Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghiên cứu sử dụng vạt da bìu chuyển lên che phủ khuyết da ở bụng dương vật do chấn thương và bệnh lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.05 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

53 NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG VẠT DA BÌU CHUYỂN LÊN CHE PHỦ
KHUYẾT DA Ở BỤNG DƯƠNG VẬT DO CHẤN THƯƠNG VÀ BỆNH LÝ
Trần Ngọc Bích*

TÓM TẮT
Trong 3 năm, từ 6-2000 tới 9-2003, tại Khoa Phẫu thuật nhi Bệnh viện Việt - Đức, chúng tôi đã sử dụng kỹ
thuật chuyển vạt da bìu lên che phủ khuyết da ở dương vật cho 32 bệnh nhân. Trong đó - -Mức độ thiếu da
nhẹ (< 1/4 diện tích da ở thân dương vật) ở 15 bệnh nhân bò dò tật lỗ tiểu lệch thấp.
-Mức độ thiếu da vừa (1/4 - 1/2 diện tích da ở thân dương vật) ở 15 bệnh nhân, trong đó 7 bệnh nhân bò dò
tật lỗ tiểu lệch thấp và 8 bệnh nhân bò lún dương vật.
-Mức độ thiếu da nặng (> 1/2 diện tích da dương vật): ở 2 bệnh nhân. Hai bệnh nhân này mất toàn bộ
bao qui đầu và da dương vật.
Kết quả mổ lúc ra viện và qua theo dõi là tốt ở tất cả các bệnh nhân.

SUMMARY:
USE OF SCROTAL FLAPS ROTATED TO COVER THE SKIN DEFECT OF THE PENIS
BY TRAUMA AND MALFORMATION
Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 354 - 358

During a period of 3 years, from July 2000 to september 2003, at the pediatric surgical departement of Việt
- Đức hospital, we treated 32 patients suffred from a skin deficiency of the penis.
- Deficiency on the light degree (<1/4 skin superficies of the penis): 15 patients suffered from hypospadias
- Deficiency on the moderate degree (1/4 - 1/2 of skin superficies): 15 patients. Among of them: 7 patients
sufferring from hypospadias and 8 patients suffering from buried penis.
- Deficiency on the severe degree (>1/2 of skin superficies): 2 patients who lost all of the prepuce and the
penil skin by accident.
We moved the skin from the scrotum to the penis to coved the skin defect.


The result is good for all patients.
thuật một thì, trong thời gian đầu, chúng tôi cũng đã
ĐẶT VẤN ĐỀ
gặp những khó khăn về di chuyển vạt da che phủ
Khuyết và mất da ở bụng dương vật do tai nạn
dương vật. Trong quá trình mổ, với những kinh
hoặc khi mổ chữa một số dò tật như lỗ tiểu lệch thấp
nghiệm có được chúng tôi đã sử dụng thành công kỹ
và lún dương vật... là một vấn đề khó điều trò và bệnh
thuật chuyển vạt da bìu lên để che phủ khuyết da ở
nhân có thể phải chòu mổ nhiều lần để có đủ da
bụng dương vật với các mức độ thiếu da khác nhau
chuyển tới che phủ. Trước đây, các vạt da được
khi mổ chữa dò tật lỗ đái lệch thấp, mất da dương vật
chuyển tới dương vật có thể bằng phương háp mổ
do tai nạn và lún dương vật. Do vậy, chúng tôi đã
nhiều thì, lấy từ da bìu, hoặc da từ nơi khác như da
thực hiện đề tài này với hai mục tiêu nghiên cứu:
bụng chuyển tới bằng vạt có cuống theo nguyên tắc
- Chỉ đònh dùng vạt da bìu che phủ khuyết da
quai philatob hoặc vạt ghép tự do(1). Do vậy thời gian
dương vật
điều trò dài và kết quả có khi bò hạn chế. Từ 1984, khi
- Kỹ thuật chuyển vạt da
bắt đầu mổ chữa dò tật lỗ đái lệch thấp bằng phẫu
* Khoa Phẫu thuật Nhi- Bệnh viện Việt-Đức

354

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân

- Là những bệnh nhân được mổ chữa dò tật lỗ đái
lệch thấp, lún dương vật, mất da dương vật do chấn
thương hoặc tai nạn, có biểu hiện thiếu da che phủ
thân dương vật.
- Được mổ bởi cùng một phẫu thuật viên.
Thời gian nghiên cứu

Từ 6-2000 tới 9-2003.
Nơi nghiên cứu

Bệnh viện Việt- Đức
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, hồi và tiến cứu
Đánh giá mức độ thiếu da ở dương vật và chọn
kỹ thuật chuyển vạt da bìu lên che phủ.
Mô tả nguyên tắc kỹ thuật sử dụng
Đánh giá kết quả mổ.
Mức độ thiếu da che phủ dương vật

Chúng tôi chia làm 3 mức độ
- Độ 1: thiếu da < 1/4 diện tích
- Độ 2 : thiếu da từ 1/4 - 1/2 diện tích

- Độ 3 : thiếu da trên 1/2 diện tích
Chọn kỹ thuật mổ

Tùy thuộc vào vò trí và mức độ thiếu da mà kỹ
thuật chuyển vạt có khác nhau. Chúng tôi đã thực
hiện 3 loại kỹ thuật khác nhau : vạt dồn đẩy, vạt xoay
và các vạt hoán vò.
* Kỹ thuật vạt dồn đẩy: chỉ đònh khi thiếu da ít
(độ 1) và thiếu ở ngay mặt bụng dương vật về phía
gốc.
Có 2 loại kỹ thuật vạt dồn đẩy: vạt Y-V và vạt
chữ U.
Kỹ thuật vạt xoay

Chỉ đònh cho thiếu da ở mặt bụng dương vật, ở độ

Nghiên cứu Y học

1, 2,3. Sử dụng 1 hay 2 vạt xoay tuỳ thuộc mức độ
thiếu da.
Kỹ thuật vạt hoán vò:

Chỉ đònh cho thiếu da độ 2
Kỹ thuật mổ như sau
Nếu mức độ thiếu da ít (độ 1):

- Rạch da lấy vạt chữ U ở bìu ngay dưới chỗ thiếu
da ở bụng dương vật rồi tònh tiến vạt này lên khâu
che phủ khuyết da.
- Rạch da và phẫu tích lấy vạt da bìu hình chữ V ở

ngay dưới chỗ khuyết da ở bụng dương vật, đẩy vạt
này phía bụng dương vật, khâu dồn chóp da nhọn
thành hình chữ Y.
Nếu mức độ thiếu da vừa (độ 2)

- Rạch da hình Z tạo 2 vạt da tam giác ở gốc
dương vật - bìu. Tách lấy 2 vạt da này. Xoay 2 vạt da
này lên phía bụng dương vật để khâu che phủ khuyết
da.
- Đo và rạch lấy một vạt da ở cùng bên và có kích
thước vừa với diện tích da bò khuyết. Vò trí khuyết da
có thể ở mặt bụng hoặc ở một sườn bên dương vật.
Phẫu tích rồi xoay vạt này lên che phủ khuyết da.
4.3- Nếu thiếu da nhiều (độ 3)

Dùng 2 vạt da hình chữ nhật từ bìu xoay lên.
Mức độ nặng nhất là thiếu toàn bộ da che
dương vật.
Nếu thiếu toàn bộ da che phủ dương vật thì
mổ như sau: rạch da ở đường đan bìu từ gốc dương
vật xuống. Đường rạch đủ dài để khi khâu da bìu
che phủ dương vật thì điểm cuối của đường rạch sẽ
ở điểm giữa rãnh qui đầu phía bụng dương vật.
Tách da bìu ở 2 bên đường rạch rồi đặt thân dương
vật vào giữa bìu và khâu lại da bìu ôm trùm lên
thân dương vật, khâu từ gốc phía mu tới rãnh qui
đầu rồi khâu tiếp vạt da vòng theo rãnh qui đầu
xuống dưới, để hở qui đầu. Tiếp đó, tính lấy 2 vạt
da bìu chuyển lên che phủ thân dương vật. Đo vạt
da bìu có chiều dài từ rãnh qui đầu tới gốc dương

vật phía mu còn chiều rộng của mỗi vạt bằng nửa

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

355


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

chu vi dương vật, do vậy đường rạch da ở bìu song
song với đường khâu da ở dọc giữa lưng dương vật.
Phẫu tích tách 2 vạt da bìu này từ phía gốc bìu lên,
bảo tồn mạch máu dưới da và phần cuống mạch
nuôi vạt da sẽ từ phía gốc dương vật. Khâu 2 vạt da
này với nhau để che phủ toàn bộ thân dương vật.
Sau mổ sẽ có 2 đường khâu da: một nằm ở dọc
giữa lưng dương vật và một nằm ở dọc giữa bụng
dương vật.
Khâu lại da bìu theo chiều ngang-vòng cung có
đỉnh phía trên.

- Lún dương vật: độ 1: 3 BN ; độ 2: 5 BN (Trong
số 9 BN được mổ)
- Mất da dương vật do tai nạn: độ 3: 2 BN. Cả 2
bệnh nhân này mất toàn bộ da dương vật và bao
qui đầu.
Các kỹ thuật mổ đã áp dụng cho các
mức dộ thiếu da:

- Kỹ thuật vạt dồn đẩy : 5 BN
- Kỹ thuật vạt xoay : xoay 1 vạt ở 17 Khâu lại da
bìu. BN, xoay 2 vạt ở 2 BN

Đánh giá kết quả mổ
Theo các tiêu chuẩn:
- Tốt: Dương vật đủ da che phủ, không bò hoại tử,
không bò kéo cong xuống bìu.
Hình thái bìu và dương vật bình thường,
- Trung bình : Dương vật có đủ da che phủ, da
không bò hoại tử,
Dương vật bò kéo xuống bìu và trông như bò lún
nhẹ vào bìu.

Hình thái bìu –dương vật trông tương đối bình
thường.

- Kỹ thuật vạt hoán vò : 8 BN
Kết quả mổ
Tốt: 32 bệnh nhân
Thời gian theo dõi:
ở 32 bệnh nhân
≤ 3 tháng: 3 bn
Từ 4-6 tháng: 9 bn
Từ 7-12 tháng: 8 bn
Trên 12 tháng: 12 bn

- Xấu: Da chuyển lên bò hoại tử,
Dương vật bò da bìu kéo xuống bìu gây cong


BÀN LUẬN

Cần phải mổ lần 2 để chuyển lại vạt da

Chỉ đònh dùng vạt da bìu che phủ
khuyết da dương vật và ưu điểm của
vạt này

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Số bệnh nhân: 32
Lứa tuổi bệnh nhân:
£ 2 tuổi : 1
Từ 3- 5 tuổi : 10
Từ 6-15 tuổi : 19
Trên 15 tuổi : 2
Loại bệnh hoặc dò tật được mổ, và mức
độ thiếu da dương vật.
- Dò tật lỗ đái lệch thấp thể dương vật: độ1 : 10BN
(Trong số 64 BN bò LĐLT được mổ)

356

- Dò tật lỗ đái lệch thấp thể bìu: độ1: 5 BN ; độ 2:
7 BN (Trong số 12 BN bò LĐLT được mổ)

Thiếu da ở dương vật là một vấn đề khó giải
quyết cho phẫu thuật viên khi mổ chữa một số dò tật
bẩm sinh hoặc do tai nạn. Trước đây, để giải quyết da
thiếu, các phẫu thuật viên thường áp dụng phương
pháp mổ nhiều thì: thì 1, khâu vùi dương vật vào bìu

và thì 2 mới gỡ dương vật khỏi bìu rồi chuyển vạt da
bìu che phủ khuyết da ở dương vật, thường là thiếu da
ở mặt bụng dương vật. Phương pháp này tương đối
an toàn vì vạt da ở bìu đã được gắn và dính với mặt
bụng dương vật, mạch máu đã được tái lập nên khi
vạt da được cắt ra để khâu che phủ dương vật thì sự
cấp máu tốt, không có nguy cơ hoại tử. Tuy nhiên

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
phương pháp mổ 2 thì này cũng có những bất tiện.
Do khoảng thời gian giữa 2 lần mổ từ 6 tháng tới 1
năm nên thời gian điều trò dài. Dương vật lại hay
cương cứng, nhất là ở tuổi thanh-thiếu niên nên gây
khó chòu cho bệnh nhân, gây đau và có nguy cơ bục
đường khâu sớm sau mổ.
Ngoài ra còn có những phương pháp khác để tạo
da che phủ khuyết da ở dương vật như sử dụng các
vạt có cuống từ nơi khác của cơ thể chuyển lại theo
nguyên tắc quai Philatob. Vạt da được lấy từ bụng,
chuyển tới cánh tay rồi từ cánh tay chuyển xuống
bìu-dương vật như phương pháp của lllynuk. ưu điểm
của phương pháp này là có thể lấy được vạt da rộng
dài như ý muốn, nhưng nhược điểm lại là thời gian
điều trò dài, phải kèm theo có bột cố đònh nên gây
phiền phức cho bệnh nhân, do vậy ngày nay rất ít
được áp dụng. (trích dẫn từ 1).
Vạt da từ mu sát gốc dương vật xoay lên có thể

được sử dụng(4), nhưng kích thước vạt lấy được hạn
chế, thường chỉ cho khuyết da phía lưng dương vật,
và đây lại là vùng da mọc lông dày nên không phải là
chất liệu tốt che phủ, tạo vẻ tự nhiên đạt yêu cầu về
thẩm mỹ.
Các mảnh da ghép tự do cũng đã được sử dụng.
ưu điểm của phương pháp này là lấy được kích thước
theo nhu cầu và chỉ một lần mổ, nhưng nhược điểm
của nó lại là khả năng sống của mảnh ghép khó trong
trường hợp mất da mà mất cả tổ chức dưới da, hơn
nữa cảm giác da bò giảm(4).
Chỉ đònh dùng vạt da bìu xoay lên che phủ
khuyết da dương vật là hợp lý nhất vì những ưu điểm
của loại vạt này:
- ở vò trí gần nhất với dương vật
- Là vạt có cuống nuôi nên khả năng sống cao, ít
nguy cơ hoại tử.
- Da bìu rộng, co giãn tốt, có khả năng lấy đủ để
che phủ toàn bộ thân dương vật mà không sợ biến
dạng bìu hoặc thiếu da bìu chứa đựng 2 tinh hoàn.
- Da bìu có ít lông nên thích hợp cho thay thế da
dương vật.

Nghiên cứu Y học

- Vẫn giữ được thần kinh ở da bìu nên giữ được
cảm giác cho dương vật.
Vấn đề đặt ra là làm sao chuyển vạt da bìu lên
che phủ khuyết da bụng dương vật trong một thì mổ
với các mức độ thiếu da kể cả thiếu toàn bộ da che

thân dương vật. Do vậy cần hiểu rõ các nguyên tắc
chuyển vạt và ứng dụng từng kỹ thuật một cách linh
hoạt hoặc khéo kết hợp với nhau để thực hiện được
mục tiêu mổ với kết quả tốt.
Về kỹ thuật chuyển vạt da
Về lý thuyết chuyển vạt (3), tuy có 3 loại vạt: vạt
dồn đẩy, vạt xoay và vạt hoán vò nhưng có thể phân
các loại vạt trên thành 2 loại vạt có cuống:
- Vạt hình đảo : cho loại vạt VY
- Vạt có chân nuôi: cho vạt chữ U, vạt xoay và vạt
hoán vò.
Với tính co giãn tốt của da bìu mà có thể thực
hiện mổ một lần để chuyển da bìu lên che phủ
khuyết da ở dương vật ở các mức độ khác nhau. Các
vạt da xoay này đều có chân cuống nuôi rộng
(rộng/dài ≤ 1/2) nên đảm bảo cấp máu đủ cho phần
cuối của vạt, không gây hoại tử vạt. Các kỹ thuật trên
trình bày về nguyên tắc sử dụng vạt da bìu, tùy từng
trường hợp mà có những ứng dụng cụ thể. Trong
những năm đầu khi mổ chữa dò tật lỗ đái lệch thấp,
chúng tôi khá vất vả khi tính toán da che phủ mặt
bụng dương vật sau tạo hình niệu đạo và chỉ dùng
phần da bao qui đầu còn lại chuyển xuống che phủ
khuyết da. Những năm sau này, với kinh nghiệm sử
dụng vạt da bìu xoay lên, nên trong mổ tạo hình niệu
đạo, chúng tôi đã lấy kích thước tối đa mặt niêm mạc
và da bao qui đầu và cả da dương vật cho tạo niệu đạo
(ưu tiên tối đa sử dụng chất liệu tốt cho tạo niệu đạo),
do vậy chúng tôi đã dùng một vạt niêm mạc- da bao
qui đầu để tạo hình cả niệu đạo dương vật -bìu cho dò

tật lỗ tiểu lệch thấp ở 1/3 trước bìu. Sau tạo niệu đạo,
nếu thiếu da che phủ dương vật thì lấy da bìu chuyển
lên. Như vậy, chúng tôi có thể lấy được chất liệu tốt từ
da-niêm mạc bao qui đầu, da dương vật cho tạo niệu
đạo : không mọc lông, không có tuyến bã, mỏng, đàn
hồi dễ sống khi ghép, đồng thời lấy được vạt ghép với

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

357


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

kích thước lớn để tạo thêm một phần niệu đạo bìu,
thay vì cho phải dùng da tại bìu để tạo hình niệu đạo
bìu. Da bìu tuy có cấp máu tốt nhưng có tuyến bã và
có một tỷ lệ có mọc lông nên không phải chất liệu tốt
cho tạo hình niệu đạo nhưng lại là chất liệu tốt để che
phủ dương vật.
Trong trường hợp bệnh nhân không còn bao qui
đầu mà vẫn cần phải tạo hình niệu đạo dương vật thì
chúng tôi lấy vạt da có cuống mạch (vạt hình đảo) tại
thân dương vật (thường là lấy từ một sườn bên dương
vật) để tạo hình niệu đạo rồi chuyển dòch vạt tại da
dương vật hoặc chuyển vạt da bìu lên thay vào chỗ
khuyết da(1,2).
Còn trong cấp cứu, với trường hợp mất toàn bộ

da dương vật, chúng tôi mổ chuyển 2 vạt da bìu che
phủ toàn bộ thân dương vật một cách dễ dàng với kết
quả tốt.
Với dò tật lún dương vật, sau khi đã giải phóng
thân dương vật, làm dài dương vật, thường thiếu da
che phủ dương vật do ống da dương vật nhỏ, ngắn.
Đã có kỹ thuật mổ dùng bao qui đầu đưa xuống che
phủ thân dương vật như kỹ thuật của Lypzics(5).
Chúng tôi theo xu hướng bảo vệ nguyên bao qui đầu

358

nên đã chuyển da bìu lên che khuyết da dương vật.

KẾT LUẬN
Trong 3 năm, chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật
chuyển vạt từ da bìu lên để che phủ phần thiếu da
ở bụng dương vật khi mổ chữa dò tật lỗ tiểu lệch
thấp, lún dương vật, chấn thương mất da
dươngvật. Kỹ thuật mổ được thực hiện ở 32 bệnh
nhân với các mức độ thiếu da khác nhau. Kết quả
mổ tốt cho tất cả các bệnh nhân. Đây là một kỹ
thuật tốt nên được ứng dụng.
* Công trình làm tại Bệnh viện Việt - Đức

TÀI LIỆU THAM KHẢO
12-

3-


3-

5-

Trần ngọc Bích: Điều trò lỗ đái lệch thấp bằng phẫu
thuật một thì. Luận án Phó tiến sỹ y học. Hà nội 1988
Trần ngọc Bích, Nguyễn xuân Thụ.: Đánh giá kết quả
của các kỹ thuật mổ chữa dò tật lỗ đái lệch thấp. Tạp
chí Y học thực hành, 1995, 6: 14 - 15.
Nguyễn huy Phan, Nguyễn bắc Hùng, Nguyễn khắc
Giảng và CS.: Bài giảng phẫu thuật tạo hình. Trường
Đại học Y Hà nội. 1996.
Alter G, Horton CE.: Buried penis as a
contraindication for circumcision. J. Am. Coll. Surg.,
1994, 178: 487 - 490
Lypszycs E, Pfister Ch, Liard A, Mitrofanoff P : Surgical
treatment of Buried penis. Eru. J. Pediatr. Surg. 1997. 7: 292 –
295.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004



×