Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Phẫu thuật cắm lại niệu quản vào bàng quang qua nội soi trong và ngoài phúc mạc ở người lớn: Kinh nghiệm ban đầu qua 19 bệnh nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.97 KB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

PHẪU THUẬT CẮM LẠI NIỆU QUẢN VÀO BÀNG QUANG
QUA NỘI SOI TRONG VÀ NGOÀI PHÚC MẠC Ở NGƯỜI LỚN:
KINH NGHIỆM BAN ĐẦU QUA 19 BỆNH NHÂN
Nguyễn Đạo Thuấn*, Vũ Lê Chuyên*, Nguyễn Văn Ân*, Vĩnh Tuấn*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật cắm lại niệu quản vào bàng quang qua nội soi ổ bụng là kỹ thuật ít được mô tả
ở người lớn. Mục tiêu của chúng tôi là mô tả 19 trường hợp, được phẫu thuật làm nhỏ niệu quản và cắm lại
vào bàng quang qua ngã nội soi trong và ngoài phúc mạc, có kết quả thành công ở người lớn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 8 bệnh nhân bị hẹp niệu quản đoạn cuối; 2 bệnh nhân có niệu
quản cực đại; 6 bệnh nhân có niệu quản đôi cắm lạc chỗ; 1 bệnh nhân có tình trạng trào ngược bàng quang niệu quản độ V; 2 bệnh nhân có tình trạng dò niệu quản – âm đạo. Tất cả được chẩn đoán bằng hình ảnh,
chức năng của thận bị bệnh còn tốt. Chúng tôi thực hiện phẫu thuật cắm lại niệu quản vào bàng quang qua
nội soi bằng phương pháp Lich-Gregoir cải biên (5 trường hợp trong và 14 trường hợp ngoài phúc mạc). 15
bệnh nhân được làm nhỏ niệu quản ngoài cơ thể qua lỗ trocart.
Kết quả: Thời gian phẫu thuật trung bình là 164 phút. Không mất máu, không có tai biến-biến chứng
trong và sau phẫu thuật. Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình là 3,5 ngày. Rút thông Foley niệu đạo
sau 7 ngày. Tái khám và rút thông JJ sau 1 tháng. Theo dõi sau 2 tháng: tất cả các bệnh nhân có cải thiện
đáng kể tình trạng thận ứ nước trên siêu âm. Trên phim UIV: tất cả các bệnh nhân có niệu quản nhỏ lại và
thông suốt, không dấu hiệu hẹp hay dò thuốc cản quang. Kết quả trên phim VCUG: không có tình trạng trào
ngược bàng quang – niệu quản .
Kết luận: Phẫu thuật cắm lại niệu quản qua nội soi ổ bụng, đặc biệt phẫu thuật ngoài phúc mạc có tính
an toàn, hiệu quả, không quá phức tạp. Phẫu thuật này đưa lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Tuy nhiên,
chúng tôi cần phải tiếp tục thực hiện nghiên cứu để những nhận xét trên càng thêm ý nghĩa hơn.

ABSTRACT
LAPAROSCOPIC URETERAL REIMPLANTATION IN ADULTS, TRANSPERITONEAL AND
EXTRAPERITONEAL METHOD: EXPERIENCES IN INITIAL 19 CASES


Nguyen Dao Thuan, Vu Le Chuyen, Nguyen Van An, Vinh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 214 - 220
Background and Purpose: Laparoscopic ureteral reimplantation is an infrequently described technique
in adults. Our aim is to describe 19 cases, where we used the ureteral reduced tailoring and intracorporeal
suturing technique successfully for performing laparoscopic extravesical ureteral reimplantation, with
transperitoneal and extraperitoneal method in adults. We describe the preliminary results of these cases.
Patients and Methods: 8 patients with symptomatic uretero-vesical junction obstruction (UVJO), 2
patients with megaureter, 6 patients with urinary incontinence due to ectopic duplicated ureter, 1 patient
with vesical - ureteral reflux and 2 patient with ureteral - vaginal fistula that confirmed in imaging, and the
function of affected kidneys were still good. All of cases underwent laparoscopic ureteral reimplantation by
modified Lich - Gregoir extravesical technique (5 and 14 cases with intra and extraperitoneal method
* Bệnh viện Bình Dân Tp.HCM

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

respectively). We used the extracorporeal ureteral reduced tailoring due to significant dilation of the ureter
in the 15 cases through the trocart port.
Results: The average surgical time was 164 minutes. The blood loss was not occurred. The average stay
was 3,5 days, and the average time to starting oral intake was 12 hours. No intraoperative or postoperative
complications occurred. The urinary catheter and double j stent were removed after 7 days and 4 weeks,
respectively. Follow-up about 2 months after procedure, ultrasound and IVU showed significantly less
hydronephrosis, good clearance of the kidney and ureter, and no evidence of urinary leakage or obstruction.
There was no sign of vesico-ureteral reflux in VCUG.

Conclusion: Laparoscopic reimplantation of ureter, especially extraperitoneal method is a safe and
feasible method in management of UVJO, megaureter and ectopic ureter. Considering short convalescent
period and proper cosmetic results, it can be the procedure of choice. But the long-term results need to be
evaluated.
Cho tới hiện nay, trên y văn đã có một vài
ĐẶT VẤN ĐỀ
báo cáo nghiên cứu trên heo(2), một vài báo cáo
Phẫu thuật cắm lại niệu quản thường được
ca lâm sàng phẫu thuật nội soi trong phúc
thực hiện trong nhi khoa qua những bệnh lý
mạc(4,12). Tuy nhiên, chúng tôi chưa thấy nghiên
bẩm sinh liên quan đến đoạn cuối của niệu
cứu nào báo cáo về phẫu thuật nội soi cắm lại
quản. Ở người lớn, phẫu thuật này ít được thực
niệu quản qua ngã ngoài phúc mạc. Do vậy,
hiện hơn(2). Chúng ta có thể gặp trong một số
chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm bàn luận
trường hợp như tai biến và biến chứng do phẫu
một số kinh nghiệm ban đầu qua phẫu thuật
thuật (đặc biệt phẫu thuật sản phụ khoa), hẹp
này.
niệu quản do sỏi khảm, niệu quản cắm lạc chỗ
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ngoài bàng quang, trào ngược bàng quang-niệu
(1,2,6,9,11,13)
quản thứ phát
.
Phương pháp nghiên cứu
Mổ mở cắm lại niệu quản đã trở thành
điều trị chuẩn từ lâu. Tuy nhiên, phẫu thuật

mở vẫn luôn có những khuyết điểm kinh điển.
Do vậy phẫu thuật nội soi ngày càng được
phát triển nhằm khắc phục những khuyết
điểm kinh điển này.
Mặc dù phẫu thuật nội soi ổ bụng đã được
thực hiện thành công trong rất nhiều bệnh lý của
niệu khoa vào những năm gần đây. Tuy nhiên,
phẫu thuật nội soi cắm lại niệu quản vào bàng
quang rất ít được thực hiện và mô tả (4).
Đây là phẫu thuật cần nhiều kỹ năng tinh tế,
và sự kiên nhẫn của phẫu thuật viên- Khó khăn
nhất trong quá trình phẫu thuật là kỹ thuật khâu
nối niệu quản(4,12).
Cắm lại niệu quản qua ngã nội soi bằng
đường tiếp cận ngoài bàng quang có lẽ được
phẫu thuật viên niệu khoa thích dùng, điển hình
là phương pháp phẫu thuật Lich-Gregoir.

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
2

Nghiên cứu tiền cứu mô tả, được thực hiện
tại khoa Niệu bệnh viện Bình Dân. Từ tháng
6/2006 đến 10/2007 chúng tôi thực hiện và theo
dõi được 19 bệnh nhân, trong đó gồm:
* 9 nam và 10 nữ
* Tuổi trung bình: 43 tuổi (19 – 64)
* 8 bệnh nhân hẹp niệu quản đoạn cuối thất
bại qua nội soi niệu quản; 2 bệnh nhân có niệu

quản cực đại gây thận ứ nước đau hông lưng
kéo dài; 6 bệnh nhân có niệu quản đôi cắm lạc
chỗ, trong đó 3 bệnh nhân tiểu không kiểm soát
liên tục do niệu quản cắm lạc chỗ vào âm đạo; 1
bệnh nhân có tình trạng trào ngược bàng quangniệu quản độ V, sau xẻ nang niệu quản qua nội
soi và 2 bệnh nhân có tình trạng dò niệu quản –
âm đạo do tai biến cắt tử cung.
* Tất cả 19 bệnh nhân có thận-niệu quản
giãn, nhưng còn phân tiết tốt trên UIV.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
* 3 bệnh nhân có vết mổ cũ (1 thắt vòi trứng
và 2 cắt tử cung)

Tiến trình phẫu thuật
- Bệnh nhân được gây mê bằng nội khí quản.
- Tư thế nghiêng về phía đối diện 45 độ, 2 tay
duỗi thẳng theo 2 bên thân. Đặt thông Foley 18F
vào niệu đạo.
- Rạch da và cân thẳng bụng ở ngay rốn (dài
2-2,5cm), bóc tách khoang trước phúc mạc bằng
bơm bong bóng tự tạo (đối với phẫu thuật ngoài
phúc mạc).
- Đưa trocart 10 vào lỗ mở ở rốn (camera).
Dưới quan sát của camera, đưa thêm 1 trocart ở
hố chậu cùng bên, và 1 trocart điểm giữa đường
nối rốn và bờ trên xương mu, có thể đưa thêm 1
trocart ở hố chậu đối bên để vén phúc mạc.
- Tìm và giải phóng niệu quản từ vị trí bắt

chéo bó mạch chậu, hết đoạn chậu xuống sát
bàng quang và kẹp cắt niệu quản xa.
- Đưa niệu quản ra ngoài qua lỗ trocart hố
chậu cùng bên, khâu lộn tay áo lỗ niệu quản mới
bằng vicryl 4-0, làm nhỏ niệu quản nếu niệu
quản giãn lớn. (Hình 1)

Nghiên cứu Y học

Theo dõi hậu phẫu
- Rút dẫn lưu hốc chậu hoặc dẫn lưu
Douglas và cho bệnh nhân xuất viện sau 2-4
ngày.
- Rút thông Foley niệu đạo sau 7 ngày.
- Tái khám và rút thông JJ sau 1 tháng.
- Sau 2 tháng, bệnh nhân tái khám và được
thực hiện các xét nghiệm như: Siêu âm bụng,
UIV và VCUG.

KẾT QUẢ
Thời gian phẫu thuật trung bình: 164 phút
(135 – 210)
Phẫu thuật trong phúc mạc 5 bệnh nhân, và
phẫu thuật ngoài phúc mạc 14 bệnh nhân (đây là
những bệnh nhân được thực hiện vào thời gian sau).
Làm nhỏ niệu quản 15 bệnh nhân, do niệu
quản giãn rất lớn.
Không mất máu, không có tai biến-biến
chứng trong và sau phẫu thuật.
Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình là

3,5 ngày (2-7).

- Đặt thông JJ và khâu cố định vào niệu quản
bằng chromic 4-0. Khâu một mũi chờ bằng chỉ
vicryl 4-0 vào niệu quản ngay trên lỗ niệu quản
mới (mặt sau).
- Đưa niệu quản cùng thông JJ và mũi chỉ
chờ vào lại trong ổ bụng.
- Bơm căng bàng quang, tìm và xẻ cơ bàng
quang ở phần đáy bên dài 3-4cm đến khi lộ phần
dưới niêm, xẻ niêm mạc bằng một lỗ ở phần thấp.
- Đưa thông JJ vào lỗ mở niêm mạc bàng quang.
- Khâu niệu quản vào niêm mạc bàng quang
bằng 4-5 mũi rời chỉ vicryl 4-0.
- Khâu cơ bàng quang tạo đường hầm, ép mặt
dưới niệu quản bằng 2-3 mũi rời chỉ vicryl 4-0.
- Khâu lại phúc mạc (phẫu thuật trong phúc
mạc), đặt dẫn lưu hốc chậu (phẫu thuật ngoài
phúc mạc) hoặc dẫn lưu Douglas (phẫu thuật
trong phúc mạc).

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Hình 1: Niệu quản được đưa ra ngoài qua lỗ trocart,
làm nhỏ lại và đặt thông JJ

Sau 2 tháng
Không có bệnh nhân nào còn tình trạng tiểu
không kiểm soát như trước lúc phẫu thuật
19 bệnh nhân có cải thiện đáng kể tình trạng

thận ứ nước trên siêu âm (giảm từ độ 2 và độ 3
xuống còn độ 1).
Trên phim UIV: Tất cả các bệnh nhân có niệu
quản nhỏ lại và thông suốt. Không dấu hiệu hẹp
hay dò thuốc cản quang.

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Kết quả trên phim VCUG: Tất cả 19 bệnh
nhân không có tình trạng trào ngược bàng
quang–niệu quản .

BÀN LUẬN
Phẫu thuật cắm lại niệu quản thường được
thực hiện trong nhi khoa qua những bệnh lý
bẩm sinh liên quan đến đoạn cuối của niệu
quản. Ở người lớn, phẫu thuật này ít được thực
hiện hơn(2). Tuy nhiên, chúng ta có thể gặp trong
một số trường hợp tai biến và biến chứng do
phẫu thuật (đặc biệt phẫu thuật sản phụ khoa),
hẹp niệu quản do sỏi khảm, niệu quản cắm lạc
chỗ ngoài bàng quang, trào ngược bàng quang niệu quản thứ phát, và trong trường hợp đoạn
niệu quản cuối bị hư hỏng một đoạn dài thì có
thể thực hiện cắm lại niệu quản bằng phương
pháp Boari hoặc bàng quang đính vào cơ
thăn(1,2,6,9,11,13). Trong lô nghiên cứu của chúng tôi,
thực hiện trên 19 bệnh nhân người lớn, những
bệnh nhân này cũng nằm trong các bệnh lý kể

trên.
Phẫu thuật cắm lại niệu quản vào bàng
quang qua nội soi ổ bụng được thực hiện đầu
tiên vào năm 1994, Ehrlich(8) đã thực hiện phẫu
thuật này trên trẻ em. Cũng vào thời điểm này,
Reddy và Evans(16) đã thực hiện phẫu thuật này
trên người lớn….
Năm 2003, Andou(3) đã báo cáo trường hợp
phẫu thuật cắm lại niệu quản vào bàng quang
qua nội soi bằng phương pháp chỉ bên ngoài
bàng quang. 19 bệnh nhân của chúng tôi đều
được phẫu thuật bằng phương pháp Lich Gregoir cải biên, cắm bên ngoài bàng quang, cho
thấy kỹ thuật này cũng khá đơn giản và có hiệu
quả.
Tác giả Dinlenc(7), năm 2004 cũng đã ứng
dụng robot vào phẫu thuật này. Theo chúng tôi,
khó khăn nhất của phẫu thuật này là kỹ thuật
khâu niệu quản vào bàng quang. Robot giúp giải
quyết vấn đề này dễ dàng hơn. Tuy nhiên, robot
cũng có những nhược điểm, cần khoảng trống
phẫu thuật khá lớn nên không thể thực hiện

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
4

Nghiên cứu Y học

phẫu thuật ngoài phúc mạc được, chưa kể đến
quá tốn kém về mặt kinh tế.

Lay F năm 2003(10) báo cáo trường hợp đầu
tiên, và Nezhat CH(14) năm 2004 báo cáo 4 trường
hợp phẫu thuật này, kèm đính thêm bàng quang
vào cơ thăn. Như vậy, niệu quản ngắn có thể
thực hiện được phẫu thuật nội soi cắm vào bàng
quang được. Chúng tôi chưa gặp phải trường
hợp nào phải thực hiện thêm phương pháp này.

Phẫu thuật trong hay ngoài phúc mạc?
Cho đến nay chúng tôi vẫn chưa tìm thấy
trên y văn báo cáo về phẫu thuật này qua ngã
nội soi ngoài phúc mạc. Có lẽ khoang ngoài
phúc mạc chật hẹp làm cho phẫu thuật khó khăn
hơn so với phẫu thuật trong phúc mạc. Ngoài ra,
việc tìm thấy phần đáy bên bàng quang để xẻ cơ
không phải là công việc dễ dàng. Điều này
chúng ta nhìn thấy rất rõ ràng khi tiếp cận
đường trong phúc mạc. Tuy nhiên, chúng tôi
nhận thấy rằng, phẫu thuật ngoài phúc mạc
cũng không phải quá khó khăn nếu chúng ta
tuân thủ một số nguyên tắc như: tìm thấy lá
phúc mạc trước, để bóc tách sang bên đối diện sẽ
tìm thấy niệu quản đoạn bắt chéo bó mạch chậu
dễ dàng, đồng thời làm cho khoang phẫu thuật
rộng rãi hơn nhiều. Trong trường hợp phẫu
thuật ngoài phúc mạc quá khó khăn, chúng ta có
thể chuyển vào tiếp cận trong phúc mạc một
cách dễ dàng và nhanh chóng (cùng các vị trí
trocart), trường hợp này chúng tôi có 1 bệnh
nhân do thủng phúc mạc trong lúc bóc tách

khoang trước phúc mạc. Phẫu thuật ngoài phúc
mạc còn có lợi điểm là ít xì dò nước tiểu hơn,
sinh lý hơn và tránh được những tai biến - biến
chứng có thể xảy ra khi tiếp cận qua ngã trong
phúc mạc.
Tuy nhiên phẫu thuật trong phúc mạc có lợi
điểm trong trường hợp đã phẫu thuật ngoài
phúc mạc vùng chậu, đặc biệt phẫu thuật niệu
quản chậu. Trong trường hợp này tiếp cận
đường ngoài phúc mạc sẽ gặp rất nhiều khó
khăn và có thể thất bại.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Làm nhỏ niệu quản? đưa niệu quản ra ngoài
cơ thể?
Đối với niệu quản giãn lớn, đã từ lâu khi mổ
mở, chúng ta làm nhỏ niệu quản bằng cách cắt
xén theo chiều dọc và khâu lại niệu quản để có
kích thước vừa phải. Công việc này, nếu thực
hiện qua nội soi bên trong cơ thể thì rất khó khăn
và tốn kém thời gian phẫu thuật. Chúng tôi
quyết định đưa niệu quản ra bên ngoài cơ thể
qua lỗ trocart hố chậu cùng bên để thực hiện dễ
dàng hơn rất nhiều. Như vậy việc đưa niệu quản
ra bên ngoài cơ thể có những lợi điểm nổi bật
sau đây: (Hình 1)
- Khi xả hết khí CO2 trong khoang phẫu
thuật, niệu quản được đưa ra ngoài một đoạn
dài khá dễ dàng để thao tác.

- Làm nhỏ niệu quản bằng cách cắt xén theo
chiều dọc và khâu lại niệu quản theo chiều dọc,
đồng thời khâu lộn tay áo niệu quản dễ dàng.
- Đặt thông JJ dễ dàng hơn nhiều.
- Khâu vào niệu quản 1 mũi chỉ chờ, nên khi
đưa vào trong cơ thể để khâu vào niêm mạc
bàng quang thì dễ dàng hơn.

Thời gian phẫu thuật kéo dài
Bảng 1: So sánh thời gian phẫu thuật trung bình của
các nghiên cứu
Tác giả
(2)
Fergany A-2001
Pranjal Modi(12)
2005
Puntambekar(15)
2006
Thuấn-2007

S.lượng
04
05

Đ.tượng
Heo
Người lớn

T.gian
150p

227p

05

Người lớn

220p

19

Người lớn

164p

Đây là phẫu thuật tốn nhiều thời gian. Tuy
nhiên, thời gian phẫu thuật của chúng tôi có
ngắn hơn các tác giả khác, do chúng tôi đưa niệu
quản ra ngoài cơ thể để thao tác làm dễ dàng
hơn rất nhiều cho phẫu thuật. Trong tương lai,
với số liệu phẫu thuật nhiều hơn có thể còn rút
ngắn thêm thời gian phẫu thuật, làm cho phẫu
thuật này càng thêm có tính khả thi.

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

Vết mổ cũ
Theo Selzman.A(12) báo cáo năm 1996, trong
số các tai biến niệu trong sản phụ khoa thì tai

biến niệu quản chiếm 34%. Điều này cho thấy,
nếu phải phẫu thuật sửa chữa tai biến-biến
chứng do phẫu thuật sản phụ khoa thì phẫu
thuật cắm lại niệu quản chiếm tỷ lệ rất lớn. Theo
truyền thống trước đây thì phải phẫu thuật mở.
Tuy nhiên phẫu thuật mở có nhiều nhược điểm
đặc biệt trên những bệnh nhân này. Năm 2005
Branco(5) báo cáo 1 trường hợp, và Pranjal Modi
và cs(12) báo cáo 4 trường hợp, Puntambekar2006(15) cũng báo cáo 4 trường hợp phẫu thuật
cắm lại niệu quản qua nội soi trong phúc mạc do
tai biên – biến chứng sản phụ khoa, và có nhận
xét phẫu thuật nội soi ổ bụng có thể thực hiện
được trên nhóm bệnh nhân này, phẫu thuật này
có nhiều lợi điểm hơn so với mổ mở. 1 bệnh
nhân nữ của chúng tôi cũng có vết mổ cũ do
phẫu thuật triệt sản thắt 2 vòi trứng, nhưng khi
thực hiện phẫu thuật này qua ngã ngoài phúc
mạc không gặp khó khăn nào đáng kể. 2 bệnh
nhân có vết mổ cũ do cắt tử cung gây dò niệu
quản - âm đạo chúng tôi thực hiện phẫu thuật
qua ngã xuyên phúc mạc, tiến trình gỡ dính
không phải quá khó khăn. Như vậy, vết mổ cũ
vùng chậu tuy có làm cho phẫu thuật cắm lại
niệu quản qua nội soi ổ bụng có một vài khó
khăn nhưng không phải là chống chỉ định.

Đặt thông JJ niệu quản
Theo truyền thống, phẫu thuật cắm lại niệu
quản vào bàng quang có đặt ống thông lưu niệu
quản. Tuy nhiên năm 2005, tác giả Pranjal Modi

và cs (12) thực hiện phẫu thuật này qua nội soi ổ
bụng nhưng không đặt thông JJ niệu quản lưu,
sau thời gian theo dõi, tác giả nhận thấy nên đặt
thông JJ niệu quản lưu sẽ tốt hơn cho kết quả
phẫu thuật. Tất cả 19 bệnh nhân của chúng tôi
đều được đặt thông JJ, có khâu cố định vào niệu
quản bằng chỉ chromic 4-0 để dễ dàng cầm nắm
thông JJ đưa vào lỗ xẻ niêm mạc bàng quang
hơn. Sau 1 tháng, chúng tôi rút bỏ thông JJ mà
không gặp khó khăn nào, 2 tháng sau phẫu thuật
tất cả đều cho kết quả tốt. Như vậy theo chúng

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
tôi, nên đặt lưu thông JJ niệu quản trong phẫu
thuật này.

Đường hầm dưới niêm mạc
Đường hầm dưới niêm mạc nhằm tránh tình
trạng trào ngược bàng quang-niệu quản phải
đảm bảo tiêu chuẩn: tỉ lệ chiều dài niêm mạc và
đường kính thiết diện ngang niệu quản không
nhỏ hơn 5:1(6).
Cắm lại niệu quản qua nội soi ổ bụng có làm
đường hầm dưới niêm mạc có kết quả chống
trào ngược bàng quang - niệu quản tốt hơn, ít dò
nước tiểu hơn trong thời gian hậu phẫu(2,12,15). Tất
cả 19 bệnh nhân của chúng tôi đều được phẫu

thuật theo phương pháp Lich - Gregoir cải biên
có làm đường hầm dưới niêm mạc, mà chỉ tăng
thêm một ít thời gian phẫu thuật, và có kết quả
tốt giống các tác giả trên. Như vậy theo chúng ta
nên thực hiện phẫu thuật này có làm đường hầm
dưới niêm mạc.

Khó khăn nhất?
Theo hầu hết các tác giả thực hiện phẫu
thuật cắm lại niệu quản vào bàng quang qua nội
soi ổ bụng thì việc khâu nối niệu quản bên trong
cơ thể là kỹ thuật khó khăn nhất của phẫu thuật
này, yêu cầu phẫu thuật viên phải có kỹ năng tốt
cũng như tính kiên nhẫn trong phẫu thuật(2,4,12,15).
Chúng tôi cũng đồng ý với nhận xét trên của các
tác giả. Tuy nhiên việc đưa niệu quản ra bên
ngoài cơ thể để thao tác đã làm giảm đi rất nhiều
những khó khăn vốn có của phẫu thuật này.
Tác giả Fergany A và cs(2) năm 2001, có nêu
nhận xét trong báo cáo của mình, có thể thực
hiện phẫu thuật này qua ngã nội soi đối với
bướu niệu quản đoạn cuối. Chúng tôi chưa có
kinh nghiệm về phẫu thuật cũng như về mặt
ung thư của nhóm bệnh nhân này. Phải chăng
những bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung giai
đoạn cuối cần chỉ định mở niệu quản ra da,
chúng ta có thể xem xét phẫu thuật qua ngã nội
soi nhằm giảm gánh nặng phẫu thuật cho nhóm
bệnh nhân này???


KẾT LUẬN
Với số liệu phẫu thuật còn ít, thời gian theo
dõi còn chưa đủ dài, nhưng chúng tôi cũng rút
ra được một số nhận xét như sau:
Phẫu thuật cắm lại niệu quản qua nội soi ổ
bụng là phẫu thuật có tính an toàn, hiệu quả,
không quá phức tạp, thuận lợi khi đưa niệu
quản ra ngoài cơ thể để thao tác. Phẫu thuật này
đưa lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Tuy nhiên,
chúng tôi cần phải tiếp tục thực hiện nghiên cứu
để những nhận xét trên càng thêm ý nghĩa hơn.
Phẫu thuật qua ngã ngoài phúc mạc tuy có
khó khăn hơn, nhưng có thể thực hiện được, nếu
quá khó khăn có thể chuyển vào trong phúc mạc
khá dễ dàng và nhanh chóng. Đồng thời phẫu
thuật qua ngã ngoài phúc mạc có tính sinh lý và
lợi điểm hơn so với phẫu thuật trong phúc mạc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.

5.

6.
7.


8.

9.
10.

11.
12.

13.

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
6

Nghiên cứu Y học

Alsikafi N.F., Kuznetsov D. (2004), “Ureteral Injury During
Gynecologic Surgery”, eMedicine, WebMD.
Amr Fergany, Inderbir S. Gill, Ashraf Abdel-Samee, Jihad
Kaouk, Anoop Meraney And Gyungtak Sung (2001),
“Laparoscopic Bladder Flap Ureteral Reimplantation: Survival
Porcine Study”, The Journal Of Urology, Vol. 166, 1920–
1923.
Andou M., Yoshioka T., and Ikuma K. (2003): “Laparoscopic
ureteroneocystostomy”. Obstet Gynecol 102: 1183–1185.
Ansari M. S., Mandhani A., Khurana N., and Kumar A.
(2006), “Laparoscopic Ureteral Reimplantation With
Extracorporeal Tailoring For Megaureter: A Simple Technical
Nuance”, The Journal Of Urology, Vol. 176, 2640-2642.
Branco A.W., Branco A.J. Filho, Kondo W. (2005),

“Laparocopic Ureteral Reimplantation In Ureteral Stenosis
After Gynecologic Laparoscopic Surgery”, The Journal Of
Urology, Vol. 31(1): 51-53.
Choe J.M., Benedict J. (2004), “Vesicoureteral Reflux”,
eMedicine, WebMD.
Dinlenc C.Z., Gerber E., and Wagner J.R.(2004): “Ureteral
reimplantation during robot assisted laparoscopic radical
prostatectomy”. J. Urol 172: 905.
Ehrlich R.M., Gershman A., and Fuchs G. (1994):
“Laparoscopic vesicoureteroplasty in children: initial case
reports”. Urology, 43: 255–261.
Kane C. J. (2004), “Ureteral Stricture”, eMedicine, WebMD.
Lay F., Nahon O., Neuzillet Y., et al: “Contribution of,
laparoscopy to vesico-ureteral reimplantation on vesicopsoas”.
Prog Urol 13: 518–522, 2003.
Mevorach R. A. (2005), “Obstructed Megaureter”,
eMedicine, WebMD.
Modi P., Goel R., and Dodiya S. (2005), “Laparoscopic
Ureteroneocystostomy For Distal Ureteral Injuries”, Urology
66: 751–753.
Nelson CP., Koo H.P. (2005), “Vesicoureteral Reflux”,
eMedicine, WebMD.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
14.

15.

16.


Nghiên cứu Y học

Nezhat C.H., Malik S., Nezhat F., et aldosteron (2004):
“Laparoscopic ureteroneocystostomy and vesicopsoas
hitch for infiltrative endometriosis”. JSLS 8: 3–7.
Puntambekar S., Palep R.J., Gurjar A.M., Sathe R.M.,
Talaulikar A.G., Agarwal G.A., Kashyap M. (2006),
“Lapraroscopic ureteroneocystostomy with Psoas Hitch”, J
Minim Invasive Gynecol. Jul-Aug;13(4): 302-5.
Reddy P.K., and Evans R.M. (1994): “Laparoscopic
ureteroneocystostomy”. J Urol 152: 2057–2059.

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
8

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân


Nghiên cứu Y học

9



×