Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá chức năng thận ở bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính theo công thức cockcroft-gault và MDRD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.63 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẬN Ở BỆNH NHÂN Ứ NƯỚC, Ứ MỦ BỂ THẬN 
QUA KẾT QUẢ XẠ HÌNH THẬN VÀ MỨC LỌC CẦU THẬN ƯỚC TÍNH 
THEO CÔNG THỨC COCKCROFT‐GAULT VÀ MDRD  
Vương Tuyết Mai*, Nguyễn Thị Hường*  

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trong ứ nước, ứ mủ bể thận niệu quản, nếu tình trạng tắc nghẽn kéo dài và không được giải 
quyết thì sẽ dẫn đến tổn thương không hồi phục và mức lọc cầu thận sẽ suy giảm dần theo thời gian đến bệnh 
thận giai đoạn cuối. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm  
Mục tiêu: đánh giá chức năng thận ở những bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và 
mức lọc cầu thận ước tính theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại khoa Thận‐Tiết niệu, bệnh viện Bạch 
Mai từ tháng 9/ 2011 đến tháng 8/2012 trên 44 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ứ nước, ứ mủ bể thận. 
Kết  quả: Xạ hình thận cho thấy MLCT chung của cả 2 thận thấp với 65,9% bệnh nhân có MLCT < 60 
ml/phút/1,73m2. Trong đó 40/41 trường hợp bên thận bị ứ nước, ứ mủ có mức lọc cầu thận giảm thấp trung 
bình chỉ 11,6 ± 11,2 ml/phút/1,73m2. Công thức MDRD cho kết quả: trong tổng số 44 bệnh nhân có 26 (59,1%) 
bệnh nhân có MLCT<60 ml/phút/1,73m2 trung bình là 15,8 ± 17,3 ml/phút/1,73m2. Công thức Cockcroft‐Gault 
cho  kết  quả  có  36/44  bệnh  nhân  (81,8%)  có  MLCT  <60  ml/phút/1,73m2,  trung  bình  là  23,3  ±  21,2 
ml/phút/1,73m2. Như vậy khi so sánh MLCT xác định với 3 phương pháp cho thấy: Số bệnh nhân có MLCT< 60 
ml/phút/1,73m2  tính  theo  công  thức  Cockcroft‐Gault  cao  nhất  so  với  2  cách  xác  định  MLCT  theo  công  thức 
MDRD và xạ hình thận. Có sự tương đồng khi xác định MLCT theo công thức MDRD và theo kết quả xạ hình 
thận khi xác định tỷ lệ bệnh nhân có MLCT < 60 ml/phút/1,73m2. 
Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, MLCT ước tính giảm ở tất cả các bệnh nhân bị ứ nước ứ mủ bể 
thận. Xạ hình thận cho phép đánh giá MLCT chung và riêng rẽ từng thận giúp cho việc lựa chọn phương pháp 
điều trị tốt hơn. Công thức MDRD cho MLCT ước tính tương đối sát với MLCT khi xác định bằng xạ hình 
thận. 
Từ khoá: mức lọc cầu thận ước tính (MLCT), ứ nước bể thận niệu quản 



ABSTRACT 
ESTIMATE THE RENAL FUNCTION IN THE HYDRONEPHROSIS PATIENTS  
BY SCINTIGRAPHY OR GLOMERULAR FILTRATION RATE CALCULATED  
BY COCKCROFT‐GAULT AND MDRD 
Vuong Tuyet Mai, Nguyen Thi Huong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 168 ‐ 173 
Background: In urinary and renal hydronephrosis, if the prolonged congestion was not resolved, it will lead 
to irreversible damage and glomerular filtration rate could decline gradually over time to end‐stage renal disease. 
We conducted this study with the aim: evaluate the renal function in the hydronephrosis patients by scintigraphy 
or glomerular filtration rate calculated by Cockcroft‐Gault and MDRD.  
Patients and method: The prospective study was performed at the Neph‐Urology Department, Bach Mai 
* Bộ môn Nội tổng hợp ĐH Y Hà Nội.  
Tác giả liên lạc: TS. Vương Tuyết Mai 

168

**

 Khoa Kỹ thật cao, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương 
Email:  

ĐT: 0915518775 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học


Hospital from 9/2011 to 8/2012 on 44 patients who were diagnosed urinary and renal hydronephrosis.  
Results: By renal scintigraphy, total GFR of 2 kidneys showed with 65.9% lower than 60 ml/min/1.73m2. 
In the damage kidney, there were 40/41 cases with glomerular filtration rate decreased and the mean value was 
11.6 ± 11.2 ml/min/1.73m2. MDRD formula results: 26 of 44 patients (59.1%) having eGFR<60 ml/min/1.73m2 
with  the  mean  value  was  15.8  ±  17.3  ml/min/1.73m2.  The  results  of  Cockcroft‐Gault  formula:  36/44  patients 
(81.8%) with eGFR<60 ml/min/1.73m2, the mean value was 23.3±21.2 ml/min/1.73m2. In the  comparison  the 
results  of  eGFR  identified  by  three  methods:  The  patients  <60  ml/min/1.73m2  calculated  by  Cockcroft‐Gault 
formula was highest number compared to the results of MDRD formula and scintigraphy. There were similarities 
when determining eGFR by MDRD formula and the results of renal scintigraphy to determine the proportion of 
patients with eGFR <60 ml/min/1.73m2. 
Conclusions: In our study, eGFR was decreased in all patients’ urinary and renal hydronephrosis. Renal 
scintigraphy  allowed  assessing  separately  GFR  in  each  kidney  and  the  total  GFR  of  both  two  kidneys,  so  in 
general that helped for having accurate treatment. MDRD formula estimated the GFR relatively close to the GFR 
as determined by renal scintigraphy. 
Key words: eGFR(estimated glomerular filtration rate), urinary and renal hydronephrosis 
Bạch Mai từ 9/ 2011 đến 8/2012. Bệnh nhân trên 
ĐẶT VẤN ĐỀ   
16 tuổi và tự nguyện tham gia nghiên cứu.  
Trong ứ nước, ứ mủ bể thận, hậu quả nặng 
Các xét nghiệm theo protocol 
nề  nhất  là  sự  suy  giảm  chức  năng  thận  do  sự 
Công thức máu; Sinh hóa máu; Đông máu 
hủy  hoại  về  cấu  trúc  do  tình  trạng  tắc  nghẽn. 
cơ bản. 
Trong  thời  gian  đầu  thận  bị  ứ  nước  cấp  tính, 
chức  năng  thận  có  thể  vẫn  được  bảo  tồn  nếu 
tình trạng tắc nghẽn được giải quyết sớm. Tuy 
nhiên  nếu  tình  trạng  tắc  nghẽn  kéo  dài  và 
không  được  giải  quyết  thì  sẽ  dẫn  đến  những 

tổn  thương  không  hồi  phục  và  mức  lọc  cầu 
thận sẽ suy giảm dần theo thời gian tiến triển 
bệnh  mà  hậu  quả  cuối  cùng  là  bệnh  thận  giai 
đoạn  cuối  và  cần  phải  điều  trị  bằng  các 
phương  pháp  điều  trị  thay  thế  thận  như  lọc 
máu,  lọc  màng  bụng  và  ghép  thận.  Chính  vì 
vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm: 

Mục tiêu  
Đánh  giá  chức  năng  thận  ở  những  bệnh 
nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình 
thận  và  mức  lọc  cầu  thận  ước  tính  theo  công 
thức Cockcroft‐Gault và MDRD (Modification of 
Diet in Renal Disease).  

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện trên 44 
bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định ứ nước, 
ứ mủ bể thận tại khoa Thận‐Tiết niệu, bệnh viện 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Tổng phân tích nước tiểu; Tế bào niệu.  
Cấy máu, cấy nước tiểu. 
Siêu âm thận tiết niệu. 
Chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị. 
Chụp CT scanner ổ bụng hoặc chụp MRI hoặc 
MSCT dựng hình niệu quản khi có chỉ định.  
Xạ hình đánh giá chức năng thận  


GFR được tính như sau(1,8) 
GFR tổng (ml/ phút) = 9.8127 x độ tập trung 
của 2 thận – 6.82519. 
GFR  thận  phải  =  GFR  tổng  x  (số  xung  của 
thận phải/ số xung của 2 thận). 
GFR  thận  trái  =  GFR  tổng  x  (số  xung  của 
thận trái/ số xung của 2 thận). 
GFR hiệu chỉnh, hiệu chỉnh theo diện tích da 
của cơ thể (ml/ phút/ m2). 
GFR hiệu chỉnh = GFR tổng x 1,73/ S. 
1,73  là  diện  tích  da  trung  bình  của  người 
châu âu tính bằng m2, (chưa có số liệu của người 
Việt Nam), S là diện tích da của BN tính bằng m2 
theo công thức sau:  

169


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 
S = W0,51456 x H0,42246 x 0,0235 

(W là trọng lượng cơ thể BN tính bằng kg, H 
là chiều cao BN tính bằng cm). 

Mức lọc cầu thận ước tính  
Được tính theo công thức Cockcroft‐Gault và 
công  thức  sửa  đổi  chế  độ  ăn  trong  bệnh  thận 
(MDRD‐Modification of Diet in Renal Disease).  

Các  thông  tin  thu  thập  theo  mẫu  bệnh  án 
nghiên cứu với các thông số thống nhất. Các số 
liệu  được  mã  hóa  và  xử  lý  bằng  chương  trình 
SPSS 17.0. 

KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi mắc bệnh trung bình của các đối tương 
nghiên cứu là 55,7 ± 14,5 tuổi.  Tỷ  lệ  bệnh  nhân 

nữ chiếm 61,4% (n=27) nhiều hơn số bệnh nhân 
nam là 17 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 38,6%. 
Bảng 1. Phân bố theo nhóm tuổi của đối tượng 
nghiên cứu. 
Nhóm tuổi

Số bệnh nhân (n = 44)

Tỷ lệ %

20 - 40
41 - 60
61 - 80
Tổng

6
20
18
44


13,6
45,5
40,9
100

Nhận xét: Trong 44 bệnh nhân nghiên cứu 
nhóm tuổi hay gặp nhất là 41‐ 60 tuổi chiếm tỷ 
lệ 45,5% (n = 20), tiếp đến là nhóm bệnh nhân 
từ 61 – 80 tuổi chiếm tỷ lệ 40,9% (n=18), chiếm 
tỷ  lệ  thấp  nhất  13,6%  là  nhóm  tuổi  từ  20  –  40 
tuổi (n = 6). 

MLCT  ước  tính  qua  kết  quả  xạ  hình  thận  và  mức  lọc  cầu  thận  ước  tính  theo  công  thức 
Cockcroft‐Gault và MDRD 
Bảng 2. Phân bố mức lọc cầu thận của bệnh nhân theo xạ hình thận 
Mức lọc cầu thận ước tính (MLCT)
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Thận bên ứ nước,
ứ mủ
X ± SD
Min - Max
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Thận bên không ứ nước,
ứ mủ
X ± SD
Min - Max
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %

MLCT tổng của cả 2 thận
X ± SD
Min - Max

Nhận xét: Trong tổng số 41 bệnh nhân được 
làm  xạ  hình  thận  thì  có  40/41  trường  hợp  bên 
thận bị ứ nước, ứ mủ có mức lọc cầu thận giảm 
thấp  trung  bình  chỉ  11,6  ±  11,2  ml/phút/1,73m2. 
Với bên thận không ứ nước, ứ mủ thì MLCT<60 
ml/phút/m2  cũng  chiếm  tới  90,2%  (37/41  bệnh 
nhân)  với  MLCT  trung  bình  là  27,4  ±  17,5 
ml/phút/m2. Điều này lý giải vì sao MLCT chung 
của cả 2 thận thấp với 27/41 bệnh nhân (65,9%) 
có MLCT < 60 ml/phút/1,73m2. 
Bảng 3. Phân bố mức lọc cầu thận của bệnh nhân 
theo công thức MDRD. 
Mức lọc cầu thận N = 44 %

170

X ± SD

Min - Max

< 60 ml/phút/1,73m2
40
97,6
11,6 ± 11,2
0 - 49,4
37

90,2
27,4 ± 17,5
1,8 - 5,9
27
65,9
31,2 ± 15,6
11,2 - 58,7
ước tính (MLCT)
< 60 ml/phút/1,73m2 26
≥ 60ml/phút/1,73m2

18

≥ 60 ml/phút/1,73m2
1
2,4
75,0
75,0
4
9,8
66,6 ± 4,1
60,7 - 69,8
14
34,1
81,6 ± 15,6
60,0 - 107,0
59,1 15,8 ± 17,3 2,7 - 58,8
64,8 40,9 82,9 ± 19,0
124,6


Nhận  xét:  Trong  tổng  số  44  bệnh  nhân  có 
26(59,1%)  bệnh  nhân  có  MLCT  <  60 
ml/phút/1,73m2  trung  bình  là  15,8  ±  17,3 
ml/phút/1,73m2. 
Bảng 4. Phân bố mức lọc cầu thận của bệnh nhân 
theo công thức Cockcroft‐Gault 
Số bệnh
Tỷ lệ
nhân
X ± SD Min - Max
%
(n= 44)
< 60 ml/phút/1,73m2
36
81,8 23,3 ± 21,2 2,1 - 59,7
Mức lọc cầu thận
ước tính (MLCT)

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
≥ 60ml/phút/1,73m2

8

18,2 94,5 ± 22,0 68,6 - 121,8

Nghiên cứu Y học


Nhận  xét:  Có  36/44  bệnh  nhân  (81,8%)  có 
MLCT < 60 ml/phút/1,73m2, trung bình là 23,3 ± 
21,2 ml/phút/1,73m2. 

bệnh của nữ cũng cao hơn nam, có thể là do số 
bệnh nhân nữ trong nghiên cứu nhiều hơn bệnh 
nhân nam chứ không phải do đặc thù bệnh theo 
tuổi của từng giới(8). 

So sánh giá trị MLCT ước tính qua kết quả 
xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính 
theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD 

MLCT ước tính qua kết quả xạ hình thận, 
theo  công  thức  Cockcroft‐Gault  và  công 
thức MDRD 

Bảng 5. So sánh mức lọc cầu thận theo các cách tính: 
Xạ hình thận, Cockcroft‐Gault và MDRD. 

MLCT  theo  cả  3  cách  tính  xạ  hình  thận, 
Cockcroft‐Gault  và  MDRD  đều  cho  thấy  có  sự 
giảm  MLCT  ở  những  bệnh  nhân  ứ  nước  ứ  mủ 
bể  thận  ở  nhiều  mức  độ  khác  nhau  khi  nhập 
viện.  

< 60
≥ 60
Mức lọc cầu thận ước tính
ml/phút/1,73 ml/phút/1,73m

(MLCT)
2
2
m
Số bệnh nhân
36
8
Tỷ lệ %
81,8
18,2
CockcroftGault
X ± SD
23,3 ± 21,2
82,9 ± 19,0
Min - Max
2,1 - 59,7
64,8 - 124,6
Số bệnh nhân
26
18
Tỷ lệ %
59,1
40,9
MDRD
X ± SD
15,8 ± 17,3
82,9 ± 19,0
Min - Max
2,7 - 58,8
64,8 - 124,6

Số bệnh nhân
27
14
Tỷ
lệ
%
65,9
34,1
Xạ hình
thận
X ± SD
31,2 ± 15,6
81,6 ± 15,6
Min - Max
11,2 - 58,7
60,0 - 107,0

Nhận  xét:  Số  bệnh  nhân  có  MLCT<  60 
ml/phút/1,73m2  tính  theo  công  thức  Cockcroft‐
Gault  cao  nhất  36/44(81,8  %)  so  với  2  cách  tính 
MLCT theo công thức MDRD và xạ hình thận có 
sự  tương  đồng  với  26/44  (59,1%)  bệnh  nhân 
(theo  công  thức  MDRD)  và  27/41  (65,9%)  bệnh 
nhân (theo kết quả xạ hình thận) có MLCT < 60 
ml/phút/1,73m2. 

BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi  trung  bình  của  bệnh  nhân  trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  là  55,7  ±  14,5  tuổi. 

Đây là độ tuổi hay gặp sỏi làm tắc nghẽn đường 
bài  xuất  nhất  và  đây  cũng  là  độ  tuổi  có  nhiều 
biến chứng của bệnh lý sỏi và các bệnh lý khác 
có biến chứng ở hệ tiết niệu. 
Theo tác giả Nguyễn Văn Xang thì < 60 tuổi 
nữ mắc nhiều hơn nam, nhưng sau 60 tuổi nam 
mắc  bệnh  nhiều  hơn  nữ  do  liên  quan  đến  các 
bệnh  lý  ác  tính  vùng  chậu.  Trong  nghiên  cứu 
của chúng tôi dù ở bất kỳ độ tuổi nào tỷ lệ mắc 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

Trong số 44 đối tượng nghiên cứu có 41 đối 
tượng được làm xạ hình thận khi nhập viện. Kết 
quả cho thấy có 5 bệnh  nhân  (12,2%)  có  MLCT 
dưới  15  ml/phút/1,73m2,  tương  ứng  là  nồng  độ 
Creatinin tăng cao > 900 μmol/l. Cả 5 bệnh nhân 
này  đều  phải  lọc  máu  trước  khi  làm  dẫn  lưu. 
Các bệnh nhân còn lại đều có giảm MLCT ở các 
mức độ khác nhau. Có 10 bênh nhân có MLCT ở 
giai đoạn 4 của mức lọc cầu thận (24,4%) và 13 
bệnh nhân có MLCT ở giai đoạn 3 của bệnh thận 
mạn (31,7%). Những bệnh nhân này đều có tăng 
creatinin nhưng chưa có chỉ định lọc máu. Còn 
lại 9 bệnh nhân có MLCT ở giai đoạn 2 của bệnh 
thận mạn (22%) và chỉ có 4 bệnh nhân có MLCT 
>  90  ml/phút/1,73m2  (9,6%).  Những  bệnh  nhân 
này không có biểu hiện của suy giảm chức năng 
thận trên lâm sàng. 
Tình  trạng  suy  giảm  chức  năng  thận  cho 

thấy  là  tình  trạng  thường  gặp  ở  những  bệnh 
nhân  ứ  nước,  ứ  mủ  bể  thận  khi  vào  viện.  Kết 
quả của chúng tôi cũng tương tự kết quả nghiên 
cứu  của  Chhith  Chhouy  làm  xạ  hình  thận  cho 
15/157 BN thấy có 93,33% (12/15 BN) cho kết quả 
GFR  >  15  ml/phút/1,73m2  và  cả  12  trường  hợp 
này đều được điều trị bảo tồn không cắt thận. 3 
trường  hợp  kết  quả  xạ  hình  có  GFR  < 
ml/phút/1,73m2  thì  cắt  thận  1  trường  hợp,  2 
trường hợp còn lại cũng điều trị bảo tồn do chức 
năng thận đối diện cũng rất kém(1). 
Đặc biệt trong việc tính MLCT bằng xạ hình 
thận  có  ưu  điểm  là  giúp  đánh  giá  chức  năng 
từng bên riêng rẽ của của thận. Do vậy đánh giá 

171


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

được chức năng của bên bị bệnh còn bao nhiêu 
phần  trăm  chức  năng  trong  tổng  chức  năng 
thận(3). Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy gần như toàn bộ thận ứ nước ứ mủ đều 
có  MLCT  <  60  ml/phút/1,73m2,  trong  đó  thậm 
chí những trường hợp thận bị ứ nước, ứ mủ có 
MLCT  thường  dưới  15  ml/phút/1,73m2  là  chủ 
yếu.  Chức  năng  thận  suy  gảm  nhiều  thường 

phải  có  thời  gian  tiến  triển  bệnh  làm  phá  hủy 
cấu  trúc  thận.  Những  bệnh  nhân  trong  nghiên 
cứu thường đến viện trong 2 tình huống chủ yếu 
là: tình cờ phát hiện ra thận bị ứ nước hoặc khi 
đã có biểu hiện của bệnh thận mạn tính làm suy 
giảm  nhiều  đến  sức  khỏe  mới  đi  khám  bệnh, 
những trường hợp này thường nhập viện trong 
tình trạng suy thận ở nhiều mức độ khác nhau. 

So sánh giá trị MLCT ước tính qua kết quả 
xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính 
theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD 
Cả  3  cách  tính  MLCT  đều  cho  thấy  sự  suy 
giảm  MLCT  của  BN  khi  nhập  viện  với  nhiều 
mức độ khác nhau trong đó cách tính theo công 
thức  Cockcroft  ‐  Gault  cho  kết  quả  MLCT  thấp 
hơn 2 cách còn lại là MDRD và xạ hình thận. Có 
36/44 bệnh nhân có MLCT < 60 ml/ phút/1,73m2 
theo  công  thức  Cockcroft  ‐  Gault,  trong  khi  đó 
chỉ có 28/44 bệnh nhân (theo công thức MDRD) 
và 27/41 bệnh nhân (theo kết quả xạ hình thận) 
là có MLCT < 60 ml/ phút/1,73m2.  
Xạ  hình  thận  với  DTPA  –  99m  ‐  Tc 
(Diethylene Triamine Penta Acetate Technisium 
99m) hiện nay được ứng dụng rộng rãi, nó cho 
biết hình ảnh rõ nét của thận, niệu quản và vị trí 
tắc  nghẽn,  quan  trọng  hơn  nó  đánh  giá  được 
chức  năng  thận  từng  bên  một  và  động  lực  học 
của  hệ  tiết  niệu.  Phương  pháp  này  đơn  giản, 
nhanh  chóng  và  hầu  như  không  có  chống  chỉ 

định, có thể làm cho cả trẻ em. Tuy không thật 
đặc hiệu để đóng vai trò quyết định trong chẩn 
đoán  phân  biệt  các  tổn  thương  ở  thận,  nhưng 
việc phân tích thận đồ cho thấy hoạt động chức 
năng thận qua các pha của thận đồ phù hợp với 
tổn thương giải phẫu bệnh của thận. Trong các 
trường hợp sỏi thận, sỏi niệu quản thận đồ đồng 

172

vị cho biết chức năng thận nào tốt hơn, mức độ 
gây tổn thương thận của sỏi giúp cho hướng chỉ 
định điều trị(3,5,6,9).  
Xạ  hình  chức  năng  thận  là  1  kỹ  thuật  chẩn 
đoán đơn giản, dễ tiến hành, rất có giá trị trong 
các  bệnh  lý  của  thận,  không  chỉ  cung  cấp  các 
thông  tin  về  chức  năng  riêng  rẽ  của  từng  thận 
qua  phân  tích  định  lượng  và  định  tính  mà  còn 
cho  các  thông  tin  về  vị  trí,  kích  thước  và  giải 
phẫu thận. Xét nghiệm này cũng rất có ích trong 
trường  hợp  bệnh  nhân  mẫn  cảm  với  thuốc  cản 
quang  có  iod  hoặc  ure  máu  cao  mà  không  thể 
chụp X quang được.  
Khi so sánh mức lọc cầu thận khi đánh giá 
qua xạ hình thận với việc đánh giá MLCT ước 
tính theo các công thức tính mức lọc cầu thận. 
Công  thức  tính  mức  lọc  cầu  thận  theo  công 
thức  sửa  đổi  chế  độ  ăn  trong  bệnh  thận 
(MDRD)  cho  thấy  kết  quả  gần  tương  đương 
với  kết  quả  MLCT  tổng  thu  được  khi  làm  xạ 

hình thận.  
Công  thức  Cockcroft  Gault(2)  cho  số  lượng 
bệnh nhân có MLCT<60ml/phút/1,7m2 chiếm tỷ 
lệ  khá  cao  36/44  bệnh  nhân  so  với  MLCT  ước 
tính của hai 2 công thức 28/44 bệnh nhân (theo 
công thức MDRD) và 27/41 bệnh nhân (theo kết 
quả  xạ  hình  thận).  Theo  nghiên  cứu  của 
Wieneke Marleen Michels và cộng sự khi thực tế 
lâm  sàng  này  so  sánh  Cockcroft‐Gault,  MDRD, 
và  CKD‐EPI  công  thức  trong  một  thử  nghiệm 
lâm sàng cho thấy sai số trung bình tổng thể là 
nhỏ  nhất  cho  công  thức  MDRD.  Độ  chính  xác 
cao  nhất  đạt  được  với  MDRD  là  cho  phép  ước 
tính  MLCT  gần  nhất  với  đo  trực  tiếp  MLCT  ở 
bệnh nhân có MLCT từ 15‐29 ml/phút/1,73 m2 (7). 
Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy cho thấy 
có  sự  sai  số  tương  đối  nhiều  trong  xác  định 
MLCT  ở  bệnh  nhân  bênh  thận  giai  đoạn  2  và 
giai đoạn 3 với công thức Cockcroft‐Gault(4,10).  

KẾT LUẬN 
Như  vậy  với  phương  pháp  xạ  hình  thận 
không  chỉ  cho  biết  MLCT  chung  của  cả  2  thận 
mà còn cho biết MLCT riêng rẽ của từng thận từ 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
đó cho phép bác sỹ lựa chọn phương pháp điều 

trị tiếp theo cho bệnh nhân một cách hiệu quả và 
an  toàn.  Theo  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cách 
tính MLCT ước tính theo công thức MDRD cho 
thấy có độ chính xác cao hơn và gần với kết quả 
làm  xạ  hình  thận  hơn  nên  khi  không  có  điều 
kiện  làm  xạ  hình  thận  thì  việc  xác  định  MLCT 
nên tính bằng công thức MDRD.  
Lời cảm ơn: Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến ban chủ 
nhiệm, các bác sỹ, kỹ thuật viên và điều dưỡng Khoa Thận‐
Tiết niệu và Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Bạch Mai đã 
tạo điều kiện cho quá trình thực hiện nghiên cứu. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.
3.

Chhouy  C  (2003).  Góp  phần  nghiên  cứu  chẩn  đoán  thận  ứ 
nước do tắc nghẽn đường tiết niệu trên ở người lớn tại bệnh 
viện Việt Đức. Luận văn thạc sỹ ĐH Y Hà Nội.  
Cockcroft DW and MH Gault (1976), Prediction of creatinine 
clearance from serum creatinine, Nephron 16, pp. (1): 31–41. 
Đào Bích Thủy (1989), Phối hợp thận đồ đồng vị và ghi hình 
thận trong chẩn đoán bệnh thận tiết niệu. Tạp chí Y học thực 
hành 2 (279): Tr. 24 – 5. 

4.

5.

6.
7.

8.
9.
10.

Nghiên cứu Y học

Froissart  M,  Rossert  J,  Jacquot  C,  Paillard  M,  Houillier  P: 
(2005)  Predictive  performance  of  the  Modification  of  Diet  in 
Renal  Disease  and  Cockcroft‐Gault  equations  for  estimating 
renal function. J Am Soc Nephrol 16: 763–773, 2005. 
Hà  Hoàng  Kiệm  (2010),  Các  phương  pháp  chẩn  đoán  bệnh 
thận bằng đồng vị phóng xạ. Nhà xuất bản y học: Tr.278 – 87. 
Mai  Trọng  Khoa  (2009),  Xạ  hình  chức  năng  thận. 
www.bmir.vn.hom.thận tiết niệu.  
Michels  WM,  Grootendorst  DC,  Verduijn  M,  Elliott  EG, 
Dekker FW, Krediet RT. (2010) Performance of the Cockcroft‐
Gault,  MDRD,  and  new  CKD‐EPI  formulas  in  relation  to 
GFR,  age,  and  body  size.Clin  J  Am  Soc  Nephrol.  2010 
Jun;5(6):1003‐9. doi: 10.2215/CJN.06870909.  
Nguyễn Văn Xang (2000), Thận ứ nước. NXB Y học: Tr.407 – 
9.  
Phạm  Văn  Bùi  (2007),  Các  phương  pháp  thăm  dò  hệ  niệu. 
NXB Y học: Tr. 48‐ 55. 
Rigalleau V, Lasseur C, Perlemoine C, Barthe N, Raffaitin C, 
Chauveau  P,  Combe  C,  Gin  H  (2006).  Cockcroft‐Gault 
formula  is  biased  by  body  weight  in  diabetic  patients  with 
renal impairment. Metabolism 55: 108–112. 


 
Ngày nhận bài báo   
 
   
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 

 

 

16‐05‐2013 
03‐06‐2013 
15–07‐2013 

 
 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 

173



×