Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chích ethanol qua da với trợ giúp của siêu âm để điều trị nang tuyến giáp khảo sát hồi cứu từ 4/1995 - 4/2003 tại bệnh viện An Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.99 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

63 CHÍCH ETHANOL QUA DA VỚI TR GIÚP CỦA SIÊU ÂM
ĐỂ ĐIỀU TRỊ NANG TUYẾN GIÁP
KHẢO SÁT HỒI CỨU TỪ 4/1995 – 4/2003 TẠI BỆNH VIỆN AN BÌNH
Vũ Tu Thân*, Nguyễn Quý Khoáng**

TÓM TẮT
Mục tiêu: dùng Ethanol chích qua da dưới hướng dẫn của siêu âm để điều trò bệnh lý nang tuyến giáp.
Đối tượng &phương pháp: 97 bệnh nhân có bệnh lý nang tuyến giáp (đơn nang và đa nang),gồm đơn
nang 78 nữ-14 nam, đa nang 05 đều là nữ, tuổi từ 09-80; thể tích nang giáp từ 01ml-≥50ml, đã được điều trò
bằng cách chích ethanol vào nang giáp sau khi đã cố gắng chọc hút hết dòch dưới hướng dẫn của siêu âm.Tất
cả số bệnh nhân trên đã được chọn điều trò sau khi được khảo sát bằng các xét nghiệm: Sinh thiết tế bào với trợ
giúp của siêu âm, đo chỉ số TSH-T4 tự do,chỉ số kháng thể kháng giáp (TPO Ab-Tg Ab) và xạ hình bằng I 131hay
Tc 99m. Các xét nghiệm này được thực hiện lại sau khi điều trò mỗi 1-3-6-12-24-36 tháng để đánh giá kết quả.
Kết quả: mỗi bệnh nhân ngoại trú được điều trò từ 1 đến 3 lần,mỗi lần cách nhau 1 tuần lễ, mỗi lần chích
từ O,2ml-1ml, tổng liều ethanol từ 0,2ml-3ml.Sau 36 tháng, chỉ còn 6(6,18%) trường hợp còn nhân lạnh trên
xạ hình.Theo dõi bằng siêu âm, sau 36 tháng còn 33(34,01%) trường hợp còn tìm thấy dấu vết của nang giáp
trước đó, thể hiện trên siêu âm là những nhân giáp đặc, có độ hồi âm dày, giới hạn rõ, đường kính từ 5≤10mm (17 trường hợp), và 16 trường hợp có nhân giáp với đường kính từ 10-15mm. Các chỉ số TSH-T4 tự do
và TPO Ab-Tg Ab không có sự thay đổi đáng kể ; về tế bào học không phát hiện tế bào lạ hay ác tính. Có 2
trường hợp phải phẫu thuật:1 do bỏ ngang trong thời gian điều trò, 1 do không đáp ứng với điều trò.Không có
trường hợp tái phát trong thời gian theo dõi.Tác dụng phụ của phương pháp điều trò này là đau âm ỉ tại chỗ
chích từ 30 phút đến 8 giờ.
Kết luận: phương pháp chích ethanol qua da với sự trợ giúp của siêu âm là phương pháp điều trò an toàn,
bảo tồn hiệu quả đối với bệnh lý nang tuyến giáp, nhưng nếu có những trường hợp không đáp ứng thì nên
nghó đến bệnh lý khác của tuyến giáp và nên giải quyết bằng phẫu thuật.
Thuật ngữ: Sinh thiết tế bào bằng kim nhỏ với trợ giúp của siêu âm=US-FNAB=Ultrasound guided Fine
Needle Aspiration Biopsy, Chích ethanil qua da với trợ giúp của siêu âm=Ultrasound guided Percutaneous
Ethanol Injection=US-PEI, Nang tuyến giáp=Thyroid cysts.



SUMMARY
PERCUTANEOUS ETHANOL INJECTION UNDER ULTRASOUND GUIDANCE
FOR THE TREATMENT OF THYROID CYSTS
Vu Tu Than, Nguyen Quy Khoang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004:
420 - 427

Purpose: We used Ethanol to treat thyroid cysts by percutaneous injection with ultrasound guidance.
Material – Method: 97 patients were studied because of thyroid cysts. Unicyst= 78 female,14
male;Multicyst= 05 female.Age=from 9 to 80 years old.Volume of cyst= from 1ml to ≥ 50ml. All these patients
are treated by injection ethanol into the cysts after evacuating them with ultrasound guidance. Before
treatment, these patients had been done= Fine needle aspiration biopsy by ultrasound guidance, laboratory
* Hỗ trợ siêu âm
** Bệnh viện An Bình-TpHCM.

420

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

tests of TSH-free T4, TPO Ab-Tg Ab and isotope scanning with I 131 or Tc99m.
These examinations were redone after a period of 1 – 3 – 6 – 12 – 24 – 36 months of treatment.
Results:Each out-patient was treated by ethanol injection 1 to 3 times, 0,2ml to 1ml each time and total
dose = 0,2 to 3ml.
Isotope scanning had been done 3 months after and showed the recuperation of the affected thyroid lobe;
after 36 months, there were only 6 cases (6,18%) wich still had cold nodule.

By ultrasound follow-up, we noted that the volume of cysts had remarkably diminished: After 36
months,there were only 33 cases (34,01%) where we found the remainings of the cysts on ultrasound, we see
solid nodules with hyperechoic structure and well defined borders and 5 to 15mm in size.
There were 2 cases wich needed surgical treatment. One case who did not follow PEI treatment and one
case who did not respond to this treatment.
The TSH-free T4 and TPO Ab-Tg Ab tests did not change significantly after PEI treatment.
We did not find any malignant cell during this study. No recidive case.
The only inconvenient of this technic was pain at the injection site wich lasted for 30 mn to 8 hours.
Conclusion: This is a safe method for treating thyroid cysts, less invasive and conservative for thyroid lobe.
But if one case did not respond to this PEI treatment, we must think that there was probably one another
thyroid disease wich needed surgical therapy.
Key words: US-FNAB= Ultrasound guided fine needle aspiration biopsy – US-PEI= Ultrasound guided
percutaneous ethanol injetion – Thyroid cysts.

MỞ ĐẦU

ĐỐI TƯNG & PHƯƠNG PHÁP

Phương pháp chích ethanol dưới hướng dẫn của

Tất cả các bệnh nhân có bệnh lý nang tuyến giáp

siêu âm (PEI) đã được áp dụng tại Châu Âu từ thập

(đơn nang – đa nang) không kể phái tính và tuổi đều

niên 60, các tác giả sử dụng phương pháp này để điều

được đưa vào diện khảo sát.


trò những bệnh lý nang gan, nang thận; sau đó là ung
thư gan và bướu tuyến cận giáp. Thực sự áp dụng

Các đối tượng này được thực hiện các xét nghiệm sau:

phương pháp này vào bệnh lý tuyến giáp mới khoảng

Đo chỉ số TSH – T4 tự do.

hơn 10 năm, từ đầu thập niên 90, bắt đầu là các bệnh

Sinh thiết tế bào bằng kim nhỏ với trợ giúp của

lý nang giáp, nhân độc (nhân nóng) và tiếp theo là
các nhân đơn độc (nhân lạnh). Đến đầu thế kỷ XXI,
ngày càng có nhiều Trung Tâm áp dụng phương
pháp điều trò này và chỉ đònh cũng được mở rộng hơn.
Đa số các tác giả đã công nhận phương pháp này là
«liệu pháp thứ tư» trong Tuyến giáp học (Phẫu thuật
– Xạ trò – Thuốc).Bệnh viện An Bình bắt đầu thực

siêu âm (US – FNAB)
Đo chỉ số Kháng thể kháng giáp TPO Ab – Tg Ab.
Xạ hình tuyến giáp bằng Tc99m hay I (3).
Tiêu chuẩn loại trừ
Những đối tượng sau không thuộc diện điều trò

hiện phương pháp điều trò này từ tháng 4 năm 1995,

Có kết quả tế bào học nghi ngờ hay khẳng đònh ác tính.


với sự kết hợp của Khoa Nội Tiết, Khoa Chẩn Đoán

Có chỉ số Kháng thể kháng giáp cao hơn chỉ số
bình thường.

Hình nh Bệnh viện An Bình và Phòng Chẩn Đoán
Tế Bào thuộc Trung Tâm Chẩn Đoán MEDIC.

Có hình ảnh trên siêu âm sau khi chọc hút hết
dòch không thể hiện một nang giáp, Những nhân đặc

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

421


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

đang trong giai đoạn nang hoá, có hình ảnh bất
thường sau lần chọc – hút dòch thử tế bào đầu tiên.
Hình 1.

Hình 3.

Hình 2.

Sau chọc – hút dòch, nang giáp có hình ảnh của

một nhân đặc trong giai đoạn nang hoá chưa hoàn
toàn (H.1) và hình ảnh bất thường (H.2) có thể do
xuất huyết trong nang hay nhu mô giáp bung ra sau
khi áp lực trong nang giảm do chọc hút bớt dòch.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Sau khi chọc – hút hết dòch, hình ảnh trên siêu
âm thể hiện một nang giáp.
Không có tế bào lạ nghi ngờ hay khẳng đònh
ác tính.
Có chỉ số kháng thể kháng giáp trong giới hạn
bình thường.

Hình 4.

Nang giáp sau khi chọc – hút hết dòch thể hiện
một nang giáp thuần tuý: trong lòng nang không còn
chứa đựng gì. Kích thước của thuỳ có nang sau khi
chọc – hút hết dòch trong giới hạn bình thường (so
sánh với thuỳ giáp không có nang).
Đối tượng
97 bệnh nhân được chọn điều trò, độ tuổi từ 09 –
80 tuổi; gồm đơn nang, nữ có 78 bệnh nhân, nam 14
bệnh nhân; thể tích nang từ 1ml - ≥ 50ml, đặc biệt
có 3 trường hợp có thể tích # 100ml. Đa nang, 05
bệnh nhân, tất cả đều là nữ, thể tích nang từ 1ml –
40ml.
Phương pháp
Bệnh nhân ngoại trú được chọn điều trò sẽ được
chích một lượng ethanol thay đổi từ 0,2ml đến 1ml vào
nang giáp sau khi cố gắng chọc – hút hết dòch dưới trợ

giúp của siêu âm, mỗi tuần một lần, cho đến khi nang
không còn tái tạo lại dòch.
Bệnh nhân được theo dõi đònh kỳ bằng siêu âm -

422

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
thử tế bào (US – FNAB) và đo các chỉ số TSH – T4 tự
do, chỉ số kháng thể kháng giáp mỗi 1 – 3 – 6 – 12 –
24 – 36 tháng, xạ hình được thực hiện sau 3 – 6 – 12
– 24 – 36 tháng để đánh giá hiệu quả của phương
pháp điều trò này.

Hình 5.

Hình 6.
Nang giáp sau chọc – hút dòch và chích
Nang giáp tái phát sau một tuần lễ, ethanol,
những chấm trắng trong lòng chưa chọc – hút dòch.
nang là do ethanol tập trung.

KẾT QUẢ

Nghiên cứu Y học

hợp không còn tìm thấy dấu vết của nang giáp.
Sau 6 tháng: Có 30 (30,92%) không tìm thấy dấu

vết của nang trước đó.
Sau 12 tháng: Có 20 (20,61%) không tìm thấy
dấu vết của nang trước đó.
Sau 24 tháng: Có 06 (5,82%) không tìm thấy dấu
vết của nang trước đó.
Sau 36 tháng: Có 33 (34,01%) còn dấu tích của
nang trước đó; trong đó có 17 trường hợp thể hiện
trên siêu âm là một nhân giáp có độ hồi âm dày, giới
hạn rõ, đường kính từ 5 – 10 mm, 16 trường hợp có
đường kính từ 10 – 15 mm.
Chỉ số TSH – T4 tự do và chỉ số TPO Ab –
Tg Ab:
Không có sự thay đổi có ý nghóa trước và sau khi
điều trò.
Xạ hình
Sau 3 tháng có 32 (32,98%) không còn dấu nhân
lạnh trên xạ hình.
Sau 6 tháng có 30 (30,92%) không còn dấu nhân
lạnh trên xạ hình.
Sau 12 tháng có 20 (20,61%) không còn dấu
nhân lạnh trên xạ hình.
Sau 24 tháng có thêm 4 (4,12 %) không còn dấu
nhân lạnh.
Sau 36 tháng có thêm 3 (3,09%) không còn dấu
nhân lạnh, 6 (6,18%) còn dấu nhân lạnh trên
xạ hình.
Có 2 trường hợp phẫu thuật: 1 do bỏ ngang trong
giai đoạn điều trò, 1 do không đáp ứng với điều trò.
Không có trường hợp nào tái phát trong suốt thời
gian theo dõi.


Siêu âm – thử tế bào (US-FNAB)
Không tìm thấy tế bào lạ hay ác tính trong suốt
thời gian theo dõi. Kích thước của nang giáp trên siêu
âm giảm rất đáng kể, hình ảnh của nang giáp sau
điều trò đều có cùng một kiểu thay đổi: Từ một nốt
echo có độ hồi âm kém dần trở thành một nốt echo
có độ hồi âm ngày càng dày hơn vào cuối giai đoạn
theo dõi. Có rất nhiều trường hợp không còn tìm thấy
dấu tích của nang giáp trước đó:
3 tháng sau khi điều trò: Có 11 (11,34%) trường

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

423


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
phải sử dụng thuốc giảm đau. Đối với những liều từ
0,5ml trở xuống thì thường bệnh nhân không có cảm
giác gì.

Hình 7. Ảnh xạ hình trước khi điều trò

Xuất huyết trong nang:

Trong quá trình chọc hút dòch hay trong quá
trình điều trò xảy ra thường hơn, khoảng hơn 1/3 các

trường hợp; điều này làm chậm quá trình điều trò
cũng như làm chậm quá trình giảm thể tích nang.
Một trường hợp xuất huyết trong nang
điển hình

Hình 8. Hình ảnh xạ hình 3 tháng sau điều trò

Nhận xét: Về phương diện đánh giá chức năng
thuỳ giáp có tổn thương sau khi điều trò, xạ hình cho
thấy thuỳ giáp hồi phục được chức năng, hoạt động
bắt xạ tốt, chứng tỏ phương pháp điều trò không gây
thêm tổn thương cho thuỳ có tổn thương trước đó;
nhưng về phương diện hình ảnh thì xạ hình lại không
có khả năng nhận biết những nhân giáp có kích
thước nhỏ, đường kính # 10 mm. Do vậy, tỷ lệ mất
dấu nhân lạnh rất cao, trong khi siêu âm vẫn có thể
chỉ rõ những nhân giáp có kích thước nhỏ.

Hình 9. Lần chích thứ hai 6/2/96

Một trường hợp không đáp ứng:
Bệnh nhân tên Nguyễn văn Hoà, nam, 72 tuổi;
có một nang giáp lớn ở thuỳ T, với thể tích nang
92ml, dòch màu nâu đậm. Điều trò lần đầu với liều
0,5ml ethanol, sau 1 tuần lễ,và các lần điều trò tiếp
theo, lượng dòch tái tạo lại gần bằng với lần rút dòch
đầu tiên; bệnh nhân này được điều trò đến lần thứ 4,
bệnh nhân đã xuất cảnh sang Úc thăm thân nhân sau
đợt điều trò cuối này chỉ 1 – 2 ngày, sau này khi trở lại
tái khám, bệnh nhân cho biết đã được phẫu thuật 2

lần tại Úc, lần thứ nhất cắt trọn thuỳ T, lần thứ hai
cắt thuỳ giáp còn lại; kết quả sau phẫu thuật là K
tuyến giáp, nhưng không rõ loại ung thư.

Hình 10. Lần chích thứ nhất 1/2/96

Những trở ngại thường gặp
Cảm giác đau

Với liều lượng 1ml ethanol, bệnh nhân thường có
cảm giác đau âm ỉ tại chỗ chích, kéo dài khoảng từ 30
phút đến 8 tiếng đồng hồ. Không có trường hợp nào

424

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

Hình 11. 1 tuần sau lần chích thứ ha

Hình 15. Kiểm tra sau 36 tháng: 30 / 12 / 99
Hình 12. 2 tuần sau lần chích thứ hai

Khảo sát bằng Color-Dopple

Hình 16. Kiểm tra sau 7 năm: 31 / 8 / 03


BÀN LUẬN
Hình 13. Kiểm tra sau 1 tháng

Hình 14. Kiểm tra sau 18 tháng

Nang giáp là biểu hiện sau cùng của một tiến trình
bệnh lý nào đó của tuyến giáp, phần lớn trong số chúng
là do những nhân giáp đặc thoái hoá mà nên. Tỷ lệ ung
thư trong nhóm nang giáp là từ 0,5 – 3%, chỉ thấp hơn
một ít so với nhóm nhân đặc đơn độc (Douglas S Ross).
Phương pháp điều trò trước đây là chọc hút dòch, nếu tái
phát hay có xuất huyết trong nang thì phẫu thuật là
phương cách duy nhất để chọn lựa. Nhưng phẫu thuật
cũng có những mặt hạn chế như những tai biến trong
quá trình phẫu thuật hay trong quá trình gây mê, hoặc
trong những trường hợp cả 2 thuỳ giáp đều có nang.
Liệu pháp sử dụng levothyroxin (T4) thường ít có hiệu
quả trong những trường hợp này.
Liều lượng Ethanol: Trong Y văn thế giới, liều lượng
ethanol được các tác giả công bố thường rất khác nhau,
không có liều lượng cụ thể cho từng trường hợp hay
một cách tính thống nhất nào; thí dụ như liều lượng
ethanol chích vào nang giáp được tính bằng 1/3 trên
tổng số lượng dòch rút ra (Caraccio N), cách tính này

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

425



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

theo chúng tôi là bất khả thi nếu lượng dòch lớn hơn
30ml. Tác động của ethanol đối với nhu mô giáp là một
tiến trình: Hoại tử mô – làm đông máu nếu có xuất
huyết, do vậy làm tắc mạch máu – viêm tại chỗ – kéo
sợi & thoái hoá. Chủ trương của chúng tôi là sử dụng
liều lượng ethnol tối thiểu để đạt hiệu quả tối đa,hay nói
một cách khác, sử dụng liều lượng ethnol hợp lý nhất
cho mỗi trường hợp cá biệt, tránh gây thêm tổn thương
cho thuỳ giáp đã có sẵn bệnh lý: Chúng tôi tính liều
lượng ethanol sử dụng dựa trên thể tích của nang giáp
còn lại sau khi đã cố gắng chọc hút hết dòch. Thông
thường, dựa trên cách tính này, lượng ethanol tối thiểu
mà chúng tôi sử dụng là 0,2ml mà hiệu quả cũng đạt
như những liều lượng ethanol lớn hơn; số đợt điều trò là
từ 1 đến 3 lần chích.
Quan điểm của Hiệp hội Tuyến giáp Hoa Kỳ (ATA –
American Thyroid Association): Là chưa chuẩn thuận và
cho phép sử dụng rộng rãi phương pháp điều trò này. Lý
do các tác giả Hoa Kỳ đưa ra là phương pháp này gây
đau kéo dài và có 1 trường hợp bò huyết khối tónh mạch
cửa (thrombosis of jugular vein). Nhưng cũng có những
lý do khách quan mà chúng ta cũng nên chú ý, đó là sự
khác biệt về quan điểm trong việc sử dụng phương tiện
siêu âm trong lónh vực Tuyến giáp học: trong khi các tác
giả Hoa Kỳ còn chưa thống nhất về vai trò của siêu âm

thì “chiến lược” tiếp cận với bệnh lý Bướu giáp nhân
được đa số các tác giả Hoa Kỳ khuyên nên sử dụng 3
công cụ cơ bản là: Sinh thiết tế bào bằng kim nhỏ
(conventional FNA) – Xạ hình – Đo trò số TSH. Việc
sinh thiết tế bào mà không cần siêu âm dẫn đường, theo
các tác giả Hoa Ky,ø mang lại 2 lợi ích: 1 là giúp phân biệt
được 60% những nhân giáp cần phẫu thuật, 2 là chi phí
thấp (cost effective). Tuy nhiên, các tác giả Hoa Kỳ cũng
công nhận là sinh thiết “mù” cũng có nhiều sai sót như
có nhiều tỷ lệ dương tính giả, âm tính giả và nhất là đối
với những ung thư giáp có kích thước nhỏ từ 10 20mm thường bò bỏ sót, do vậy, phương pháp sinh thiết
này không thể tính được độ chính xác cũng như độ
chuyên biệt. Sự khác biệt về quan điểm này còn thể
hiện ở tỷ lệ các cơ sở của ATA có sử dụng phương tiện
siêu âm: Để khảo sát bướu giáp đơn nhân, chỉ có 34% cơ
sở của ATA sử dụng phương tiện siêu âm so với 80% cơ

426

sở của Hiệp hội Tuyến giáp Châu Âu (ETA - European
Thyroid Association), và tương tự, khi khảo sát bướu
giáp đa nhân, chỉ có 59% cơ sở của ATA sử dụng
phương tiện siêu âm so với 84% cơ sở của ETA.

KẾT LUẬN
Phương pháp chích ethanol qua da, dưới sự trợ giúp
của siêu âm, qua kết quả mà chúng tôi đã thực hiện
trong 8 năm qua, có thể đi đến kết luận rằng đây là một
phương pháp điều trò ít xâm lấn, an toàn, chi phí thấp và
là phương pháp điều trò bảo tồn có hiệu quả nhất đối với

thuỳ giáp có bệnh lý nang trước đó. Nên nghó đến chỉ
đònh điều trò bằng phương pháp này trước khi có quyết
đònh phẫu thuật. Tuy nhiên, phương pháp này cần được
thực hiện bởi những thầy thuốc có kinh nghiệm và nhất
là phải nắm vững kỹ năng siêu âm; và trong quá trình
điều trò, nếu có những trường hợp không đáp ứng với
điều trò thì nên nghó đến một bệnh lý khác của tuyến
giáp và nên chọn chỉ đònh phẫu thuật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

Petersen K, Bengtsson C, Lapidus L et al. “ Morbidity,
mortality and quality of life for patients treated with
levothyroxin” Arch Intern Med 1990, 1850: 20-31
Biondi B, Fazio S, Carrella C et al. “Cardiac effect of

longterm thyrotropin – suppressive with levothyroxin” J
Clin Endocrinol Metab 1993; 77: 334 – 338
Monzani F, Goletti O, Caraccio N et al. “Percutaneous
ethanol injection treatment of autonomous thyroid
adenomas: hormonal and clinical examination” Clin
Endocrinol 1992.
Salvatore Mazzeo, Maria Giuseppina Toni, Cataldo De
Gaudio “ Percutaneous Injection of Ethanol to Treat
Autonomous Nodules” American Journal of Radiology
1993.
Verde G, Papini E, Pacella CM et al. “Ultrasound guided
percutaneous ethanol injection in the treatment of cystic
thyroid nodules” Clin Endocrinol 1994; 41-719.
Iacconi P, Spinelli C, Monzani F, Miccoli P, “
Percutaneous ethanol injection for thyroid cysts: a word of
caution” Clin Endocrinol 1996; 44:125.
Lippi F, Ferrari C, Manetti L, Rago T, Santini F, Monzani
F et al. “Treatment of Solitary Autonomous Thyroid
Nodules by Percutaneous Ethanol Injection: Results of an
Italian Multicenter Study” J Clin Endocrinol Metab 1996,
81(9): 3261-64
Caraccio N, Goletti O, Lippolis PV, Casolaro A, Monzani
F; “ Ten years’ experience with Percutaneous Ethanol
Injection for Treatment of Benign Thyroid Nodules” 2001;
Department of Internal Medicine and Department of
Surgery, University of Pisa, School of Medicine, Pisa,
Italia.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
9.

Zingrillo M, Torlontano M, Chiarella et al. “ Percutaneous
Ethanol Injection may be a Definitive Treatment Cystics
Nodules Not Treatable by Surgery: Five – year Follow –
Up Study” Thyroid 1999, 9:763 – 7.
10. E Martino, F Bogazzi, Pisa, Italia “ Percutaneous ethanol
injection therapy for thyroid diseases” Thyroid
Intenational May 2000.
11. Nobuhiro Fukunari “Thyroid PEI for thyroid lesions”
Surgical Branch of Ito Hospital, 4-3-6, Jingumae,
Shibuya-ku, Tokyo 150-8380, Japan,2002.

Nghiên cứu Y học

12. Douglas S Ross,MD; Editor Thyroid Diseases; Associate
Professor of Medicine; Havard Medical School “ Up-toDate Diagnostic approach to and treatment of thyroid
nodules” Jan. 6 – 2003.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

427



×