Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kết quả sàng lọc và định danh kháng thể bất thường ở bệnh nhân truyền khối hồng cầu tại Bệnh viện Đa khoa tư Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.19 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ SÀNG LỌC VÀ ĐỊNH DANH KHÁNG THỂ BẤT THƯỜNG  
Ở BỆNH NHÂN TRUYỀN KHỐI HỒNG CẦU  
TẠI BỆNH VIỆN ĐKTƯ THÁI NGUYÊN  
Nguyễn Kiều Giang*, Cao Minh Phương**  

TÓM TẮT 
Sàng lọc kháng thể bất thường cho bệnh nhân được truyền máu, đặc biệt bệnh nhân đã truyền máu nhiều 
lần là rất cần thiết để đảm bảo an toàn về mặt miễn dịch cho bệnh nhân.  
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ kháng thể bất thường ở bệnh nhân được truyền máu và một số yếu tố liên quan. 
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: bệnh nhân được truyền khối hồng cầu tại Bệnh viện đa khoa trung 
ương Thái Nguyên, từ tháng 5‐10/2012, nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Kết luận: Tỷ lệ kháng thể bất thường ở bệnh được truyền máu là 3,79%. Tỷ lệ kháng thể bất thường có liên 
quan đến số lần truyền máu. Các trường hợp được định danh kháng thể có anti C, anti c, anti e và anti M. 
Từ khóa: Kháng thể bất thường 

ABSTRACT 
RESULT OF SCREENING AND IDENTIFYING IRREGULAR ANTIBODIES IN PATIENTS RECEIVED 
PACKED RED BLOOD CELLS AT THE THAI NGUYEN NATIONAL GENERAL HOSPITAL 
Nguyen Kieu Giang, Cao Minh Phuong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5  ‐ 2013: 49 ‐ 53 
Screening of irregular antibody in patients receiving blood transfusion, particularly patients with multiple 
blood transfusions is necessary to ensure patients’ safety. 
Objectives:  To identify the percentage of irregular antibodies in patients receiving blood transfusions and 
several related factors. 
Subjects  and  Research  method: patients transfused with packed RBCs at the Thai Nguyen hematology 
and blood transfusion, from 5‐10/2012; cross‐sectional descriptive method. 
Conclusions:  The rate of irregular antibodies in patients receiving bloods is 3.79%.  The rate of irregular 


antibodies has been founded related to that of multiple blood transfusions. Identified antibodies were anti C, anti 
c, anti e and anti M. 
Key word: Irregular antibodies 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Máu  rất  quan  trọng  và  cần  thiết  cho  sự 
sống,  nhờ  có  máu  mà  nhiều  người  bệnh  đã 
được cứu sống, nhưng truyền máu cũng có thể 
gây  ra  những  tai  biến  nghiêm  trọng  nếu  các 
nguyên tắc về an toàn truyền máu không được 
tôn trọng. Sự phát hiện ra nhóm máu hệ ABO, 

Rh  và  các  hệ  nhóm  máu  hồng  cầu  khác  đã 
giúp cho việc truyền máu hiệu quả và an toàn 
hơn. Tại các nước tiên tiến an toàn truyền máu 
đã  được  thực  hiện  một  cách  triệt  để  hoà  hợp 
về  nhóm  máu  hệ  ABO,  Rh,  và  một  số  nhóm 
máu  khác,  sàng  lọc  kháng  thể  bất  thường 
(KTBT)  đã  được  thực  hiện(14,3,5,2,7,11).  Trong  khi 
đó  tại  nước  ta  việc  thực  hiện  an  toàn  truyền 

* Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, ** Trung tâm huyết học truyền máu Thái Nguyên 
Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Kiều Giang, ĐT: 0983171276, Email:  

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 

49


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013


Nghiên cứu Y học 
máu  về  mặt  miễn  dịch  còn  hạn  chế,  chúng  ta 
mới  chỉ  định  nhóm  máu  hệ  ABO,  làm  phản 
ứng  chéo  ở  điều  kiện  nhiệt  độ  phòng  thí 
nghiệm,  do  vậy  việc  không  phát  hiện  kháng 
thể bất thường ở những  bệnh  nhân  đã  truyền 
máu nhiều lần là khó tránh khỏi(1,4,3). Việc tiến 
hành sàng lọc kháng thể bất thường cho bệnh 
nhân được truyền máu, đặc biệt bệnh nhân đã 
truyền  máu  nhiều  lần  là  rất  cần  thiết  để  đảm 
bảo an toàn về mặt miễn dịch cho bệnh nhân.  

Phương pháp nghiên cứu 
Thiết  kế  nghiên  cứu:  nghiên  cứu  mô  tả  cắt 
ngang 
Vật liệu và thuốc thử: 
‐ 5 ml máu của bệnh nhân, ly tâm tách huyết 
thanh  để  làm  xét  nghiệm  sàng  lọc  KTBT  ngay 
hoặc  bảo  quản  tại  quầy  lạnh  âm  30°C  cho  đến 
khi được tiến hành xét nghiệm. 
‐ Thuốc thử:  

Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài với mục 
tiêu:  Xác  định  tỷ  lệ  kháng  thể  bất  thường  ở 
bệnh nhân được truyền máu và một số yếu tố 
liên quan. 

+ Panel hồng cầu tự sản xuất của Trung tâm 
Huyết học – Truyền máu Thái Nguyên bao gồm 

kháng nguyên của các hệ Rh, Kell, Duffy, Kidd, 
Lutheran, MNSs, P1, Lewis. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

+  Panel  hồng  cầu  được  sản  xuất  từ  người 
hiến máu tình nguyện đã được định sẵn các hệ 
nhóm máu Rh, lewis, kell, kidd, lutheran, MNSs, 
duffy, P1, hồng cầu được định sẵn nhóm máu và 
lựa chọn dàn hồng cầu phù hợp theo AABB và 
tham khảo panel hồng cầu của Viện Huyết học 
truyền máu trung ương. 

Đối tượng nghiên cứu 
Chọn  mẫu  thuận  tiện  316  bệnh  nhân  (BN) 
được truyền máu  

Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
‐ Thời gian nghiên cứu: từ tháng 5 đến tháng 
10 năm 2012. 
‐ Địa điểm: tại Trung tâm Huyết học‐Truyền 
máu BVĐKTW Thái Nguyên. 

+  Huyết  thanh  Coombs,  đệm  Liss  của  hãng 
BIO‐RAD 

Panel hồng cầu sàng lọc KTBT 
STT
1
2

3

HC
O1
O2
O3

D
+
+
+

C
+
0
+

c
+
+
0

E
0
+
0

e
+
0

+

Lea Leb
0
+
0
+
+
0

K
0
0
0

k
+
+
+

Jka Jkb Lua Lub
+
0
0
+
+
+
0
+
+

+
0
+

M
+
+
+

N
0
+
+

S
0
0
+

s
+
+
+

Fya Fyb P1
+
0
0
+
0

+
+
+
0

Panel hồng cầu định danh KTBT  
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

HC
O1
O2
O3
O4
O5
O6
O7
O8
O9
O10


D
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+

C
+
0
+
+
+
0
+
+
+
+

c
+
+
0
0
+

+
0
0
+
+

E
0
+
0
0
+
+
0
0
+
+

e
+
0
+
+
+
0
+
+
+
+


Lea
0
0
+
0
+
0
0
0
0
0

Leb
+
+
0
+
+
+
0
+
+
0

K
0
0
0
0
0

0
0
0
0
0

k
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+

Tiến  hành  kỹ  thuật:  Huyết  thanh  của  bệnh 
nhân  được  sàng  lọc  kháng  thể  bất  thường  với 
Panel  hồng  cầu  tự  sản  xuất  của  Trung  tâm 
HHTMTN  bằng  kỹ  thuật  ống  nghiệm  ở  22oC, 

50

Jka
+
+
+
+

0
+
+
0
+
+

Jkb
0
+
+
+
+
+
+
+
+
0

Lua
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0


Lub
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+

M
+
+
+
+
+
+
0
+
+
0

N
0
+
+
+

+
+
+
+
0
+

S
0
0
+
0
+
0
0
0
0
0

s
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+


Fya
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+

Fyb
0
0
+
0
0
0
0
0
0
0

P1
0
+
0
0

0
0
0
+
0
0

37oC, Coombs gián tiếp. Kết quả được nhận định 
bằng  mắt  thường  và  trên  kính  hiển  vi  quang 
học.  

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
Xử lý số liệu 
Phần mềm thống kê y học SPSS 13.0 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 
Tỷ  lệ  kháng  thể  bất  thường  ở  bệnh  nhân 
truyền máu 
Bảng 1. Tỷ lệ KTBT (%) ở bệnh nhân được truyền 
máu 
Đối tượng

Tổng số mẫu Số mẫu Tỷ lệ
nghiên cứu dương tính (%)
Bệnh nhân truyền máu
316
12

3,79

Tỷ  lệ  kháng  thể  bất  thường  ở  bệnh  nhân 
được truyền máu là 3,79%. 

Tỷ lệ kháng thể bất thường liên quan đến 
tuổi, giới, số lần truyền máu  của  các bệnh 
nhân được truyền máu. 
Bảng 2. Tỷ lệ KTBT liên quan đến tuổi  
Nhóm tuổi
< 20
21-40
41-60
> 60
Tổng số

Số mẫu NC
89
92
72
63
316

Số mẫu (+)
3
5
3
1
12


Tỷ lệ (%)
3,37
5,43
4,16
1,58
3,79

Ở nhóm bệnh nhân 21‐40 tuổi có tỷ lệ KTBT 
cao  nhất  (5,43%),  thấp  nhất  ở  nhóm  >  60  tuổi 
(1,58%). 
Bảng 3. Tỷ lệ KTBT liên quan đến giới 
Giới
Nam
Nữ
Tổng số

Số mẫu NC Số mẫu (+) Tỷ lệ (%)
P
155
4
2,58
P>0,05
161
8
4,96
316
12
3,79

Tỷ  lệ  KTBT  gặp  ở  nữ  cao  hơn  ở  nam,  tuy 

nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê.  
Bảng 4. Tỷ lệ KTBT liên quan đến số lần truyền máu 
Số lần nhận máu Số mẫu Số mẫu
NC
(+)
BN nhận máu lần
61
0
1 (1)
Nhận máu 1- 5
170
7
lần (2)
Nhận máu > 5 lần
85
5
(3)
Tổng số
316
12

Tỷ lệ
(%)
0
4,11
5,88

P

P1;2 < 0,05

P2;3 < 0,05
P1;3 < 0,05

3,79

Nghiên cứu Y học
Bệnh  nhân  truyền  máu  lần  thứ  nhất  không 
gặp  kháng  thể  bất  thường,  Bệnh  nhân  truyền 
máu trên 5 lần thì có tỷ lệ KTBT cao hơn những 
bệnh nhân truyền máu dưới 5 lần. 

Định danh kháng thể bất thường 
Bảng 5. Kết quả định danh kháng thể bất thường 
Tên KTBT

XN ở
22oC
Anti C
Anti c
Anti e
Anti C và anti E
Anti M
+
Không xác định được
KTBT

XN ở
37oC
+
+

+
+
+

XN
AHG
+
+
+
+
+

Số mẫu
xác định
3
2
2
1
2
2

Kết  quả  định  danh  kháng  thể  bất  thường 
được  10/12  mẫu,  gồm  các  kháng  thể  anti  C, 
antic, anti e, anti C và anti e, anti M. 

BÀN LUẬN 
Trong  những  năm  vừa  qua,  hoạt  động 
truyền máu tại Việt Nam đã có những bước tiến 
rất đáng kể, chúng ta đã tự xây dựng được panel 
hồng  cầu  sàng  lọc  và  định  danh  kháng  thể  bất 

thường tại các trung tâm lớn như Hà Nội, thành 
phố Hồ Chí Minh. Việc đưa xét nghiệm sàng lọc 
và định danh kháng thể bất thường vào áp dụng 
trong  truyền  máu  đã  giúp  nâng  cao  hiệu  quả 
truyền máu cho bệnh nhân về mặt miễn dịch, cải 
thiện  đáng  kể  chất  lượng  cuộc  sống  cho  bệnh 
nhân. Từ 2010 đến nay Trung tâm Huyết học – 
Truyền  máu  Thái  Nguyên  được  sự  hỗ  trợ  của 
Viện  Huyết  học  –  Truyền  máu  trung  ương  đã 
thực hiện kỹ thuật sàng lọc và định danh kháng 
thể  bất  thường  cho  bệnh  nhân  truyền  máu. 
Trong thời gian từ 2011 đến 11/2012 Trung tâm 
Huyết  học  –  Truyền  máu  Thái  Nguyên  triển 
khai đề tài “Xây dựng panel hồng cầu sàng lọc 
và định danh kháng thể bất thường tại các tỉnh 
miền núi phía Bắc”, chúng tôi đã triển khai định 
nhóm máu phenotype cho hơn 500 người và đã 
tổng hợp, xây dựng được 3 bộ panel sàng lọc và 
2 bộ panel định danh kháng thể bất thường.  
Tỷ  lệ  kháng  thể  bất  thường  ở  bệnh  nhân 
được truyền máu tại BVĐKTƯTN là 3,79%, kết 

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 

51


Nghiên cứu Y học 
quả này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của 
Trịnh Xuân Kiếm (1990) 11,4 %, Bùi Thị Mai An 

(1995)  13,04  %,  Trần  Thị  Thu  Hà  (1999)  12,76% 
và  Nguyễn  Thị  Thanh  Mai  (2000)  27,4%(12,3,10,  7). 
Sở dĩ kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn 
là  do  các  tác  giả  trên  nghiên  cứu  ở  bệnh  nhân 
được nhận máu nhiều lần còn chúng tôi nghiên 
cứu  trên  cả  bệnh  nhân  chưa  truyền  máu  và  đã 
được  truyền  máu.  Kết  quả  này  cũng  phù  hợp 
với nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Mai An 1995. 
Tỷ lệ KTBT gặp ở nữ cao hơn ở nam,  nhận 
xét này của chúng tôi phù hợp với nhân xét của 
Bùi Thị Mai An, Trần Thi Thu Hà; Nguyễn Thị 
Thanh  Mai(5,10,7).  Sở  dĩ  có  kết  quả  trên  là  ở  nữ 
ngoài truyền máu, kháng thể bất thường còn có 
thể xuất hiện do trong quá trình chửa đẻ có thể 
người  đó  đã  tiếp  xúc  với  kháng  nguyên,  tuy 
nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê.  
Bệnh  nhân  chưa  truyền  máu  thì  không  gặp 
kháng  thể  bất  thường,  Bệnh  nhân  truyền  máu 
trên 5 lần thì có tỷ lệ KTBT cao hơn những bệnh 
nhân  truyền  máu  dưới  5  lần  (p<0,05),  nhận  xét 
này  của  chúng  tôi  cũng  tương  tự  với  nhân  xét 
của Bùi Thị Mai An, Trần Thị Thu Hà(3,10). 
Trong  12  mẫu  sàng  lọc  kháng  thể  bất 
thường (+), chúng tôi xác định được tên kháng 
thể  của  10/12  mẫu,  còn  2  mẫu  chúng  tôi  chưa 
xác  định  được  tên,  nguyên  nhân  có  thể  do  bộ 
panle sàng lọc và định danh của chúng tôi còn 
thiếu  kháng  nguyên  mia  do  không  mua  được 
kháng thể đơn dòng anti mia, mà theo báo cáo 
của  Bùi  Mai  An  (Viện  Huyết  học  –  Truyền 

máu trung ương) thì tỷ lệ kháng nguyên mia là 
12,2%(4),  và  kháng  thể  bất  thường  anti  mia  là 
5,8%(3). Các kháng nguyên của hệ Rh xác định 
được  trong  điều  kiện  37oC  và  AHG,  kháng 
nguyên  M  phát  hiện  trong  điều  kiện  xét 
nghiệm  ở  22oC  phù  hợp  với  đặc  điểm  kháng 
nguyên nhóm máu của hệ Rh và MNS.  

KẾT LUẬN 
Qua  sàng  lọc  kháng  thể  bất  thường  ở  bệnh 
nhân  được  truyền  khối  hồng  cầu  tại  Bệnh  viện 
đa  khoa  trung  ương  Thái  Nguyên  năm  2012, 
bước đầu chúng tôi rút ra kết luận sau: 

52

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
‐ Tỷ lệ kháng thể bất thường ở bệnh được truyền 
máu là 3,79. 
‐ Tỷ lệ kháng thể bất thường có liên quan đến số 
lần truyền máu. 
‐ Một số trường hợp được định danh kháng thể 
có anti C, anti c và anti e, anti M. 

KHUYẾN NGHỊ 
Trong thời gian tới cần triển khai thêm định 
nhóm  máu  của  người  hiến  máu  tình  nguyện, 
vận  động  hiến  máu  nhắc  lại,  xây  dựng  câu  lạc 
bộ  hiến  máu  nhắc  lại,  đảm  bảo  cơ  cấu  người 
hiến máu đã được định nhóm phenotype để có 

thể  lựa  chọn  máu  phù  hợp  truyền  cho  bệnh 
nhân. 
Bộ Y tế, Viện Huyết học – Truyền máu trung 
ương cần đưa xét nghiệm sàng lọc kháng thể bất 
thường vào quy chế truyền máu thực hiện tại tất 
cả các cơ sở truyền máu trong cả nước. 
Tập trung sản xuất panel hồng cầu tại cơ sở 
được đảm bảo về chuyên môn cao và được cấp 
phép  như  Viện  Huyết  học,  thống  nhất  các  tiêu 
chí về chất lượng. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.

4.

5.

6.
7.
8.

AABB (2005), Blood group, Technical Manual, 15th edition 2005, 
tr 289‐360 
Bùi  Thị  Mai  An,  Bạch  Khánh  Hoà,  Nguyễn  Thị  Y  Lăng, 
Nguyễn Triệu Vân, Đỗ Trung Phấn và cộng sự (1995), ”Kháng 
thể bất thường ở người cho máu và nhận máu nhiều lần tại Viện 

Huyết học Truyền máu”, Y học Việt Nam số 9 tập 196, tr.35‐39. 
Bùi Thị Mai An, Bạch Quốc Khánh, Hoàng  Thị  Thanh  Nga, 
Hoàng Nhật Lệ (2010), ”Nghiên cứu tỷ lệ kháng thể bất thường ở 
bệnh  nhân  bị  bệnh  máu  tại  Viện  Huyết  học  –  Truyền  máu  trung 
ương (12/2009‐6/2010)”, Y học Việt Nam, tháng 9, số 2/2010, tr 
409‐413. 
Bùi  Thị  Mai  An,  Nguyễn  Anh  Trí,  Hoàng  Thị  Thanh  Nga, 
Hoàng  Nhật  Lệ,  Trần  Ngọc  Quế  (2010),  ”Nghiên  cứu  kháng 
nguyên nhóm máu ngoài hệ ABO của người hiến máu để xây dựng 
panel hồng cầu, ngân hàng người hiến máu có nhóm máu hiếm tại 
Viện  Huyết  học  –  Truyền  máu  trung  ương”.Y  học  Việt  Nam, 
tháng 9, số 2/2010, tr 404‐408. 
Bùi Thị Mai An,   Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Vi Đình Tuấn và 
CS (2005), ”Nghiên cứu sàng lọc kháng thể bất thường hệ hồng cầu 
ở bệnh nhân bị bệnh máu tại Viện Huyết học ‐ Truyền máu trung 
ương (2004‐2005)” 
Harmening  DM  (1999),  Modern  blood  banking  and  transfusion 
practise, Book promotion & service, fourth edition, pp: 90‐213. 
Helmut  Schenkel  –  Brunner  (2000),  Human  Blood  Groups‐ 
Chemical and Biochemical‐ Basis of Antigen specificific, pp. 54‐622 
Issitt  PD,  Issitt  CH  (1970),  Applied  Blood  Group  Serology, 
Spectra Biologicals, pp. 73‐251 

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
9.

10.


11.

Nguyễn  Thị  Thanh  Mai  (2005),  ”Nghiên cứu các kháng thể bất 
thường kháng hồng cầu ở một số đối tượng tại Bệnh viện nhi trung 
ương”, Luận án tiến sỹ sinh học, Tr. 11‐20. 
Trần  Thị  Thu  Hà  (1999),  ”Nghiên cứu kháng thể bất thường hệ 
hồng cầu ở bệnh nhân nhận máu nhiều lần”, Luận văn tốt nghiệp 
thạc sỹ y học. 
Trần Văn Bảo, Tu Ana, Trần Nguyễn Trường Sơn, Trần Thị 
Mỹ  Duyên,  Oytip  Nathalang  (2010),  ”Thiết  lập  dàn  hồng  cầu 
mẫu dùng để phát hiện và xác định kháng thể bất thường tại Bệnh 
viện  Chợ  Rẫy”,  Y  học  TP.Hồ  Chí  Minh,  tập  14,  phụ  bản  số 
2/2010, tr 553‐557. 
 

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 

Nghiên cứu Y học
12.

Trịnh Xuân Kiếm, Bạch Quốc Tuyên, Trịnh Kim  ảnh  (1990), 
”Kháng thể bất thường, nguyên nhân phản ứng tan máu muộn tại 
Bệnh viện Chợ Rẫy”, Y học thực hành số 5 tập 228, tr.14‐15. 

 

Ngày nhận bài báo: Ngày 30 tháng 7 năm 2013 
Ngày phản biện: ngày 09 tháng 9 năm 2013 
Ngày bài báo được đăng:   22 tháng 10 năm 2013 


53



×