bắt đầu điều trị thay
thế thận khác nhau trong các nghiên cứu. Chúng

tôi có 89,21% (91/102) bn còn RRF
≥1ml/ph/1,73m2 , trong đó trung vị RRF 3,14
ml/ph/1,73 m2. Trong nghiên cứu của Lang SM
(5), RRF của bn khởi đầu thận nhân tạo là 7,5±1,2
ml/ph/1,73m2 và của bn khởi đầu CAPD là 7,4
±1,7 ml/ph/1,73m2. Nghiên cứu của Chung SH(1)
RRF ở thời điểm bắt đầu CAPD là 4,3
ml/ph/1,73m2. RRF của các tác giả này đều cao
hơn chúng tôi, chứng tỏ các bn này được điều trị
thay thế thận sớm hơn chúng tôi. Moist(8) nghiên
cứu về sự sụt giảm của RRF theo thời gian trên
2211 bn STMGĐC, ghi nhận lúc khởi đầu nghiên
cứu, có 83% bn có thể tích nước tiểu ≥200mL.
Nguyễn Thị Thanh Thùy (12) nghiên cứu ở bn
CAPD với thời gian làm CAPD trung bình 5,2
tháng, ghi nhận có 71,66% (43/60 bn) "còn RRF",
với trung vị RRF 2,18 ml/ph/1,73m2. Khác biệt
này do Nguyễn Thị Thanh Thùy đo RRF sau khi

Chuyên Đề Thận Niệu

Nghiên cứu Y học

đã điều trị thay thế thận, và do có sự sụt giảm
dần RRF sau CAPD. Theo y văn(13), do màng lọc
cơ bản dùng trong TNT và màng bụng (trong
CAPD) chủ yếu lọc được các chất có kích thước
nhỏ, nên không phải mọi triệu chứng của hội
chứng urê ở bn STMGĐC đều cải thiện Một số
biến chứng vẫn tồn tại hoặc xuất hiện thêm ngay

cả khi bn được lọc máu đầy đủ. Chính RRF sẽ hỗ
trợ thải các độc chất có kích thước trung bình (là
các chất có gắn kết protein), tiếp tục duy trì phần
nào chức năng nội tiết và chuyển hóa ở các bn
STMGĐC. Điều này giải thích lý do những biến
chứng của bn “còn RRF” sẽ ít hơn bn “mất RRF”.
Đây là lợi ích tối ưu của RRF khiến chúng ta cần
biết để bảo tồn, ngay cả khi bn đã tham gia điều
trị thay thế thận.
Độ lọc cầu thận ước đoán theo công thức
MDRD của bn chúng tôi là 5,88 ml/ph/1,73m2,
thấp hơn các nghiên cứu khác trên thế giới. Điều
này chứng tỏ bn của chúng tôi được tiến hành
điều trị thay thế thận trễ hơn các tác giả nước
ngoài. Tuy trễ hơn, nhưng 50% bn có thể tích
nước tiểu trên 1000mL. Phải chăng chính việc
bảo tồn thể tích nước tiểu này là lý do chậm trễ
điều trị thay thế thận của bn chúng tôi. Jadger(3)
nhận thấy nhóm được theo dõi và chuẩn bị điều
trị thay thế thận càng sớm (>12 tháng trước chạy
TNT), có tỷ lệ tử vong sau chạy TNT thấp hơn
các nhóm có thời gian chuẩn bị trung bình (4 <12 tháng) và trễ (≤ 3tháng) trước chạy TNT. Tuy
nhiên, theo Hệ thống Dữ liệu về Bệnh Thận tại
Vương Quốc Anh năm 2007 (United Kingdom
Registry Data), bn bắt đầu điều trị thay thế thận
có eGFR 7,89 ml/ph/1,73m2 ở nhóm có bác sĩ thận
theo dõi và không khác với eGFR của nhóm
không được bác sĩ thận theo dõi
(7,49ml/ph/1,73m2). Kết quả nghiên cứu của
Cooper (Úc), ghi nhận không có sự khác biệt về

tỷ lệ tử vong giữa 2 nhóm 10-15ml/ph1,73m2
(theo đúng KDOQI 2002 guideline), hoặc trì
hoãn đến 5-10ml/ph/1,73m2(2). Cho đến nay, y
văn vẫn chưa thống nhất về thời điểm điều trị
thay thế thận. Thời điểm này tùy thuộc quyết
đinh thày thuốc trên cơ sở cân nhắc giữa việc trì

163


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014

hoãn điều trị thay thế thận, nguy cơ tử vong của
bn và chất lượng cuộc sống(2).
Chúng tôi nhận thấy RRF có tương quan
thuận với thể tích nước tiểu như các tác giả khác
(bảng 4). Từ phương trình hồi quy tuyến tính,
chúng tôi dự đoán bn "còn RRF" nếu có thể tích
nước tiểu 24 giờ ≥ 200mL. Chọn lựa này của
chúng tôi tương tự như Moist (4), khi ông chọn
thể tích nước tiểu ≥ 200mL/ngày làm giới hạn để
khởi đầu theo dõi sự sụt giảm RRF ở bn
STMGĐC.
Bảng 6: Tương quan giữa thể tich nước tiểu 24 giờ
và RRF trong các nghiên cứu
(7)

Milutinovic

(8)
Moist
(6)
Van Onden
Chúng tôi

N
38
1843
11
102

Hệ số tương quan
0,71
0,57
0,49
0,59

P
<0,001
0,001
<0,05
<0,001

Trong nghiên cứu của chúng tôi, thiếu máu
xảy ra ở hầu hết bn STMGĐC, ngay cả nhóm
đang được dùng erythropoietin tại ngoại trú.
Điều này chứng tỏ việc dùng erythropoietin ở bn
STMGĐC vẫn chỉ dừng lại ở mức có dùng thuốc
và chưa quan tâm đánh giá hiệu quả của thuốc

dùng. Nhóm bn “còn RRF” ít bị thiếu máu hơn,
có tỷ lệ truyền máu ít hơn nhóm mất RRF.
Nghiên cứu CONTRAST đánh giá liên quan
giữa thiếu máu và RRF trên những bn chạy TNT
đầy đủ, không thấy sự khác biệt về nồng độ
hemoglobin máu giữa nhóm “còn RRF” và
nhóm “mất RRF” (9). Tuy nhiên, nghiên cứu ghi
nhận có sự khác biệt về chỉ số ESA giữa 2 nhóm
(liều Erythropoiesis - theo cân nặng mỗi tuần
chia hematocrit). Tuy còn thể tích nước tiểu,
nhưng tỷ lệ biến chứng tim mạch không khác
giữa 2 nhóm còn và mất RRF. Trong các nghiên
cứu của Menon, “mất RRF” là yếu tố nguy cơ
làm phì đại thất trái nặng hơn, thiếu máu nặng
hơn, giảm albumin nhiều hơn và khó kiểm soát
huyết áp(6). Một nghiên cứu khác trên nhóm bn
làm TPPM, dịch ngoại bào thấp hơn ở những bn
có RRF ≥2ml/ph/1,73m2 so với nhóm có RRF
<2ml/ph/1,73m2 (4).

164

Hạn chế của đề tài chúng tôi là mẫu nghiên
cứu còn nhỏ, mất cân đối giữa 2 nhóm “còn
RRF” và “mất RRF”, xét nghiệm đo RRF chỉ
được tiến hành 1 lần, và chúng tôi chưa khảo sát
đầy đủ các biến chứng của STMGĐC.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 102 bn STMGĐC, chúng tôi

nhận thấy hầu hết (89,21%) bn còn RRF
(>=1ml/ph/1,73m2), với 50% bn có thể tích nước
tiểu trên 1000ml. Điểm cắt ≥ 200mL thể tích nước
tiểu được chọn để ứng dụng trên lâm sàng
tương ứng với "còn RRF". Qua RRF, chúng tôi có
thêm thông tin về sự bảo tồn các chức năng khác
ở những bn "còn RRF" (như thải các chất hòa tan,
điện giải, điều hòa thăng bằng nội môi, tạo
máu,..). Những kết quả trên là tiền đề cho việc
bảo tồn, chọn lựa biện pháp và phương cách tiến
hành điều trị thay thế thận thích hợp nhất cho bn
STMGĐC tại Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.


9.

Chung SH, et al(2003) , “Association between residual renal
function, inflammation and patient survival in new peritoneal
dialysis patients”, Nephrol Dial Transplant, 18(3), p. 590–597.
Cooper BA, et al (2010), “A randomized, controlled trial of
early versus late initiation of dialysis”, N Engl J Med, 363(7),
p.609-619.
Jager DJD, et al (2011), “Association beweent time of referral
and survival in the first year of dialysis in diabetics and the
elderly”, Nephrol Dial Transplant, 26(2), p.652-658.
Konings CJ, Kooman JP, et al (2003), “Fluid status in CAPD
patients in related to peritoneal transport and residual renal
function: evidence from a longitudinal study”, Nephrol Dial
Transplant, 18 (4), p.396 – 403.
Lang SM, et al (2001), “Preservation of residual renal function
in dialysis patients: effects of dialysis-technique–related
factors”, Peritoneal Dialysis International, 21(1), p. 52–57.
Menon MK, Nalmark DM, Bargman JM, et al (2001), “Longterm blood pressure control in a cohort of peritoneal dialysis
patients and its association with residual renal function”,
Nephrol Dial Transplant, 16 (11),p. 2207–2213.
Milutinovic J, Cutler R, Hoover P, Meijsen B, Scribner B (1975),
“Measurement of residual glomerular filtration rate in the
patient receiving repetitive hemodialysis”, Kidney Int, 8, p.
185–190.
Moist LM (2000). “Predictors of Loss of Residual Renal
Function among New Dialysis Patients”, J Am Soc Nephrol,
11(3), p.556 –564.
Penne EL, Weerd NC, et al (2011), “Role of Residual renal
function in phosphate control and anemia management in

chronic hemodialysis patients”, Clinical Journal of the
American Society of Nephrology, 6(2), p. 281-289.

Chuyên Đề Thận Niệu


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
10.

11.

12.

Rocco M, Soucie JM, Pastan S, McClellan WM (2000),
“Peritoneal dialysis adequacy and risk of death”, Kidney Int,
58(1),p. 446–457.
Termorshuizen F, Korevaar JC, Dekker FW, et al (2003),
“Relative contribution of residual renal function compared
with peritoneal clearance for patient survival and quality of
life: an analysis of the NetherlandsCooperative Study on the
Adequacy of Dialysis (NECOSAD)-2”, Am J Kidney Dis,
41(16),p. 1293–1302.
Nguyễn Thị Thanh Thùy, Tạ Phương Dung, Trần Thị Bích
Hương (2012)”Vai trò của chức năng thận tồn lưu trên bn
thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trú.”, Tạp chí Y Học
TPHCM, 16 (phụ bản 3), 2012, tr 175-182.

Chuyên Đề Thận Niệu

13.

14.

Nghiên cứu Y học

Timothy WM, Thomas HH (2007), “Uremia”, N Engl J Med,
357,p.1316-1325
Van Olden RW, van Acker BAC, Koomen GCM, Krediet RT,
Ariz L(1995), “Time course of inulin and creatinine clearance
in the interval between two hemodialysis treatments”,
Nephrol Dial. Transplant,10(12),p. 2274 –2280.

Ngày nhận bài báo:

13/5/2014

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

22/5/2014

Ngày bài báo được đăng:

10/7/2014

165



×