Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
ĐẶC ĐIỂM CÁC TRƯỜNG HỢP NHAU CÀI RĂNG LƯỢC
TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Phạm Ái Thụy*, Ngô Thị Kim Phụng**
TÓM TẮT
Mở đầu: Nhau cài răng lược là nguyên nhân đáng kể gây tử vong cũng như bệnh suất của mẹ và là nguyên
nhân tường gặp nhất của cắt tử cung cấp cứu sau sanh. Tỷ lệ nhau cài răng lược tăng song song với việc tăng tỷ
lệ mổ lấy thai. Tiền căn mổ lấy thai và nhau tiền đạo là hai nguyên nhân quan trọng nhất của nhau cài răng
lược.
Mục tiêu nghiên cứu: Nêu đặc điểm về lâm sàng, cận lâm sàng, xử trí và kết cục thai kì trên mẹ và con của
các trường hợp NCRL tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 10/2012 đến tháng 04/2013.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hàng loạt ca hồi cứu.
Kết quả: có 45 trường hợp thỏa tiêu chí chọn mẫu (được xác định bằng giải phẩu bệnh). 97,8% trường hợp
có nhau tiền đạo; 80% trường hợp có tiền căn mổ lấy thai, 46,7% trường hợp có tiền căn hút nạo buồng tử cung,
tuổi trung bình của sản phụ là 33,2, số lần sanh trung bình là 2,4 lần, SA chẩn đoán được 91% trường hợp
NCRL, MRI chẩn đoán đúng 5/7 trường hợp NCRL (71,4%). Lượng máu mất trung bình là 1842 ml. Lượng
máu truyền trung bình là: 6,8 đơn vị hồng cầu lắng. Tổn thương bàng quang 4,4% trường hợp. Tổn thương
niệu quản 2,2% trường hợp. Tử vong mẹ 0% và cắt tử cung chu sản là 100%. Tuổi thai khi mổ trung bình 34,5
tuần. Tử vong sơ sinh là 8,9%.
Kết luận: Sản phụ với NCRL tăng nguy cơ băng huyết sau sanh, truyền máu khối lượng lớn, cắt tử cung,
tổn thương hệ niệu. Về phía con, nguy cơ chủ yếu là non tháng và tử vong sơ sinh. Trong các trường hợp nhau
cài răng lược thì nhau tiền đạo và tiền căn mổ lấy thai chiếm tỉ lệ cao.
Từ khóa: nhau cài răng lược, nhau tiền đạo, mổ lấy thai
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF PLACENTA ACCRETA AT TU DU HOSPITAL
Pham Ai Thuy, Ngo Thi Kim Phung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 179 ‐182
Background: Placenta accreta is one of the most common reason of maternal mortality and morbidity,
such as emergency postpartum hysterectomy. The prevalence of placenta accrete is increasing parallel with
the increasing prevalence of cesarean section. Both of placenta previa and cesarean section are important
reasons of placenta accreeta.
Objective: To evaluate characteristics of patients complicated with placenta accreta.
Study design: Retrospective cases report from 10/2012 to 04/2013.
Results: There were 45 cases confirmed placenta accreta. 97.8% cases had coexisting placenta previa, 80%
cases had at least one previous caesarean section and 46.7% had at least one previous curettage, maternal average
age: 33.2. The average estimated blood loss was 1842 mls. The mean units of blood transfused was 6.8 units.
There were 4,4% cases with bladder injury and 2.2% cases with ureteral injury. There were no maternal deaths.
There were 100% cases with hysterectomy. The mean gestational age at delivery was 34,5 weeks. There were
8.9% cases with neonatal death.
* Đại học Quốc Gia Tp.Hồ Chí Minh
** Bộ môn Sản – Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Ngô Thị Kim Phụng
Sản Phụ Khoa
ĐT: 0908917989
E‐mail:
179
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Conclusion: Placenta accreta is associated with increased risks of postpartum hemorrhage, massive blood
transfusion, hysterectomy, injury of urinary system, preterm birth and neonatal death. Placenta previa and
previous caesarean section are high prevalence in population of placenta accreta.
Key words: placenta accrete, placenta previa, cesarean section.
ĐẶT VẤN ĐỀ
ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhau cài răng lược (NCRL) là sự bám bất
thường, xâm lấn một phần hay toàn bộ bánh
nhau vào lớp cơ tử cung, khiến nhau không thể
bong hoàn toàn gây chảy máu. Có 3 dạng NCRL
là NCRL dạng accreta, increta và percreta.
NCRL dù không chiếm tỉ lệ cao nhưng có xu
hướng ngày càng nhiều. Tần suất NCRL tăng
song song với việc tăng tỉ lệ mổ lấy thai. Ở Mỹ,
trong những năm 1970 tần suất NCRL là 1/4027
trường hợp sanh và giai đoạn từ năm 1982 đến
năm 2002 tần suất này đã tăng lên 1/533 trường
hợp sanh. Song song với sự gia tăng này tỉ lệ mổ
lấy thai ở Mỹ cũng tăng từ 5% (năm 1970) đến
32,8% (năm 2010)(9).
Báo cáo loạt ca hồi cứu tất cả các trường
hợp NCRL được xác định bằng giải phẫu bệnh
cắt tử cung từ 10/2012 đến 04/2013 tại bệnh
viện Từ Dũ.
NCRL là nguyên nhân đáng kể của tử vong
mẹ và là nguyên nhân thường gặp nhất của cắt
tử cung cấp cứu sau sanh. NCRL làm thay đổi tỉ
lệ của nguyên nhân gây băng huyết sau sanh,
đặc biệt là băng huyết sau sanh trầm trọng. Tử
vong ở thai nhi cao do non tháng và mất máu
khi sanh. Tiền căn mổ lấy thai và nhau tiền đạo
là hai nguyên nhân quan trọng nhất của NCRL.
Bệnh viện Từ Dũ là một trong những trung
tâm sản khoa lớn của cả nước, có tỉ lệ NCRL
tăng dần qua các năm. Tỉ lệ NCRL năm 1977 đến
năm 2011 tăng từ 1/7000 lên đến 1/1100 trường
hợp sanh. Vì NCRL là một cấp cứu sản khoa
nặng nề, việc chẩn đoán sớm trước sanh và điều
trị thích hợp giúp cải thiện kết cục thai kì, đó là lí
do chúng tôi thực hiện tiếp nghiên cứu “Đặc
điểm các trường hợp nhau cài răng lược tại bệnh
viện Từ Dũ” từ tháng 10/2012 đến 04/2013.
Mục tiêu nghiên cứu
Nêu đặc điểm về lâm sàng, cận lâm sàng, xử
trí và kết cục thai kì trên mẹ và con của các
trường hợp NCRL tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng
10/2012 đến tháng 04/2013.
180
Phương pháp tiến hành
Đối tượng nhận vào là các trường hợp
NCRL 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kì nhập
bệnh viện Từ Dũ được phẫu thuật trong thời
gian nghiên cứu có cắt tử cung và được xác định
chẩn đoán NCRL bằng giải phẫu bệnh.
Thu thập số liệu bằng bảng thu thập soạn
sẵn để thu thập các thông tin về: tên, tuổi, nơi ở,
nghề nghiệp, học vấn, Para, tiền căn nạo phá
thai, sẹo mổ trên tử cung, nhau tiền đạo, số
lượng máu mất, số lượng máu truyền, tử vong,
biến chứng: đông máu nội mạch lan tỏa, suy
thận cấp, tổn thương bàng quang, niệu quản,
tuổi thai lúc sinh, cân nặng lúc sinh, tử vong sơ
sinh. Số liệu sẽ được xử lí thông qua phần mềm
SPSS16.0, sử dụng thống kê mô tả để tính trung
bình và tỉ lệ các biến số.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 10/2012 đến tháng
04/2013 tại bệnh viện Từ Dũ chúng tôi đã thu
được 45 trường hợp thỏa tiêu chí chọn mẫu của
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu được trình bày
chi tiết trong hai bảng 1 và 2.
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Số % trường hợp
Hút nạo
Mổ lấy thai
Nhau tiền đạo
Chẩn đoán đúng bằng SA
Chẩn đoán đúng bằng MRI
Có
46,7%
80%
97,8%
91%
71,4%
Không
53,3%
20%
2,2%
9%
28,6%
Bảng 2: Kết cục thai kì trên mẹ và trên con
Đặc điểm
Lượng máu mất (ml)
Lượng máu truyền trung bình (đv)
Số trung bình
1842
6,8
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Đặc điểm
Tuổi thai khi mổ (tuần)
Tổn thương bàng quang
Tổn thương niệu quản
Tử vong mẹ
Cắt tử cung
Tử vong sơ sinh
Số trung bình
34,5
Tỉ lệ %
4,4%
2,2%
0%
100%
8,9%
BÀN LUẬN
Về đặc điểm lâm sàng chúng tôi ghi nhận
46,7% trường hợp có tiền căn hút nạo buồng tử
cung phù hợp với nghiên cứu của Miller và cộng
sự năm 1997 cũng báo cáo tỷ lệ 48% trường hợp
NCRL có tiền căn hút nạo buồng tử cung. Yếu tố
này được xác định là yếu tố nguy cơ trong vài
nghiên cứu nhưng lại không được xác định
trong những nghiên cứu khác. Trong nghiên
cứu của Miller thì yếu tố này không phải là nguy
cơ điển hình cho NCRL(4). Nhưng với tỉ lệ hút
nạo buồng tử cung cao như vậy (46,7%), chúng
tôi cho rằng cũng có thể có mối liên quan giữa
yếu tố này và NCRL. Có 80 % trường hợp có vết
mổ cũ lấy thai. Trong nghiên cứu của Eshkoli và
cộng sự năm 2013(2) và của Usta và cộng sự năm
2005(8) thì tiền căn mổ lấy thai lần lượt là 74,8%
và 77,3%. Trong các trường hợp có vết mổ cũ lấy
thai, sự khiếm khuyết của lớp màng rụng đáy
nơi sẹo mổ được cho là nguyên nhân của NCRL.
Nghiên cứu của Miller và cộng sự năm 1997 đã
chứng minh được vết mổ cũ lấy thai là nguy cơ
độc lập của NCRL(4). Nghiên cứu của chúng tôi
thì nhau tiền đạo chiếm tỉ lệ rất cao 97,8%. Nhau
tiền đạo là nhau bám ở đoạn dưới tử cung, vị trí
này lớp cơ tử cung mỏng, mạch máu nuôi nghèo
nàn nên các gai nhau dễ lan rộng và cắm sâu vào
lớp cơ tử cung. Theo Wu và cộng sự năm 2004,
nhau tiền đạo là yếu tố nguy cơ điển hình cho
NCRL (tỉ số chênh là 51,42; p< 0,0001)(10).
Về kết cục thai kì trên mẹ trong nghiên cứu
chúng tôi có 100% cắt tử cung. Đa số các trường
hợp NCRL có chỉ định cắt tử cung, gây mất chức
năng sinh sản, đặc biệt đối với các trường hợp
còn có nhu cầu có thêm con và có thể ảnh hưởng
đến tâm lí của sản phụ và gia đình trong các
trường hợp không giữ được tử cung. Lượng
Sản Phụ Khoa
Nghiên cứu Y học
máu mất trung bình nhiều khoảng 1842ml, số
lượng HCL truyền trung bình lớn 6,8 đơn vị.
Nghiên cứu của Hoffman và cộng sự năm 2010,
trong 29 trường hợp cắt tử cung vì NCRL, lượng
máu mất trung bình 4061 ml(3). Theo Sofiah và
cộng sự năm 2009, trong 40 trường hợp NCRL
(được xác định bằng giải phẫu bệnh cắt tử
cung), lượng máu mất trung bình 4588 ml, 85%
trường hợp lượng máu mất vượt quá 2000 ml,
vượt quá 5000 ml trong 37,5% trường hợp, vượt
quá 10000 ml trong 7,5% trường hợp(7). Vậy qua
các kết trên, chúng tôi thấy rằng với các sản phụ
NCRL, cuộc mổ khó khăn, lượng máu mất
nhiều, hầu hết các trường hợp đều cần truyền
máu và nhiều trường hợp cần truyền máu với
khối lượng lớn, có nguy cơ dẫn đến rối loạn
đông máu thậm chí tử vong. Điều này cho thấy
tính chất nghiêm trọng của loại bệnh này. Trong
nghiên cứu có 4,4% trường hợp tổn thương bàng
quang, làm kéo dài thời gian mổ, thời gian nằm
viện, tăng nguy cơ nhiễm trùng tiểu vì phải lưu
sonde bàng quang‐niệu đạo dài ngày. Có 2,2%
trường hợp tổn thương niệu quản, biến chứng
muộn dò niệu quản trái âm đạo sau 2 tuần hậu
phẫu. Biến chứng này bệnh nhân phải mổ lại,
thời gian nằm viện và chăm sóc dài ngày, nguy
cơ nhiễm trùng tiểu cao. Trong nghiên cứu của
Hoffman và cộng sự năm 2010: trong 29 trường
hợp cắt tử cung vì NCRL, có 2 trường hợp tổn
thương niệu quản phát hiện lúc mổ, 3 trường
hợp thủng bàng quang, 3 trường hợp cắt bàng
quang bán phần(3). NCRL có thể làm biến đổi
cấu trúc giải phẫu giữa tử cung và các cấu trúc
lân cận, làm cuộc phẫu thuật khó khăn có thể
tổn thương đến các cơ quan lân cận đặc biệt là
hệ niệu.
Về kết cục thai kì trên con chúng tôi ghi
nhận tuổi thai trung bình khi mổ là 34,5 tuần, Có
8,9% trường hợp tử vong sơ sinh, tất cả đều có
tuổi thai dưới 28 tuần. Qua đó chúng tôi nhận
thấy rằng vấn đề kết cục thai kì trên con quan
trọng là non tháng và tử vong sơ sinh. Trong
nghiên cứu của Sofiah và cộng sự năm 2009:
trong số 40 trường hợp NCRL, tuổi thai trung
bình lúc sanh là 35 tuần, 47,5% trường hợp có
181
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
tuổi thai < 37 tuần, 35% trường hợp tuổi thai < 34
tuần, 15% trường hợp có tuổi thai < 30 tuần, có 3
trường hợp tử vong sơ sinh(7). Trong nghiên cứu
của OʹBrien và cộng sự năm 1996 có 10 trường
hợp tử vong sơ sinh (9%), nguyên nhân chủ yếu
do thai quá non tháng(5). Trong các thai kì NCRL
có thể xảy ra các tình huống mổ cấp cứu vì các
biến chứng nguy hiểm đến tính mạng của mẹ và
con như chảy máu âm đạo nhiều và vỡ tử cung.
Do đó chủ động thời điểm chấm dứt thai kì là
điều hết sức quan trọng. Cân nhắc lợi ích của mẹ
và con sao cho giảm thiểu biến chứng trên mẹ và
cho ra đời trẻ có khả năng nuôi được. Tất cả các
trường hợp còn lại trong nghiên cứu của chúng
tôi đều chỉ định chấm dứt thai kì ở tuổi thai ≥ 34
tuần. Cân nhắc giữa lợi ích của mẹ và con,
ACOG năm 2012 khuyến cáo chấm dứt thai kì
lúc thai 34 tuần(1), RCOG năm 2011 khuyến cáo
chấm dứt thai kì trước 36‐37 tuần tuổi thai(6).
KẾT LUẬN
Qua 45 trường hợp NCRL từ tháng 10/1012
đến tháng 04/2013 tại bệnh viện Từ Dũ, chúng
tôi ghi nhận: nhau tiền đạo chiếm 97,8%, sẹo mổ
cũ lấy thai 80 %, tiền căn hút nạo buồng tử cung
46,7%, chẩn đoán đúng bằng SA 91 %, chẩn
đoán đúng bằng MRI 71,4%. Lượng máu mất
trung bình 1842 ml, HCL truyền trung bình 6,8
đơn vị, cắt tử cung 100%, tổn thương bàng
quang 4,4%, tổn thương niệu quản 2,2%. Tuổi
thai khi mổ trung bình 34,5 tuần, tử vong sơ sinh
8,9%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
American College of Obstetricians and Gynecologists (2012)
ʺACOG committee opinion. Placenta accreta. Number 529,
January 2012. ʺ. Int J Gynaecol Obstet, 120 (1), 207‐11.
2. Eshkoli T, Weintraub AY, Sergienko R, Sheiner E (2013)
ʺPlacenta accreta: risk factors, perinatal outcomes, and
consequences for subsequent birthsʺ. American journal of
obstetrics and gynecology, 208 (3), 219 e1‐7.
3. Hoffman MS, Karlnoski RA, Mangar D, Whiteman. V. E,
Zweibel. B. R, Lockhart. J. L, Camporesi. E. M (2010) ʺMorbidity
associated with nonemergent hysterectomy for placenta
accretaʺ. American journal of obstetrics and gynecology, 202 (6),
628 e1‐5.
4. Miller. DA, Chollet. JA, Goodwin. TM (1997) ʺClinical risk
factors for placenta previa‐placenta accretaʺ. American journal
of obstetrics and gynecology, 177 (1), 210‐4.
5. OʹBrien JM, Barton JR, Donaldson ES (1996) ʺThe management
of placenta percreta: conservative and operative strategiesʺ.
American journal of obstetrics and gynecology, 175 (6), 1632‐8.
6. Royal College of Obstetricians and Gynaecologists (2011)
ʺPlacenta praevia, placenta praevia accreta and vasa praevia:
diagnosis and mannagementʺ. Green‐top Guideline No. 27,
7. Sofiah S, Fung YC (2009) ʺPlacenta accreta: clinical risk factors,
accuracy of antenatal diagnosis and effect on pregnancy
outcomeʺ. Med J Malaysia, 64 (4), 298‐302.
8. Usta IM, Hobeika EM, Musa AA, Gabriel GE, Nassar AH (2005)
ʺPlacenta previa‐accreta: risk factors and complicationsʺ.
American journal of obstetrics and gynecology, 193 (3 Pt 2),
1045‐9.
9. Wortman AC, Alexander JM (2013) ʺPlacenta accreta, increta,
and percretaʺ. Obstetrics and gynecology clinics of North
America, 40 (1), 137‐54.
10. Wu S, Kocherginsky M, Hibbard. JU (2005) ʺAbnormal
placentation: twenty‐year analysisʺ. American journal of
obstetrics and gynecology, 192 (5), 1458‐61.
Ngày nhận bài báo
: 30/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo
: 02/12/2013
Ngày bài báo được đăng
05/01/2014
:
182
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em