Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhân một trường hợp siêu âm phát hiện catheter tĩnh mạch rốn vào nhĩ trái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.87 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Nghiên cứu Y học

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP SIÊU ÂM PHÁT HIỆN CATHETER
TĨNH MẠCH RỐN VÀO NHĨ TRÁI
Lê Cẩm Thạch*, Đỗ Thanh Thủy*, Nguyễn Hữu Chí*, Cam Ngọc Phượng*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhắc lại phôi thai tĩnh mạch rốn và tĩnh mạch cửa, các biến chứng và vai trò siêu âm trong việc
xác định vị trí đầu catheter và phát hiện các biến chứng.
Phương pháp: nghiên cứu lâm sàng, báo cáo một ca.
Kết quả: Trẻ sơ sinh non tháng, được đặt catheter tĩnh mạch rốn, tình cờ qua siêu âm tim kiểm tra phát hiện
đầu catheter nằm trong tâm nhĩ trái vào ngày thứ 5.
Kết luận: Catheter tĩnh mạch rốn là một thủ thuật thường được thực hiện ở khoa sơ sinh và săn sóc tăng
cường sơ sinh, nhằm thiết lập đường truyền, nhưng có thể có các biến chứng. Siêu âm có vai trò trong việc xác
định vị trí và phát hiện sớm các biến chứng. Nên siêu âm kiểm tra sau khi đặt catheter tĩnh mạch rốn như một
test thường qui.
Từ khoá: Catheter tĩnh mạch rốn, lạc chỗ, siêu âm.

ABSTRACT
DISPLACEMENT UMBILICAL VEIN CATHETER IN LEFT AUTRIUM
Le Cam Thach, Do Thanh Thuy, Nguyen Huu Chi, Cam Ngoc Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 162 - 165
Objectives: Review the embryology of umbilical and portal vein and the value of ultrasound in the detection
and follow-up of complications of umbilical vein catheterization.
Methods: Case report.
Results: Premature infant undergone umbilical vein catheterization and on ultrasound, we detected the tip
of the catheter in the left auricle.
Conclusions:Umbilical vein catheterization is a common procedure in neonatology, especially in neonatal
intensive care unit (NICU), in order to establish venous access. Ultrasound plays an important role in the


determination of its proper location as well as the early detection of its complications. Therefore, ultrasound after
this procedure should be performed as a routine test.
Keywords: Umbilical vein catheterization displacement, ultrasound.
chỗ…. Việc xác định, theo dõi các biến chứng và
ĐẶT VẤN ĐỀ
vị trí catheter chủ yếu dựa vào các phương tiện
Đặt catheter tĩnh mạch rốn là một thủ thuật
chẩn đoán hình ảnh. Nhân một trường hợp
thường được thực hiện ở các khoa sơ sinh hoặc
Catheter tĩnh mạch rốn lạc chỗ vào tâm nhĩ trái
săn sóc tăng cường sơ sinh (NICU), nhằm thiết
được phát hiện tình cờ qua siêu âm tim, chúng
lập đường truyền tĩnh mạch khẩn cấp để thay
tôi nhắc lại phôi thai tĩnh mạch rốn và vai trò
máu và tiếp cận tĩnh mạch trung tâm. Tuy nhiên,
siêu âm trong việc xác định vị trí và phát hiện
có thể có biến chứng huyết khối hoặc catheter lạc
các biến chứng.
* Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: BS. Lê Cẩm Thạch, ĐT: 0918333969, Email:

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010
CA LÂM SÀNG
Sơ sinh song thai, 1 ngày tuổi sinh non 29
tuần tuổi, cân nặng lúc sinh 1400gr, Apgar3/8,

nhập bệnh viện Nhi đồng 1 với chẩn đoán: Suy
hô hấp, sanh non/song thai I, bệnh màng
trong.Tình trạng lúc nhập viện niêm
hồng/NCPAP, chi ấm, mạch rõ, đỏ da toàn thân.
Mạch 144 lần/ph; Nhiệt độ 36ºC; Nhịp thở 48
lần/ph; Cân nặng 1,230gram. Cận lâm sàng
CTM, TPTNT, ion đồ, chức năng thận: bình

Nghiên cứu Y học

thường; Bilirubin gián tiếp tăng (4,16mg); CRP
0,1mg/l; Khí máu (FiO2 21%, Hb 12g/dl).
Bệnh nhi được đặt catheter TMR sau nhập
viện 20 giờ, catheter số 3,5F vào sâu 7,5cm.
Siêu âm tim kiểm tra vào N5, ghi nhận đầu tận
catheter nằm bắt từ tâm nhĩ (P) tâm nhĩ (T)
qua lỗ bầu dục. X Quang ngực-bụng: đầu tận
catheter lên trung thất, đến mức đốt sống ngực
11.

Hình 1: Đầu catheter từ nhĩ phải vô tâm nhĩ trái qua lổ Hình 2: Catheter qua ống tĩnh mạch vô tĩnh mạch chủ
bầu dục(->).
dưới vào tâm nhĩ phải.
là hợp lưu rốn cửa. Máu từ tĩnh mạch chủ dưới
BÀN LUẬN
đổ về tâm nhĩ phải lỗ bầu dục tâm nhĩ trái
Trong giai đoạn bào thai, một đôi tĩnh mạch
thất trái và luân chuyển vào 2 vòng tuần hoàn
noãn hoàng, vận chuyển máu từ túi noãn đến
(tuần hoàn hệ thống và tuần hoàn phổi). Ngay

xoang tĩnh mạch. Khoảng tuần thứ 4-5 giai đoạn
sau sinh, tĩnh mạch rốn và ống tĩnh mạch vẫn
phôi, có ba thông nối tĩnh mạch giữa các tĩnh
còn mở và sẽ đóng lại sau đó một thời gian và để
mạch noãn hoàng (Hình 3a). Từ lúc tạo thông
lại di tích là dây chằng tròn và dây chằng tĩnh
nối, cho đến tháng thứ ba, có sự thoái triển có
mạch. Trên siêu âm, ở trẻ đủ tháng, các ống tĩnh
chọn lọc các mạng lưới tĩnh mạch, sau cùng hình
mạch này thường đóng trong vòng một tuần,
thành tĩnh mạch cửa. Phần đuôi của tĩnh mạch
nhưng ở trẻ sinh non dưới 33 tuần, thường
noãn hoàng bên phải và phần đầu tĩnh mạch
khoảng ngày thứ 6-14(1). Điều này giải thích lộ
noãn hoàng bên trái, tiếp tục bít tắc, có sự thông
trình catheter tĩnh mạch rốn của bệnh nhi chúng
nối giữa tĩnh mạch rốn với hệ thống tĩnh mạch
tôi, catheter qua tĩnh mạch rốn vào ống tĩnh
noãn hoàng (Hình 3b). Có sự thoái triển tĩnh
mạch tâm nhĩ (P), qua lỗ bầu dục tâm nhĩ
mạch rốn phải, trong khi tĩnh mạch rốn trái vẫn
(T), theo tuần hoàn phôi thai.
còn thông thương với ống tĩnh mạch và nhánh
trái tĩnh mạch cửa, vị trí thông nối này được gọi

2Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010


Nghiên cứu Y học

Hình 3: Các giai đoạn phôi thai tạo lập tĩnh mạch rốn và hệ tĩnh mạch cửa
ảnh, như chụp XQuang bụng ngực, cho thấy vị
Đặt catheter tĩnh mạch rốn là một thủ thuật
trí đầu tận catheter tương ứng đốt sống ngực D9,
cấp cứu thường được thực hiện trên trẻ sơ sinh
D10. Tuy nhiên, X Quang có thể nhiễm tia X
(khi tĩnh mạch rốn chưa bít hoặc mới rụng 1-2
cũng như không khảo sát được huyết khối. Siêu
ngày), nhằm thiết lập đường truyền tĩnh mạch
âm, là phương tiện dễ dàng thực hiện, không
khẩn cấp, thay máu và tiếp cận tĩnh mạch trung
nhiễm tia X vừa kiểm tra vị trí catheter vừa theo
tâm (nuôi ăn TMTW, theo dõi CVP). Tuy nhiên,
dõi biến chứng sớm và lâu dài, trong đó huyết
có thể có biến chứng nhiễm trùng huyết, huyết
khối tĩnh mạch cửa là một biến chứng thường
khối (17- 44%)(4,3): gây huyết tắc ở tĩnh mạch cửa
xảy ra.
về lâu dài gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa,
cavernoma rốn gan, huyết khối gây thuyên tắc
Siêu âm Doppler màu có khả năng tầm soát
phổi, não, chi…; hoặc sai vị trí catheter vào tim
và theo dõi huyết khối tĩnh mạch cửa, là một
và mạch máu lớn gây tràn máu màng tim, chẹn
trong những biến chứng thường xảy ra sau khi
tim, rối loạn nhịp tim, viêm nội tâm mạc; sai vị
đặt catheter, với độ nhạy 81% và độ đặc hiệu
trí catheter vào hệ thống cửa: viêm ruột hoại tử,

93%(5), việc phát hiện sớm huyết khối tĩnh mạch
thủng ruột, hoại tử gan, nang gan; và các biến
cửa nhằm có chiến lược điều trị và hướng theo
chứng khác như thủng phúc mạc, tắc nghẽn tĩnh
dõi thích hợp để tránh biến chứng tăng áp lực
mạch phổi về tim.
tĩnh mạch cửa.
Kiểm tra vị trí catheter TMR có thể được
thực hiện bằng các phương tiện chẩn đoán hình

Hình 4. Huyết khối tĩnh mạch cửa.

Hình 5: Cavernoma quanh tĩnh mạch cửa

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010
KẾT LUẬN
Catheter tĩnh mạch rốn là một thủ thuật
thường được thực hiện ở trẻ sơ sinh nhưng có
thể có các biến chứng. Việc kiểm tra đầu tận
catheter và phát hiện sớm biến chứng là cần
thiết. Siêu âm, là phương tiện hữu ích đáp ứng
được yêu cầu trên sau khi đặt catheter. Nên siêu
âm kiểm tra sau khi đặt catheter tĩnh mạch rốn
như một test thường qui.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

CornessJAG, McHughK,. Derek J. Roebuck. Andrew M.
Taylor (2006), The portal vein in children: radiological review
of congenital, anomalies and acquiredch abnormalities,
Pediatr Radiol 36: 87–96
Junker P, Egeblad M, Nielsen O, Kamper J (1976). Umbilical
vein catheterization and portal hypertension. Acta Pediatr
Scand; 65:499-504.
Morag I, Epelman M, Daneman A, Moineddin R, Parvez B,
Shechter T, Hellmann J (2006) Abstract: Portal vein
thrombosis in the neonate: risk factors, course, and outcome. J
Pediatr.,148(6)p735-9.
Sakha SH, Rafeey M, Tarzamani MK (2007) Abstract:Portal
venous thrombosis after umbilical vein catheterization. Indian
J Gastroenterol., 26(6):283-4.
WebsterG.J.M., Burroughs A.K.(2005), Review article: portal
vein thrombosis – new insights into aetiology and
management, Aliment Pharmacol Ther 21, 1–9.

4Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010


Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

Nghiên cứu Y học

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010

6Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010

Nghiên cứu Y học



×