Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Biến chứng xì rò và tử vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày tá tràng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.21 KB, 8 trang )

BIẾN CHỨNG XÌ RÒ VÀ TỬ VONG
SAU PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BỆNH DẠ DÀY TÁ TRÀNG
Phan Đương* Phùng Tấn Cường*, Tôn Thất Bửu*, Phạm Kim Hiếu*, Lê Hoàng Anh*,
Huỳnh Thanh Hiệp*, Nguyễn Dũng*, Trần Thị Mai Linh*, Trần Tuấn*, Đinh Văn Tuyến*,
Dương Hồng Đệ*, Nguyễn Hữu Toản*.

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rò ống tiêu hoá trên (ROTH) là một biến chứng nặng sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá
tràng, việc điều trị rò tiêu hóa gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu này nhằm phân tích các biến chứng xì rò và tử
vong sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: phương pháp hồi cứu và phân tích số liệu bệnh nhân rò tiêu hóa
sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày-tá tràng; đã được điều trị tại khoa ngoại tiêu hoá bệnh viện Chợ Rẫy từ 12005 đến 12-2007.
Kết quả: 24 ca ROTH, gồm 20 nam và 4 nữ, tuổi trung bình là 56 ± 1,44, trong đó mổ chương trình có 8
BN (33,3%) và mổ cấp cưú 16BN (66,67%).với các thương tổn: Rò từ miệng nối vị tràng 6 ca, rò mõm tá tràng
6 ca, rò từ chỗ mở thông dạ dày 2 ca, bục chỗ khâu ổ loét dạ dày-tá tràng 10 ca. Tử vong 8 ca (33,33%).

ABSTRACT
POSTOPERATIVE GASTRO-DUODENAL FISTULA
AND MORTALITY IN GASTRO-DUODENAL DISEASE
Phan Duong, Phung Tan Cuong, Ton That Buu, Pham Kim Hieu, Le Hoang Anh, Huynh Thanh Hiep,
Nguyen Dung, Tran Thi Mai Linh, Tran Tuan, Dinh Van Tuyen, Duong Hong De, Nguyen Huu Toan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 3 - 2008: 62 – 67
Background: Post-operative gastro-duodenal fistula is a severe complication, treatment for this is difficult.
The study aimed at evaluting the complication of fistula and mortality of the posoperative gasto-duodenal.
Methods: Retrospective and analytic study. All patients with post-operative gastro-duodenal fistula in
gastro-duodenal disease in the department of digestive surgery, Chợ Rẫy hospital were included during 1/2005 –
12/2007.
Results: There were 24 patients with post-operative fistula, 20 men and 4 women, mean age is 56 ± 1.44.
The operation of program: 5 patients and 19 patients of operative urgent. There are 6 patients of gastroenterotomie anastomose fistula, 6 duodenals leakages, 2 fistulas after gastrostomy, 10 fistulas after the operative of
gastro-duodenal perforation. Mortality 33.33%.
cơ thể, qua con đường thông thương này dịch


Rò ống tiêu hóa trên (ROTH) là một biến
tiêu hóa qua lại, và có thể tồn tại trên con đường
chứng không hiếm sau các phẫu thuật điều trị
đó những ổ nhiễm khuẩn. Tùy loại rò, tùy lượng
bệnh lý của dạ dày tá tràng. Biến chứng này có
dịch rò, bệnh có thể gây ra những hậu quả trầm
khi đơn giản trong điều trị, song cũng lắm lúc đễ
trọng, đe dọa sinh mạng người bệnh, tăng chi
lại hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong.
phí điều trị, giảm chất lượng sống của không ít
Rò ống tiêu hóa là sự nối liền hai bề mặt biểu
bệnh nhân (BN).
mô, thuộc hai tạng của ống tiêu hóa, hoặc giữa
một tạng của ống tiêu hóa với một khoang trong

ROTH đã được nhận biết từ lâu, việc điều trị

* Khoa Ngoại tiêu hóa bệnh viện Chợ Rẫy

Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ

1


cũng được rất nhiều người quan tâm, nhưng
phải đến những năm 1960 của thế kỷ trước,
người ta mới hoạch định được một chiến lược
điều trị dựa trên hai suy đoán: Thứ nhất, với
những hiểu biết còn hạn chế về sinh lý bệnh học,
người ta giả định ROTH tương tự như thủng tá

tràng hoặc thủng ruột do chấn thương, nên điều
trị trước hết bằng phẫu thuật với hy vọng đạt
được kết quả như khi giải quyết thủng tá tràng,
thủng ruột.Thứ hai, người ta tin rằng, chỉ có
đóng kín lỗ rò bằng phẫu thuật mới có thể kiểm
soát chặt chẽ và đầy đủ nhiễm khuẩn và tình
trạng suy dinh dưỡng kèm theo thường gặp ở
người bệnh ROTH.
Gần đây chiến lược này đã phá sản vì có tới
80% những trường hợp phẫu thuật sớm đã thất
bại, tỷ lệ tử vong đạt tới con số kỷ lục từ 40%
đến 60% các trường hợp ROTH. Từ những năm
1970, người ta đã lựa chọn một chiến lược khác,
đảo ngược hoàn toàn chiến lược ban đầu, tận
dụng triệt để liệu pháp dinh dưỡng, kiểm soát
chặt chẽ tình trạng nhiễm khuẩn, tạo thuận lợi
cho việc đóng kín lỗ rò theo cơ chế tự bổ khuyết
cuả cơ thể, và chỉ cho phép phẫu thuật khi các
giải pháp điều trị bảo tồn nói trên đã thất bại,
hoặc khi xuất hiện các biến chứng có nguy cơ
đến mạng sống. Nhờ vậy đã giảm đáng kể tỷ lệ
tử vong, nâng cao dần chất lượng sống cho
người bệnh.
Điều trị bệnh vốn đòi hỏi sự hợp tác của
nhiều lĩnh vực, điều trị ROTH càng cần có điều
kiện tiên quyết đó để có được một đội ngũ đồng
thuận gồm nhiều chuyên gia của các lĩnh vực
như hồi sức nội khoa, dinh dưỡng lâm sàng,
điều dưỡng và nhà phẫu thuật. Với mong muốn
như vậy, chúng tôi xem xét lại những vấn đề

thực tế qua 24 trường hợp ROTH, nhấn mạnh
những lợi ích và vị trí của những giải pháp kỹ
thuật trong việc điều trị ROTH để đạt tới những
thành quả mong đợi.

Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích biến chứng và tử vong do ROTH
sau phẫu thuật điều trị bệnh dạ dày – tá tràng.

ĐỐiTƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU
Hồi cứu các trường hợp ROTH sau phẫu
thuật can thiệp những bệnh lý của dạ dày tá
tràng, từ 1-2005 đến 12-2007 tại khoa ngoại tiêu
hóa BV CHỢ RẪY.

KẾT QUẢ
24 trường hợp ROTH được hồi cưú, gồm 20
nam và 4 nữ, tuổi trung bình là 56 ± 1,44 trong
đó trên 50 tuổi có 19 BN, và từ 20 đến 50 tuổi có
5 BN, thấp nhất là19, cao nhất là 89 tuổi, trong
đó mổ chương trình có 5 BN (20,83%) và mổ cấp
cưú 19BN (79,17%). Với các thương tổn:
Vị trí xì rò
Miệng nối vị tràng
Mõm tá tràng
Chỗ mở thông dạ dày
Bục chỗ khâu ổ loét DD-TT

Số ca
6

6
2
10

Thủ thuật và phẫu thuật điều trỊ rò
Cắt ½ dưới dạ dày + mở hổng tràng nuôi ăn
Cắt ½ dưới dạ dày + nôí vị tràng theo kiểu
ROUX-En – Y + mở hổng tràng nuôi ăn
Cắt lọc và khâu lại mõm tá tràng + nối quai
đến, quai đi hổng tràng.
Đặt ống giảm áp qua mõm tá tràng + khâu
mõm TT + mở hổng tràng nuôi ăn
Khâu chỗ mở dạ dày + mở hổng tràng nuôi
ăn
Nối tá tràng –hổng tràng (Roux-en-Y) + dẫn
lưu hổng tràng giảm áp + mở hổng tràng
nuôi ăn
Khâu lại chỗ thủng DD-TT + mở hổng tràng
nuôi ăn
Cắt lọc & khâu miệng nối vị tràng + mở hổng
tràng nuôi ăn
Đặt Tube Levin vào quai đi hổng tràng nuôi
ăn, qua miệng nối vị tràng
Điều trị nội đơn thuần
Protide máu
< 4g / 1litre
< 5g / 1litre
< 6g / 1 litre
< 7g / 1litre
Hồng cầu

3
< 2 Triệu / 1mm
3
< 3 Triệu / 1mm
3
< 4 Triệu / 1mm
3
< 5 Triệu / 1mm

Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ
2

Tỷ lệ %
25,00
25,00
08,33
41,67

Số ca Tỷ lệ %
4

16,67

1

4,16

1

4,16


4

16,67

2

8,33

1

4,16

3

12,50

4

16,67

1

4,16

3

12,50

Số ca

10
06
06
02

Tỷ lệ%
41,67
25,00
25,00
08,33

Số ca Tỷ lệ %
10 41,67
07 29,17
06 25,00
01 04,16


Mổ theo
Chương trình
Cấp cưu

Số ca Tỷ lệ %
08
33,3
16
66,7

Kết quả
Khỏi bệnh, xuất viện

Tử vong

Số ca Tỷ lệ %
16 66,67
8
33,33

BÀNLUẬN
Thể trạng BN
Trong 24 ca ROTH, có 41,67% BN có Hct
dưới 20% và 29,17% BN có Hct dưới 30%, tổng
số BN có Hct dưới 30% chiếm đến 70,84%. Như
vậy trong nhóm ROTH hơn 70% có thể trạng
kém, chính yếu tố thể trạng của BN đóng vai trò
quan trọng trong sự liền vết thương. Nếu dựa
vào yếu tố đạm máu, ta thấy 66,67% BN có
protide máu < 5g/l. Ngoài ra 66,7% BN được mổ
cấp cứu, do đó việc bồi phụ đạm máu thường
không đủ. Trong những trường hợp có yếu tố
thể trạng kém, trước mổ chưa bù đủ thì sau mổ
nên bù ngay đạm, dung dịch mở và đường.
Công việc bù đạm trong những ngày sau mổ,
khi mà chức năng gan còn yếu, việc tổng hợp
protéine chưa hoàn chỉnh, việc bù đạm trong lúc
này tốt nhất là Albumin.
Trong 8 trường hợp tử vong sau khi mổ lại
ROTH, có 1 trường hợp chết sau khi vào viện
chưa kịp can thiệp lại, 2 ca sốc không hồi phục
sau mổ do viêm phúc mạc đến muộn, nhiễm
trùng nhiễm độc nặng, 5 ca khác ngoài các yếu tố

cơ điạ gầy yếu, còn có yếu tố tuổi tác, các trường
hợp này có độ tuổi trung bình là 65 (cá biệt có 1
ca 89 tuổi).
Nhận xét qua 8 ca tử vong chúng tôi thấy
các yếu tố: Thể trạng kém + tuổi cao + viêm
phúc mạc đến muộn là những yếu tố thuận lợi
cho tử vong.

Phẫu thuật điều trị
Trong 24 ca ROTH có 8 ca mổ theo chương
trình chiếm tỷ lệ 33,3%, trong đó có 2 ca mở thông
dạ dày nuôi ăn, 2 ca này có đạm máu > 5g/l, cả 2 ca
đều do các PTV trẻ mổ. Có lẽ cả 2 ca này ROTH do
lỗi kỹ thuật hơn là do yếu tố thể trạng.

Trong 8 ca tử vong do ROTH, có 2 ca đã cắt
dạ dày, BN chết vào ngày thứ 5 và 6 vì ROTH,
chết trong bệnh cảnh nhiễm trùng nhiễm độc.
Trong khi đó 16 ca điều trị ROTH thành công và
xuất viện, nhận xét của cuả chúng tôi là đa phần
những trường hợp này có can thiệp phẫu thuật
đơn giản, thơì gian mổ ngắn (dưới 100 phút), có
trường hợp dù mổ đến 5 lần, lần thứ 5 chỉ can
thiệp rò tá tràng bằng dẫn lưu giảm áp qua mõm
tá tràng + khâu kín mõm tá tràng, kết hợp với
hồi sức hỗ trợ và nuôi ăn sớm qua sonde hổng
tràng, BN đã ra viện sau 39 ngày điều trị.
Vấn đề can thiệp lại ROTH, cần chỉ định đúng
và kịp thời, làm thế nào không quá sớm mà cũng
không quá muộn. Khi BN bị ROTH có biến chứng

viêm phúc mạc toàn thể, hoặc đó là một rò tận thì
sự can thiệp phẫu thuật cần phải được thực hiện
ngay, những trường hợp khác của ROTH đều cần
cẩn trọng khi chỉ định can thiệp lại, tốt nhất trong
những trường hợp này là hồi sức hỗ trợ và kéo dãn
thời gian điều trị nội bảo tồn càng dài càng tốt. Một
báo cáo nghiên cứu về thơì điểm mổ lại, người ta
khuyên nên can thiệp lần sau cách lần trước càng
xa càng tốt, ít nhất cũng phải trên 6 đến 8 tuần sau
lần mổ trước (loại trừ những trường hợp có chỉ
định can thiệp lại cấp cứu), vì khi đó các mô quanh
chỗ rò sẽ bớt viêm và giảm phù nề, khi mà các vi
mạch của cơ quan rò đã tái lập tưới máu trở lại với
cung lượng cao nhất, giúp sự liền vết thương tốt
hơn.
Vấn đề can thiệp phẫu thuật lại ROTH, ngoài
vấn đề chọn thời điểm tốt nhất để can thiệp lại.
Phẫu thuật viên cần phải có kinh nghiệm, thao tác
nhẹ nhàng, tránh can thiệp thô bạo và nhất là
chọn chiến lược can thiệp đơn giản nhưng có hiệu
qủa cao nhất, không nhất thiết phải cầu toàn và
triệt để, phẫu thuật phải đảm bảo một nguyên tắc
chung là: Giảm áp lực tối đa trong lòng cơ quan bị rò
+ giảm cung lượng dịch đi qua chỗ rò bằng cách dẫn
lưu tốt và hút liên tục với áp lực nhẹ sau mổ (p <
10Cm H2O). Một vấn đề khác cần lưu ý là việc
dùng chỉ trong phẫu thuật, trong 24 ca ROTH đa
phần (>80%), các phẫu thuật viên dùng chỉ không
thích hợp với các mô của cơ quan rò, dùng chỉ


Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ

3


quá to (chỉ Soie số 1,2) để đóng mõm tá tràng làm
tổn thương mô tá tràng, hoặc dùng chỉ quá nhỏ
gây xé mô sượng của ổ loét xơ chai dạ dày – tá
tràng. Kinh nghiệm của chúng tôi, những ca can
thiệp lại nên khâu nối những chỗ có mô sượng và
có sức căng ít thì nên dùng chỉ nhỏ, đơn sợi
(monofil) tiêu chậm 4.0, ngược lại những nơi có
sức căng lớn khi khâu nối hoặc dễ xé rách bấy giờ
nên dùng chỉ đơn sợi tan chậm có đường kính lớn
(chỉ 1.0 - 2.0).

Điều trị nội khoa bảo tồn
Điều trị nội bảo tồn ROTH là điều chỉnh rối
loạn dinh dưỡng, rối loạn điện giải và cân bằng
kiềm toan cùng tình trạng nhiễm trùng là
nguyên nhân chính làm nặng thêm bệnh, tăng tỉ
lệ tử vong. Tuy quan hệ của những rối loạn này
là mối quan hệ nhân quả, nhưng người ta dễ
nhận thấy 50-90% bệnh nhân ROTH có những
biểu hiện suy dinh dưỡng Protein-năng lượng
(PCM)(6), và hậu quả tất yếu là gia tăng tình
trạng nhiễm trùng, hoặc tạo điều kiện nảy sinh
nhiễm trùng, và cũng chính vì nhiễm trùng,
những rối loạn về dinh dưỡng, điện giải,
vitamin, khoáng chất, các yếu tố vi lượng càng

trầm trọng hơn.
Điều trị bảo tồn là điều trị toàn diện, trước
hết là dùng những phương sách để phục hồi
dinh dưỡng(bao gồm phục hồi nước, điện giải,
cân bằng toan kiềm và cung cấp đầy đủ năng
lượng, protein, các vitamin, các yếu tố vi
lượng, nuôi ăn sớm qua sonde…), tích cực
phòng và chống nhiễm trùng tại chỗ cũng như
nhiễm trùng toàn thân, phẫu thuật khi những
phương sách này thất bại, hoặc nảy sinh
những biến chứng.

rò(>500ml/24 giờ), nhất là rò đường tiên hóa
trên, cơ thể sẽ mất nước ưu trương (mất nước
trong tế bào), mất nhiều Protein (>75g/ngày),
Potassium, Bicarbonate, Sodium và nhiễm toan
chuyển hóa…trong hồi sức, nhiều khi phải
truyền máu vì người bệnh dễ bị thiếu máu do
giảm hồng cầu lưới, nhất là những bệnh nhân có
bệnh mãn tính ở đường tiêu hóa.
* Hai là - Suy dinh dưỡng Protein-năng
kượng còn do lượng thức ăn đưa vào không đủ,
hoặc do người bệnh phải nhịn ăn lâu ngày sau
phẫu thuật (vì cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân đều
sợ xì, rò, bục chỗ nối, chỗ khâu…),hoặc khi nuôi
ăn không được tính toán chính xác, hay do
những hạn chế về hoàn cảnh kinh tế của người
bệnh, sự thiếu thốn kinh phí của bệnh viện, hoặc
bệnh nhân không còn cảm giác thèm ăn hay
không có khả năng hấp thu…chưa nói đến nhiều

bệnh nhân đã sẵn có suy dinh dưỡng ngay từ
khi đến bệnh viện.
* Ba là - suy dinh dưỡng Protein-năng
lượng do tăng dị hóa vì tình trạng nhiễm trùng
do hầu hết người bệnh ROTH bị nhiễm trùng
tại chỗ hoặc nhiễm trùng toàn thân. Dịch rò
càng nhiều, khả năng nhiễm trùng càng tăng,
quá trình dị hóa càng mạnh, suy dinh dưỡng
càng trầm trọng hơn.

Nuôi ăn qua ống tiêu hoá sớm

Trước hết nói về rối loạn dinh dưỡng; có 3
yếu tố gây nên suy dinh dưỡng protein-năng
lượng ở những người ROTH:

- Việc nuôi ăn sớm qua đường tiêu hoá, được
trung tâm hồi sức CLAUDE – BERNARD của
Pháp cổ vũ từ thập niên 90 của thế kỹ trước. Khi
nuôi dưỡng sớm, đuờng tiêu hóa sẽ tái lập nhu
động, quan trọng hơn là khi có tiếp xúc thức ăn
với niêm mạc ống tiêu hoá, tuyến nước bọt và tá
tràng tiết ra EGF (Epithelium Growth Factor),
yếu tố này làm sự liền vết thương được chóng
hơn nhất là việc mọc niêm mạc đường tiêu hoá
sẽ nhanh và mạnh.

* Một là do mất dịch tiêu hóa, hỗn hợp giàu
Protein, các điện giải quan trọng(Potassium,
Sodium, Magnesium, Chlorid, Bicarbonate..) các

vitamin (B12, Folic acid…) những yếu tố vi
lượng (kẽm, đồng, sắt…) và những thành phần
khác. Mất một lượng lớn dịch qua lỗ

- Kích thích tiết EGF: Khi vì một lý do nào
mà không thể cho BN ăn qua đường miệng,
việc kích thích tiết EGF sẽ được thực hiện bằng
cách cho BN nhai kẹo cao su, việc nhai kẹo sẽ
giúp tuyến nước bọt ở dưới lưởi và mang tai
tiết ra EGF, nếu thức ăn hoặc dịch nước miếng

Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ
4


qua được tá tràng thì sự tiết EGF từ tá tràng sẽ
nhiều hơn.
- Thức ăn dùng để truyền qua ống thông
hổng tràng thường được bắt đầu bằng dung
dịch đẳng trương, hoặc một hỗn hợp Amino
acid + đường đơn + Monoglyceride (Vivonex).
Một kinh nghiệm của chúng tôi, trong những
trường hợp BN không đủ khả năng tài chính, thì
có thể dùng cháo gồm: gạo nấu với tép + các loại
rau củ, hỗn hợp này xay và hoà lỏng nhỏ giọt
qua ống mở thông hổng tràng hoặc qua ống tube
Levin (được nội soi và đưa vào quai đi cuả chỗ
nối vị tràng, nếu BN chưa có mở hổng tràng
nuôi ăn).
Thời điểm nuôi ăn qua sone: chúng tôi thực

hiện ngay sau khi có tái lập nhu động ruột,
thường thì ngày thứ 2-3 sau mổ.
Chống tiết acide + giảm cung lượng dịch
tiết dạ dày, mật và dịch tụy
Dịch rò mang theo những mất mát lớn về
Protein, điện giải, các dưỡng chất khác, trong đó
có các Enzyne tiêu hoá, mà phần lớn các Enzyne
này đều có tính ăn mòn. Do vậy kiểm soát và
làm giảm lượng dịch rò phải được quan tâm
thích đáng.
Năm 1979, Klempa và cộng sự đã chứng
minh vai trò ức chế bài tiết dịnh tiêu hoá, ức chế
cả tụy nội và tụy ngoại, làm giảm dòng máu đến
tụy, giảm khả năng vận động của ruột, dạ dày
và làm rỗng túi mật của Somatostatin, 1 Peptid
Amino acid-14. Nhiều nghiên cứu đã chứng
minh rằng Somatostatin kết hợp với TPN (Total
parenteral Nutrition) đã làm tăng tốc độ đóng
kín tự phát lỗ rò và giảm một cách có ý nghĩa
thời gian sử dụng TPN (13.9 ± 1.84 ngày so với
20.4 ± 2.98 ngày nếu TPN đơn thuần, P < 0.05).
Nghiên cứu trên 37 bệnh nhân được điều trị với
TPN và Somatostatin -14, Di Costanzo và cộng
sự đã phát hiện 68% bệnh nhân đáp ứng điều trị
sau ngày đầu tiên, không phụ thuộc thời gian
hoặc vị trí rò. Octreotide, 1 Octapeptid tổng hợp
tương tự Somatostatin-14 cũng có tác dụng điều
trị, nhưng các kết quả chưa thực sự có ý nghĩa vì
hầu hết các công trình này thực hiện trên số ít


đối tượng, hoặc do bệnh nhân rò ở các vị trí khác
nhau, thời điểm kết thúc lâm sàng khác nhau
được chọn để xác minh sự đáp ứng điều trị làm
cho khó có thể so sánh.
Ngoài ra một số thuốc chống Anti-H2, bảo
vệ niêm mạc dạ dày, thuốc chống dị hóa… đem
lại nhiều lợi ích ngoài mong đợi, như Reber và
cộng sự cho biết rằng: chỉ cần Anti-H2 tiêm tỉnh
mạch đã làm giảm lưu lượng rò tá tràng từ
800ml xuống còn 300ml/ngày. Kinh nghiệm của
chúng tôi là việc sử dụng Durabolin liều cao,
giúp giảm lượng dịch rò một cách ngoạn mục,
một khi BN không có khả năng dùng
Somatostatin-14. Nếu cùng một lúc dùng cả
Anti-H2 + Somatostatin-14 + Durabolin thì hiệu
quả giảm cung lượng ROTH rất tốt.

KẾT LUẬN
Điều trị bệnh vốn đòi hỏi sự hợp tác của
nhiều lĩnh vực, điều trị ROTH càng cần có điều
kiện tiên quyết đó, để có được một đội ngũ đồng
thuận gồm nhiều chuyên gia của các lĩnh vực
như hồi sức nội khoa, dinh dưỡng lâm sàng,
điều dưỡng và nhà phẫu thuật.
Việc điều trị ROTH cần có chỉ định đúng lúc,
không nên nóng vội song cũng không để quá
muộn, khi đã có biến chứng viêm phúc mạc toàn
thể hoặc chảy máu kèm theo ROTH thì chỉ định
can thiệp cấp cứu là cần thiết. Điều trị phẫu
thuật cần chọn chiến lược đơn giản, đủ đảm bảo

sự lành vết thương tốt nhất với áp lực trong lòng
ống tiêu hoá thấp nhất, không nhất thiết phải
cầu toàn. Cần chọn chỉ khâu nối thích hợp cho
từng loại mô và sức căng của chỗ khâu nối. Nên
luôn kèm mở hổng tràng ra da để nuôi ăn sớm
sau mổ. Cuối cùng là việc chăm sóc và nuôi
dưỡng qua đường tỉnh mạch cần đảm bảo đủ
mở + đạm + đường và các chất vi lượng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

2

Domdrowski SR, Mirtallo JM-Drug therapy and nutritional
management of patients with gastrointestinal fistulas Clin
Pharm. 1984 May- Jun;3 (3):264-72.
Donner CS. Pathophysiology and Therapy of chromic
radiation – induced injury to the colon. Dig Dis 1998; 16:25361(Medline).

Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ

5


3
4

5
6

7

8
9
10

11

12

Fischer JE.The pathophysiology of enterocutaneous fistulas.
World j Sung 1983;7:446-50(Medline).
Fukuchi S, Bankhead R, Rolando H, Rollandelli. Parentreal
Nutrition in short Bowel Syndrome, p 282-303. Third Edition,
2001.
Galland RB, Spencer J. Radiation – induced gastrointestinal
fistulae.Ann R Coll Surg Eng/1986; 68:5-7(Medline).
Gonzales IPinto and Gonzales E M. Optimising the treatment
of upper gastrointestinal fistulae-Gut online.
Huan-Long Qin, Zhen-Dong Su, Yang Zou, You -Ben FanEffect of Parenteral and enteral nutrition combined with
octreotide on pancreatic exocrine secretion of patients with
pancreatic fictila.World journal of Gastroenterology 2004
August 15; 10 (16): 2419-2422.
Li J et al.Management of enterocutaneous fistulas: 30-year
Clinical Experience.Chin Med J 2003; 116(2):171-175.
Reber H, Roberts C, Way L, et al: Management of
gastrointestinal Fistulas. Ann Surg, 188: p 460-465, 1978.
Rose D, Yarborough M F, Canizaro P C, et al: One hundred
and fourteen fistulas of gastrointestinal tract treated with total
parenteral nutrition, Surg gynecol Obstet.163: p345 -350, 1986.

Tarik ZN. et al: Factors affecting healing of enterocutaneous
fistulas. The Turkish Journal of gastroenterology 2000, vol. 11,
No.3.
Wang HT.. Sax HC.. Total Parenteral Nutrition: Effects on the
small intestine, p 353-365, Third Edition. 2001

Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ
6


Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ

7


Chuyên
Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ
8



×