Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.56 KB, 7 trang )
sàng kỹ
càng và theo dõi sát sẽ giúp chúng ta phát hiện
sớm, kịp thời xử trí các ca tái shock(4).
-Có sự khác biệt rất lớn (p < 0,05) giữa sự
thay đổi hiệu số Hct với tái shock: khi tỷ số
Hct càng gần với Hct lúc vào shock (> 95% và
thậm chí tăng trở lại >100% so với Hct lúc
đầu), thì nguy cơ tái shock càng rõ rệt. Do vậy,
vai trò của Hct trong theo dõi, điều trị SXH là
rất quan trọng(3).
-Không ghi nhận sự khác biệt giữa số lượng
tiểu cầu, rối loạn khí máu động mạch với tái
shock (p > 0,05). Như vậy, số lượng tiểu cầu
không phải là yếu tố theo dõi tái shock cũng như
toan chuyển hóa hay toan hỗn hợp lúc ban đầu
không phải là yếu tố tiên lượng tái shock. Tuy
nhiên, vì số ca không làm khí máu nhiều 21 ca/40
ca tái shock nên cần có 1 nghiên cứu khác để xác
định mối liên quan này.
- Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa rối loạn
đông máu và tái shock: Taux de prothombin
càng thấp, INR càng cao, khả năng tái shock
càng dễ xảy ra, rối loạn đông máu càng nặng
nề hơn.
-Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <
0,05) trong tổng lượng dịch truyền/24 giờ đầu và
tổng lượng dịch cao phân tử/24 giờ đầu với tái
shock: khi có tái shock và tái shock càng nhiều
lần thì lượng dịch cũng như lượng cao phân tử
phải dùng nhiều hơn(1,2,6). Cũng ghi nhận được
trong lô nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt