Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Văn hóa kinh doanh theo tinh thần của Đảng và Chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.89 KB, 39 trang )

VĂN HÓA KINH DOANH
THEO TINH THẦN CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ


Mục lục
1. Tổng quan về văn hóa doanh nghiệp...........................................................................2
1.1.

Văn hoá doanh nghiệp: nền tảng của sự phát triển................................................2

1.2.

Nhận diện văn hóa kinh doanh cổ truyền Việt Nam..............................................9

1.3.

Văn hóa kinh doanh Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.........................................10

1.4.

Văn hóa kinh doanh Việt Nam thời kỳ đổi mới...................................................12

2. Vai trò của văn hóa kinh doanh đối với sự phát triển của doanh nghiệp....................15
3. Những bất cập của văn hóa kinh doanh Việt Nam trong tiến trình hội nhập..............18
4. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp theo tinh thần của Đảng và Chính phủ..................21
5. Giải pháp...................................................................................................................26
6. Xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập.........................32
7. Kết luận.....................................................................................................................37

SON NGUYEN


1


1. Tổng quan về văn hóa doanh nghiệp.
1.1.

Văn hoá doanh nghiệp: nền tảng của sự phát triển.

Văn hóa doanh nghiệp khởi nguồn từ nước Mỹ, sau đó được Nhật Bản xây dựng và phát
triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, văn hóa doanh nghiệp phải bám sâu vào nền văn hóa dân tộc
mới phát huy được tối đa hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa
văn hóa doanh nghiệp với bản sắc văn hóa dân tộc, người ta đã hình thành khái niệm văn
hóa giao thoa, theo đó, các công ty đa quốc gia luôn biết kết hợp lợi ích của mình với văn
hóa doanh nghiệp của nước chủ nhà.
Mỹ, Nhật là các quốc gia quản lý hiệu quả các doanh nghiệp của mình vì họ biết xây
dựng văn hóa doanh nghiệp hợp lý, kích thích được hứng thú lao động và niềm say mê
sáng tạo của công nhân. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào việc các nhà quản lý doanh nghiệp
biết gắn kết văn hóa doanh nghiệp với văn hóa của nơi sở tại.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, mỗi nước phải biết lựa chọn một hướng đi đúng đắn
để phát triển và quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp mình. Điều đó có thể thấy rõ khi
chúng ta quan sát mô hình quản lý doanh nghiệp Nhật Bản. Một mặt, người Nhật tiếp thu
cách quản lý doanh nghiệp và kỹ thuật tiên tiến của Mỹ; mặt khác, các doanh nghiệp
Nhật đã chú trọng thích đáng đến việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, làm cho bản sắc
văn hóa dân tộc hòa quyện trong văn hóa doanh nghiệp.
Ai cũng biết sau thế chiến thứ hai, trong khi tiếp thu ở quy mô lớn hệ thống lý luận quản
lý tiên tiến của Mỹ và châu Âu, Nhật Bản đã biết gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa
tự do vốn là cơ sở của lý luận quản lý Âu, Mỹ để giữ lại văn hóa quản lý kiểu gia tộc. Vì
sao vậy? Vì chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá nhân xung đột với văn hóa truyền thống của
Nhật Bản. Văn hóa Nhật Bản suy cho cùng hòa đồng gắn bó mật thiết với tinh thần
“trung thành hiếu đễ” của Khổng Tử. Với sự lựa chọn khôn ngoan đó, các doanh nghiệp

Nhật Bản đã làm cho văn hóa doanh nghiệp hòa nhập với bản sắc văn hóa dân tộc, sáng
tạo ra hệ thống quản lý độc đáo kiểu Nhật Bản. Cốt lõi của quản lý Nhật Bản là chế độ
làm việc suốt đời, trật tự công lao hằng năm, công đoàn nằm trong nội bộ doanh nghiệp.
Đây thực sự là ba bí quyết lớn của quản lý Nhật Bản. Rõ ràng, một trong những nguyên
nhân làm cho các công ty lớn của Nhật phát triển mạnh mẽ chính là họ biết gắn công
nghệ, kỹ thuật, cách thức quản lý doanh nghiệp hiện đại với văn hóa Nhật vốn lấy trung
hiếu làm gốc.
So với châu Âu, văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ cũng có những điểm khác biệt. Mặc dù
đa số người Mỹ là người Anh và người châu Âu di cư, nhưng khi sang lục địa mới, họ
nuôi dưỡng trong mình chí tiến thủ mạnh mẽ, tinh thần chú trọng thực tế cộng với tinh
thần trách nhiệm nghiêm túc. Tất cả những điều đó đã tạo nên một bản sắc văn hóa mới –
bản sắc văn hóa Mỹ. Người Mỹ cho rằng, ai cũng có quyền lợi hưởng cuộc sống hạnh
SON NGUYEN

2


phúc tự do bằng sức lao động chính đáng của họ. Bản sắc văn hóa Mỹ làm cho người ta
học được chữ tín trong khế ước và tất cả mọi người đều bình đẳng về cơ hội phát triển: ai
nhanh hơn, thức thời hơn, giỏi cạnh tranh hơn thì người đó giành thắng lợi. Có thể nói, ý
thức suy tôn tự do, chú trọng hiệu quả thực tế, phóng khoáng, khuyến khích phấn đấu cá
nhân đã trở thành nhịp điệu chung của văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ. Đây là những bài
học kinh nghiệm hết sức quý báu cho các nước phát triển trong quá trình tạo dựng văn
hóa doanh nghiệp nhằm phát triển đất nước.
Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến vai trò của
văn hoá trong kinh doanh. Có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa kinh doanh, chủ yếu
tập trung hai xu hướng: xu hướng thứ nhất, coi chủ thể của văn hóa kinh doanh chính là
các doanh nghiệp, do đó văn hóa kinh doanh là văn hoá doanh nghiệp (corporate culture)
hay còn gọi là văn hoá tổ chức (organizational culture). Xu hướng thứ hai, đang ngày
càng phổ biến hơn khi coi kinh doanh là hoạt động có liên quan đến mọi thành viên trong

xã hội, nên văn hóa kinh doanh là một phạm trù ở tầm cỡ quốc gia, còn văn hoá doanh
nghiệp chỉ là một thành phần trong văn hóa kinh doanh. Qua xem xét, nghiên cứu các
định nghĩa về văn hóa kinh doanh của một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, trong
khuôn khổ bài viết này, xin đưa ra định nghĩa: "văn hóa kinh doanh là sự thể hiện phong
cách kinh doanh của một dân tộc. Nó bao gồm các nhân tố rút ra từ văn hoá dân tộc, được
các thành viên trong xã hội vận dụng vào hoạt động kinh doanh của mình và cả những giá
trị, triết lý… mà các thành viên này tạo ra trong quá trình kinh doanh". Định nghĩa này
tương đối bao quát và rõ ràng, theo đó, văn hoá tổ chức hay văn hoá doanh nghiệp sẽ chỉ
được nghiên cứu với tư cách là một thành phần trong văn hóa kinh doanh của một quốc
gia.
Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị tinh thần mà doanh nghiệp tạo ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của các thành viên
cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp gắn với đặc
điểm từng dân tộc, trong từng giai đoạn phát triển cho đến từng doanh nhân, từng người
lao động, do đó, rất phong phú, đa dạng. Song Văn hoá doanh nghiệp cũng không phải là
vô hình, khó nhận biết mà rất hữu hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những trong
hành vi kinh doanh giao tiếp của công nhân, cán bộ trong doanh nghiệp, mà cả trong
hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, từ mẫu mà, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng.
Văn hoá doanh nghiệp là cơ sở của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể trong sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính
vì vậy, có thể nói thành công hoặc thất bại của các doanh nghiệp đều gắn với việc có hay
không có văn hoá doanh nghiệp theo đúng nghĩa của khái niệm này.
Công cuộc đổi mới được khẳng định từ Đại hội toàn quốc lền thứ VI của Đảng (12-1986)
và thể chế kinh tế thị trường được công nhận đã mở ra cho các doanh nghiệp, doanh nhân
nước ta những điều kiện mới có ý nghĩa quyết định để từng bước hình thành văn hoá
SON NGUYEN

3



doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội ở nước ta, đó là văn hoá doanh nghiệp
Việt Nam. Công cuộc đổi mới đã đem lại sự giải phóng các lực lượng sản xuất, quyền tự
do kinh doanh của mọi công dân trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đó cũng
là phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cho công cuộc trấn hưng đất nước; mọi người
được tự do phát huy tài năng, trí tuệ trong kinh doanh, làm giàu cho mình và cho đất
nước,như Đại hội IX của Đảng đã quyết định. Có thể nói đây là sự thể hiện nổi bật nhất
của văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lý: là sự lãnh đạo phù hợp quy luật phát triển của thời
đại, phù hợp với nguyện vọng của cả dân tộc, một dân tộc gan góc đấu tranh chống ngoại
xâm trong hàng thế kỷ, nay không cam tâm chịu mãi cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Chính
công cuộc đổi mới đã mở đường cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp dân doanh
và đội ngủ doanh nhân mới, mở đường cho sự hình thành và phát triển văn hoá doanh
nhân mới, mở đường cho sự hình thành và phát triển văn hoá doanh nghiệp Việt Nam.
Cụ thể, văn hoá doanh nghiệp thể hiện trên hai mặt: mục đích kinh doanh và phương
pháp kinh doanh, trong đó mục đích kinh doanh là quyết định.
Về mục đích kinh doanh, thường có hai điểm chung như sau:
- Đạt hiệu quả cao, tức là lợi nhuận tối đa cho cá nhân và cho cộng đồng và hiệu quả xã
hội. Điều cần phải coi trọng là mục đích lợi nhuận và hiệu quả cá nhân, vì đó là động lực
trực tiếp của mỗi doanh nhân khi tiến hành kinh doanh; nhưng cũng có trường hợp mục
đích lợi nhuận và hiệu quả cá nhân mâu thuẫn với mục đích và hiệu quả xã hội; muốn
đảm bảo sự thống nhất giữa mụ đích cá nhân và mục đích cộng đồng thì cần phải xác
định đúng mức độ của từng mcụ đích và phương pháp để đạt cả hai phần mục đích.Xác
định cho đúng mức độ và phương pháp, đó chính là văn hoá doanh nhân.
- Có tính nhân văn, thể hiện về hai mặt: đối với con người và đối với thiên nhiên. Đối với
con người (là quan trọng nhất ) đó là đáp ứng đến mức cao nhất nhu cầu của con người;
là tôn trọng phẩm giá, nhân cách con người, loại trừ việc xây dựng sự giầu có của mình
trên sự khánh kiệt của người khác; cũng là không chơi xấu, dùng những thủ đoạn, mánh
khoé, cạm bãy để hại nhau trong kinh doanh. Đối với thiên nhiên, đó là gắn kinh doanh
với bảo vệ môi trường sinh thái, không làm ô nhiễm, huỷ hoại môi trường cũng tức là bảo
đảm sự bền vững của mỗi doanh nhiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
Về phương pháp kinh doanh (phong cách kinh doanh) cũng tức là doanh nghịêp đạt tới

mục đích bằng con đường nào với những nguồn lực nào. Tuy mục đích kinh doanh là
nhân tốa quyết định nhưng phương pháp kinh doanh lại liên quan chặt chẽ đối với việc
thực hiện mục đích, có nghĩa là không thể đạt mục đích băng bất cứ mục đích nào mà
phải tuân theo những nguyên tắc luật pháp và đại đức trong khi thực hiện cac phương
pháp kinh doanh, đó chính là văn hoá trong phương pháp kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thực tế, có những điểm chung về phương pháp kinh doanh, đó là:
SON NGUYEN

4


- Tuân thủ pháp luật (kể cả pháp luật quốc gia, quốc tế cũng như điều lệ, nội quy của từng
doanh nghiệp); bảo đảm minh bạch, công khai trong kinh doanh.
- Chú trọng khoa học quản lý, tuân theo các nguyên lý quản lý khoa học, dựa vào khoa
học mà tổ chức bộ máy quản lý, thực hiện các phương pháp kinh doanh.
- Dựa vào vào khoa học, kỹ thuật, vận dụng công nghệ tiên tiến trong điều hành sản xuất
kinh doanh.
- Chú trọng quan hệ con người (đây cũng là một khuynh hướng mới của phương pháp
kinh doanh hiện đại); phát huy năng lực xã hội (cũng còn gọi là vốn xã hội) bao gồm năm
nhân tố: giới lãnh đạo chính trị, quan chức quản lý, trí thức, doanh nhân, và người lao
động; quan trọng nhất là khơi dậy và phát huy tổng hợp các tiềm năng, thực hiện sự cố
kết của các nhân tố đó vì mục tiêu chung.
Có thể coi đó là những điểm chung nhất của văn hoá doanh nghiệp. Những điểm chung
đó được vận dụng cụ thể trong từng thời kỳ nhất định, chịu ảnh hưởng của chế độ sở hữu,
hệ thống thể chế (trong đó chủ yếu là thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế hành
chính, thể chế văn hoá) của từng nước mà có những thay đổi theo những chiều hướng
khác nhau. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là mục đích kinh doanh quyết định phương
pháp kinh doanh; mục đích kinh doanh nói lên tầm vóc cao, thấp của văn hoá doanh
nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam được hình thành là một phần quan trọng của văn hóa

Việt Nam được lưu truyền và bồi đắp từ thế hệ này đến thế hệ khác mà chúng ta cần gìn
giữ và bồi đắp tiếp trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Văn hoá doanh nghiệp nước ta tiếp thu những nhân tố văn hoá
trong kinh doanh hình thành qua nhiều năm của các nền kinh tế hàng hoá trên thế giới,
đồng thời tiếp thu và phát huy những tinh hoa văn hoá trong kinh doanh của cha ông, vận
dụng phù hợp với đặc điểm của xã hội ngày nay, đó là hiện đại hoá truyền thống đi đôi
với sự truyền thống hoá hiện đại. Chỉ có như vậy mới kết hợp được tốt truyền thống và
hiện đại, đó là sự kết hợp có chọn lọc và nâng cao, từng bước hình thành văn hoá doanh
nghiệp mang đặc sắc Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự
chuyển đổi cơ chế kinh doanh, các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước
phải trở thành đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ. Doanh nghiệp muốn đứng vững trong
cạnh tranh thị trường gay gắt nhất thiết phải tiến hành xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp là sự tổng hòa của quan niệm giá trị, tiêu chuẩn đạo đức, triết lý
kinh doanh, quy phạm hành vi, ý tưởng kinh doanh, phương thức quản lý và quy tắc chế
độ được toàn thể thành viên trong doanh nghiệp chấp nhận, tuân theo. Văn hóa doanh

SON NGUYEN

5


nghiệp lấy việc phát triển toàn diện con người làm mục tiêu cuối cùng. Cốt lõi của văn
hóa doanh nghiệp là tinh thần doanh nghiệp và quan điểm giá trị của doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp đều nỗ lực xây dựng một hệ thống quan
điểm giá trị để công nhân viên chức chấp nhận, tạo ra sự hài hòa trong nội bộ doanh
nghiệp, một không khí văn hóa tích cực để phát huy thế mạnh văn hóa của tập thể, tăng
cường nội lực và sức mạnh của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp là một giai đoạn
phát triển của tư tưởng quản lý doanh nghiệp hiện đại, thể hiện sự chuyển dịch chiến lược
phát triển kỹ thuật nhằm tạo nên những sản phẩm hàm chứa hàm lượng văn hóa cao. Bởi

thế, có thể coi văn hóa doanh nghiệp là yếu tố tối quan trọng của thực tiễn doanh nghiệp
đương đại.
Văn hóa của quốc gia này nếu muốn bén rễ vào một quốc gia khác, một dân tộc khác mà
không ăn khớp với bản sắc văn hóa dân tộc nước đó tất sẽ bị văn hóa bản địa bài xích, gạt
bỏ. Vì thế, văn hóa doanh nghiệp của xí nghiệp dứt khoát phải coi bản sắc văn hóa dân
tộc bản địa là cơ sở để phát triển. Bản chất của văn hóa doanh nghiệp là đối nội phải tăng
cường tiềm lực, quy tụ được sức sáng tạo của công nhân viên chức, khích lệ họ sáng tạo
ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp; đối ngoại phải được xã hội bản địa chấp nhận. Cả
hai mặt này đều liên quan tới văn hóa dân tộc sở tại, liên quan tới quan niệm giá trị, đặc
trưng hành vi của dân tộc đó. Nếu doanh nghiệp biết xây dựng văn hóa doanh nghiệp trên
cơ sở bản sắc văn hóa dân tộc mà họ đang sống thì họ sẽ thành công, còn nếu chỉ biết du
nhập nguyên xi mô hình văn hóa doanh nghiệp nước ngoài, không gắn kết với văn hóa
bản địa, họ sẽ thất bại.
Việt Nam là quốc gia có hàng nghìn năm văn hiến. Qua các thời kỳ lịch sử khác nhau,
dân tộc Việt Nam đã xây dựng nên hệ quan điểm giá trị, nguyên tắc hành vi và tinh thần
cộng đồng mang bản sắc Việt Nam đậm nét. Sự ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, văn hóa
Ấn Độ và văn hóa phương Tây đã khiến cho văn hóa Việt Nam đa dạng, nhiều màu sắc.
Hơn nữa, 54 dân tộc trên đất nước ta là 54 nền văn hóa khác nhau, góp phần làm phong
phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay, một mặt, chúng ta phải tích cực tiếp thu kinh nghiệm quản lý doanh
nghiệp của các nước phát triển. Mặt khác, cần nỗ lực xây dựng văn hóa doanh nghiệp tiên
tiến, hài hòa với bản sắc văn hóa dân tộc, với văn hóa từng vùng, miền khác nhau thúc
đẩy sự sáng tạo của tất cả các thành viên trong các doanh nghiệp khác nhau.
Đặc điểm nổi bật của văn hóa dân tộc là coi trọng tư tưởng nhân bản, chuộng sự hài hoà,
tinh thần cầu thực, ý chí phấn đấu tự lực, tự cường… đây là những ưu thế để xây dựng
văn hóa doanh nghiệp mang bản sắc Việt Nam trong thời hiện đại. Tuy nhiên, văn hóa
Việt Nam cũng có những điểm hạn chế: người Việt Nam phấn đấu cốt để “vinh thân phì
gia”, yêu thích trung dung, yên vui với cảnh nghèo, dễ dàng thoả mãn với những lợi ích
trước mắt, ngại cạnh tranh; tư tưởng “trọng nông khinh thương” ăn sâu vào tâm lý người
SON NGUYEN


6


Việt đã cản trở không nhỏ đến việc mở rộng kinh tế thị trường, làm ăn; tập quán sinh hoạt
tản mạn của nền kinh tế tiểu nông không ăn nhập với lối sống hiện đại; thói quen thủ cựu
và tôn sùng kinh nghiệm, không dám đổi mới, đột phá gây trở ngại cho sự phát triển của
các doanh nghiệp hiện đại…
Tuy nhiên, trong xã hội tri thức ngày nay, những mặt hạn chế dần được khắc phục bởi
trình độ giáo dục của mọi người ngày càng được nâng cao, quan điểm về giá trị cũng có
những chuyển biến quan trọng. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế thế giới,
nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, quản lý kinh doanh
doanh nghiệp cần phải được tổ chức lại trên các phương diện và giải quyết hài hòa các
mối quan hệ: quan hệ thiên nhiên với con người, quan hệ giữa con người với con người,
giữa cá nhân với cộng đồng, giữa dân tộc và nhân loại…
Ngày nay, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới. Toàn cầu hóa kinh
tế đòi hỏi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải có những bước tính khôn ngoan, lựa
chọn sáng suốt. Không thể để xảy ra tình trạng quốc tế hóa văn hóa doanh nghiệp, mà
phải trên cơ sở văn hóa Việt Nam để thu hút lấy tinh hoa của nhân loại, sáng tạo ra văn
hóa doanh nghiệp tiên tiến nhưng phù hợp với tình hình và bản sắc văn hóa Việt Nam.
Từ cái nhìn vĩ mô, có thể thấy quá trình xác lập và xây dựng văn hóa doanh nghiệp không
ngừng thay đổi theo sự phát triển của thời đại và của dân tộc. Từ những năm 90 của thế
kỷ XX đến nay có 4 xu hướng chủ yếu phát triển của văn hóa doanh nghiệp: 1- Tôn trọng
con người với tư cách là chủ thể hành vi, coi trọng tính tích cực và tính năng động của
con người trong kinh doanh, coi việc nâng cao tố chất của con người là điều kiện quan
trọng đầu tiên của phát triển doanh nghiệp; 2- Coi trọng chiến lược phát triển và mục tiêu
cơ bản của doanh nghiệp để bồi dưỡng ý thức văn hóa doanh nghiệp cho toàn thể công
nhân viên chức; 3- Coi trọng việc quản lý môi trường vật chất và tinh thần của doanh
nghiệp, tạo ra một không gian văn hóa tốt đẹp, bồi dưỡng ý thức tập thể và tinh thần đoàn
kết nhằm cống hiến sức lực và trí tuệ cho doanh nghiệp; 4- Coi trọng vai trò tham gia

quản lý của công nhân viên chức, khích lệ tinh thần trách nhiệm của tất cả các thành viên
trong doanh ngiệp.
Xây dựng văn hóa kinh doanh là mục tiêu nhưng lại là thách thức lớn đối với hầu hết các
doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Hơn lúc nào hết, chúng
ta cần nhận thức rõ những hạn chế, bất cập trong văn hóa kinh doanh Việt Nam, từ đó tìm
ra hướng đi cho doanh nghiệp, doanh nhân để có thể tích cực, chủ động trong hội nhập,
đảm bảo xây dựng nền văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
làm nền tảng cho sự phát triển bền vững nền kinh tế đất nước trong thời gian tới.
Nếu văn hoá là nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, thì văn hoá
kinh doanh (văn hóa kinh doanh) chính là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động
kinh doanh của một quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay, muốn đảm
SON NGUYEN

7


bảo sự phát triển bền vững cho hoạt động kinh doanh của quốc gia, hơn lúc nào hết,
chúng ta cần có sự tìm hiểu và nghiên cứu thấu đáo về lĩnh vực này, để có thể góp phần
định hướng đúng đắn cho kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Theo nghĩa rộng, văn hoá kinh doanh là một phương diện của văn hoá trong xã hội, là
văn hoá trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh, bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần, những phương thức và kết quả hoạt động của con người được tạo ra và sử dụng
trong quá trình kinh doanh.
Theo định nghĩa trên, các nhân tố cấu thành văn hoá kinh doanh bao gồm:
* Các nhân tố văn hoá được chủ thể kinh doanh lựa chọn và vận dụng vào hoạt động kinh
doanh, như tri thức, kiến thức, sự hiểu biết về kinh doanh; ngôn ngữ, niềm tin, tín ngưỡng
và tôn giáo; các giá trị văn hoá truyền thống; sự giao lưu và giao tiếp; các hoạt động văn
hoá tinh thần…
* Các sản phẩm, các giá trị văn hoá mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh
doanh. Chúng mang đặc điểm hoặc là những giá trị hữu hình, như hình thức, mẫu mã của

sản phẩm..., hoặc là những giá trị vô hình, như phương thức tổ chức và quản lý kinh
doanh, hệ giá trị, tâm lý và thị hiếu tiêu dùng…
Văn hoá kinh doanh biểu hiện qua mọi khía cạnh, mọi quan hệ của hoạt động kinh doanh.
Trong tổ chức, quản lý kinh doanh, văn hoá thể hiện ở sự lựa chọn phương hướng kinh
doanh, sự hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ, về những mối quan hệ giữa người và người
trong cộng đồng doanh nghiệp; ở việc biết tuân theo các quy tắc và quy luật của thị
trường; ở việc phát triển và bảo hộ những hàng hoá có bản sắc văn hoá dân tộc; ở việc
hướng dẫn và định hướng tiêu dùng; ở việc chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn một phong cách
văn hoá trong doanh nghiệp…
Văn hoá kinh doanh còn thể hiện ở sự giao lưu, giao tiếp trong kinh doanh. Đó là mối
quan hệ giữa người bán và người mua, là văn hoá trong giao tiếp với khách hàng để tạo ra
sự thích thú đối với họ; đó là thái độ với đối tác làm ăn, với đối thủ cạnh tranh (cạnh
tranh để cùng tồn tại và phát triển); là văn hoá trong đàm phán, ký kết các hợp đồng
thương mại, là văn hoá trong soạn thảo các thông điệp quảng cáo… Đó còn là sự giao lưu
văn hoá giữa các vùng, miền của mỗi quốc gia và giữa các quốc gia.
Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như đóng góp đầy đủ cho ngân sách nhà
nước, tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, bảo vệ môi trường sinh thái, tôn trọng
những quy phạm đạo đức trong quan hệ xã hội, quan hệ kinh doanh, tôn trọng các giá trị
truyền thống… cũng là một sắc thái của văn hoá kinh doanh.
Văn hoá kinh doanh còn thể hiện ở hành vi, ở chính phẩm chất đạo đức, tài năng và
phong cách của nhà kinh doanh. Đó là những phẩm chất đạo đức, như tính trung thực, sự
SON NGUYEN

8


tôn trọng con người, luôn vươn tới sự hoàn hảo…; là sự hiểu biết về thị trường, về nghề
kinh doanh, khả năng xử lý tốt các mối quan hệ, nhanh nhạy, quyết đoán và khôn ngoan;
là phong cách làm việc, phong cách ứng xử và sinh hoạt, phong cách diễn đạt… của nhà
kinh doanh.

Văn hoá kinh doanh còn thể hiện ở các hoạt động văn hoá tinh thần của doanh nghiệp
(như các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao…) nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động của con người trong sản xuất, kinh doanh.
Văn hoá kinh doanh chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, như nền văn hoá xã hội, thể
chế xã hội, sự khác biệt và giao lưu văn hoá cũng như của quá trình toàn cầu hoá…
Văn hoá kinh doanh có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi văn hoá
kết tinh vào trong hoạt động kinh doanh sẽ tạo thành phương thức kinh doanh có văn hoá.
Đó là lối kinh doanh trung thực và ngay thẳng, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh, không
làm tổn hại đến các truyền thống và tập quán tốt đẹp của dân tộc, tạo ra mối quan hệ mật
thiết giữa nhà sản xuất, nhà kinh doanh và người tiêu dùng theo nguyên tắc các bên cùng
có lợi. Chỉ khi thực hiện kiểu kinh doanh có văn hoá mới kết hợp được tính hiệu quả cao
và sự phát triển bền vững của chủ thể. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, cạnh tranh giữa
các tổ chức kinh doanh ngày càng gay gắt thì các giá trị văn hoá ngày càng được chú ý và
phát triển.
1.2.

Nhận diện văn hóa kinh doanh cổ truyền Việt Nam.

Ở nước ta nếu chỉ tính trong 100 năm qua, thì trong những năm đất nước bị đô hộ, nhiều
doanh nhân đã khởi xướng những ý tưởng rất mới trong việc phát triển công thương
nghiệp, hình thành những nền móng đầu tiên của văn hoá doanh nghiệp nước ta, đó là
tinh thần dân tộc trong kinh doanh, dũng cảm cạnh tranh với tư bản Pháp, Hoa lúc đó
đang làm chủ trên thị trường. Lịch sử đã ghi lại tên tuổi của những doanh nhân thời đó là
"tư sản dân tộc" như Bạch Thái Bưởi, được coi là "vua vận tải Bắc Việt đầu thế kỷ", "bậc
anh hùng trong kinh tế giới nước nhà" (lời nhà học giả Nguyễn Văn Tố), như Nguyễn
Sơn Hà, chủ hãng sơn Resistanco dùng thương hiệu của mình đáng bại nhiều hãng sơn
đương thời, như Trần Chánh Chiếu, đã chủ trì nhiều cơ sở kinh doanh và ra báo, là một
trong những nhân vật quan trọng của phong trào Minh Tân đất Nam Kỳ vào những năm
đầu của thế kỷ XX như Trương Văn Bền với nhãn hiệu xà phòng Cô Ba nổi tiếng cả
nước. Thời đó, phong trào Duy Tân dấy lên rầm rộ từ miền Trung đến miền Bắc, ngoài

việc khuyến khích nâng cao dân trí, canh tân đất nước, đã kích thích nhiều doanh nhân
người Việt lập ra các hiệu buôn, đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh. Rồi đây,
chúng ta còn có dịp tổng kết để đánh giá một cách đầy đủ hơn những bước phát triển của
doanh nhân Việt Nam trong lịch sử, nhưng điều có thể khẳng định là: trên khắp đất nước
ta, trong những năm bị đế quốc thống trị, đã có không ít những doanh nhân ý thức được

SON NGUYEN

9


nỗi đau mất nước, luôn luôn đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh, - một nội dung cơ
bản của văn hoá doanh nghiệp.
Lương Văn Can, một nhà cách mạng, đồng thời là một người thầy lỗi lạc trong giới
doanh thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, khi phân tích nguyên nhân không phát triển
của thương mại nói riêng và của kinh tế Việt Nam nói chung, đã đưa ra 10 điểm. Đó là:











Người mình không có thương phẩm, tức là sản xuất kém, ít hàng hoá có uy tín;
Không có thương hội, tức là không biết liên kết với nhau trong kinh doanh;
Không có tín thực, tức là không biết giữ chữ tín;

Không có kiên tâm, ít theo đuổi một việc gì đến cùng;
Không có nghị lực, dễ làm khó bỏ;
Không biết trọng nghề, do chỉ chú trọng vào nghề nông, bỏ qua việc tìm hiểu và
nâng cao các nghề khác;
Không có thương học, tức là không có kiến thức về kinh doanh;
Kém đường giao thiệp, do xã hội Việt Nam luôn đóng cửa với thế giới bên ngoài
nên hễ ra ngoài là dễ bị lạc lõng, không hoà nhập được;
Không biết tiết kiệm, người Việt Nam tuy nghèo nhưng không biết tận dụng những
thứ mình có, thường hoang phí;
Khinh nội hoá với tâm lý chung là sính hàng ngoại. Như vậy, trong văn hóa kinh
doanh cổ truyền của chúng ta, yếu tố tích cực, phù hợp với kinh doanh có phần ít
hơn những yếu tố tiêu cực. Nhận diện chính xác những yếu tố này sẽ giúp chúng ta
lý giải được phần nào những hạn chế của nền kinh tế Việt Nam trong những giai
đoạn tiếp sau.

1.3.

Văn hóa kinh doanh Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.

Trong những năm thực hiện thể chế kế hoạc hoá tập chung, do thị trường và các quy luật
của thị trường không được công nhận, các doanh nghiệp nước ta tiến hành sản xuất kinh
doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh được ban hành từ trên, sản phẩm làm ra được giao nộp lên
cấp trên, không tính đến nhu cầu thị trường, không hoạch toán đến giá cả, cộng với tiền
lương, tiền thưởng trong doanh nghiệp không gắn với kết quả sản xuất, v.v... Thể chế kế
hoạch hoá tập trung cũng không bảo đảm trách nhiệm và quyền hạn của doanh nghiệp với
tư cách là một thực thể kinh doanh, hạn chế tính sáng tạo, tinh thần kinh doanh của người
quản lý doanh nghiệp. Tình trạng đó đã làm sai lệch bản chất của kinh doanh, cũng có thể
gọi đó là "sản xuất mà không kinh doanh".
Tuy vậy, cũng trong thời kỳ này, có những cán bộ quản lý doanh nghiệp đã mạnh dạn tìm
tòi, thử nghiệp cách làm ăn mới, tạo ra một số mô hình kinh doanh có hiệu quả. Những

mô hình này đã nêu lên một số nét đặc trưng của văn hoá doanh nghiệp thời kỳ đó: tinh
thần dám nghĩ dám làm, năng động sáng tạo, vươn lên khắc phục khó khăn, thiếu thốn.
Truyền thống văn hoá đó đã có ảnh hưởng tốt đối với thế hệ doanh nhân ngày nay.
SON NGUYEN

10


Dưới thời Pháp thuộc: sự giao lưu với văn hoá Pháp đã để lại một dấu ấn sâu đậm cho
văn hóa kinh doanh Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, kinh doanh trở thành
một ngành độc lập, không phụ thuộc vào nông nghiệp. Các ngành sản xuất công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp đều phát triển hơn thời kỳ trước. Sự thành công bước đầu của
một số nhà kinh doanh người Việt, cùng với việc tiếp thu những tư tưởng mới, đã cải
thiện đáng kể hình ảnh doanh nhân và nghề kinh doanh trong con mắt người Việt. Thời
kỳ này đã xuất hiện một tầng lớp tư sản dân tộc, giành lại được độc quyền thương mại từ
tay tư sản nước ngoài và bắt đầu gây dựng lòng tự hào được làm nhà kinh doanh. Thương
mại và ngoại thương đều phát triển nhanh chóng. Đặc biệt, theo học giả Đào Duy Anh,
ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Việt Nam, dưới tên là xứ Đông Pháp, đã đứng thứ
hai thế giới về xuất khẩu gạo, chỉ sau Mianma.
Giai đoạn 1954-1986: trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam bị phân chia thành hai miền:
miền Bắc được giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, tiến lên xây dựng CNXH,
còn miền Nam bị chiếm đóng, thay đổi theo chế độ thực dân mới của Mỹ. Do sự khác
biệt này mà văn hóa kinh doanh ở miền Bắc và miền Nam cũng phát triển theo những
chiều hướng khác nhau. văn hóa kinh doanh miền Bắc mang đặc tính của văn hóa kinh
doanh XHCN, coi trọng công bằng xã hội nhưng không coi trọng hiệu quả, tiêm nhiễm
bệnh chủ quan, duy ý chí, cơ chế quản lý cồng kềnh, mang nặng tính quan liêu, coi rẻ
kinh doanh và thương nhân… ở miền Nam, qua giao lưu với văn hoá Mỹ, văn hóa kinh
doanh nơi đây tiếp thu được một số kiến thức, yếu tố cần thiết cho kinh tế thị trường như
cơ sở hạ tầng, công nghệ, kiến thức kinh doanh hiện đại, tác phong làm việc công
nghiệp… nhưng cũng tiêm nhiễm tâm lý vọng ngoại khá nặng nề, nhất là tôn sùng những

gì của Mỹ, cùng một số thói xấu khác như chủ nghĩa thực dụng, lối sống gấp, thích
hưởng thụ, xa rời bản sắc dân tộc…
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, hai miền Nam, Bắc cùng bước vào con đường xây
dựng CNXH, hai nền văn hóa kinh doanh dần hoà hợp với nhau, trở thành một nền văn
hóa kinh doanh thống nhất trong toàn quốc nhưng vẫn bảo tồn một số khác biệt giữa hai
miền. Nền văn hóa kinh doanh này tuy có bổ sung cho văn hóa kinh doanh cổ truyền một
số ưu điểm như: coi trọng công bằng xã hội, nâng cao vị thế cho phụ nữ, có tinh thần
vượt khó vươn lên… nhưng lại làm tăng lên một số yếu tố tiêu cực cho kinh doanh như:
tâm lý coi rẻ nghề buôn nói chung và kinh doanh nói riêng, tính chủ quan duy ý chí, cơ
chế tổ chức quan liêu, thiếu hiệu quả, tính cứng nhắc, kém năng động với thị trường…
Đây là một trở ngại khá nặng nề cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các nhà kinh
doanh Việt Nam nói riêng khi bước vào cơ chế thị trường.
1.4.

Văn hóa kinh doanh Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, văn hóa doanh nghiệp Việt Nam có 4
đặc điểm nổi bật
SON NGUYEN

11


Thứ nhất, tính tập thể: Quan niệm tiêu chuẩn đạo đức của doanh nghiệp là do toàn thể
thành viên doanh nghiệp tích luỹ lâu dài cùng nhau hoàn thành, có tính tập thể.
Thứ hai, tính quy phạm: Văn hóa doanh nghiệp có công năng điều chỉnh kết hợp: trong
trường hợp lợi ích cá nhân và doanh nghiệp xảy ra xung đột thì công nhân viên chức phải
phục tùng các quy phạm, quy định của văn hóa mà doanh nghịêp đã đề ra, đồng thời
doanh nghiệp cũng phải biết lắng nghe và cố gắng giải quyết hài hòa để xóa bỏ xung đột.
Thứ ba, tính độc đáo: Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau, doanh nghiệp khác nhau ở

cùng một quốc gia đều cố gắng xây dựng văn hóa doanh nghiệp độc đáo trên cơ sở văn
hóa của vùng đất mà doanh nghiệp đang tồn tại. Văn hóa doanh nghiệp phải bảo đảm tính
thống nhất trong nội bộ từng doanh nghiệp, nhưng giữa các doanh nghiệp khác nhau cần
phải tạo nên tính độc đáo của mình.
Thứ tư, tính thực tiễn: Chỉ có thông qua thực tiễn, các quy định của văn hóa doanh nghiệp
mới được kiểm chứng để hoàn thiện hơn nữa. Chỉ khi nào văn hóa doanh nghiệp phát huy
được vai trò của nó trong thực tiễn thì lúc đó mới thực sự có ý nghĩa.
Có thể nêu lên một số điểm nổi bật về văn hoá doanh nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện
nay như sau:
Trước hết, từ công cuộc đổi mới được bắt đầu đến nay, ở nước ta đã dần dần hình thành
mục đích kinh doanh mới, đó là kinh doanh vì lợi ích của mỗi doanh nghiệp và lợi ích
của cả dân tộc. Đương nhiên, tranh thủ lợi nhuận tối đa là động cơ thúc đẩy ý trí kinh
doanh của các doanh nghiệp, của mỗi doanh nhân, chúng ta cần đặc biệt quan tâm, không
vì nhấn mạnh lợi ích chung mà coi nhẹ mục đích kinh doanh của mỗi cá nhân doanh
nhân. Song, ngay trong thời kỳ Pháp thuộc, chúng ta cũng có những doanh nhân không
chỉ làm giàu cho mình mà còn làm giàu cho đất nước như Bạch Thái Bưởi, vừa làm giàu
vừa quan tâm những hoạt động xã hội từ thiện như Nguyễn Sơn Hà. Ngày nay, mục đích
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp gắn với công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, vì
lợi ích của cá nhân, gia đình và lợi ích của cả đất nước, dân tộc. Khác với doanh nhân các
nước kinh tế phát triển và cũng không nên bị nhìn nhận như giai cấp bóc lột, doanh nhân
nước ta ngày nay cũng có nỗi nhục của một dân tộc kiên cường, thông minh mà vẫn phải
chịu cảnh lạc hậu, kém phát triển. Mỗi doanh nghiệp phát triển không chỉ vì bản thân
doanh nhân, mà còn vì sự phát triển của quê hương, của mỗi huyện, tỉnh; động cơ đó thúc
đẩy mỗi doanh nhân vươn lên. Mục đích ấy đang được thể hiện ngày càng rõ nét trong
chiến lược phát triển của mỗi doanh nghiệp; cũng đã được thể hiện trong các doanh
nghiệp có hàng hoá được người tiêu ding bình chọn đạt chất lượng cao trong những năm
gần đây.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mục đích kinh doanh của mỗi doanh nhân ở nước ta hiện
nay cũng rất đa dạng về tính chất, bởi vì lẽ sống của con người là đa dạng, phong phú,
SON NGUYEN


12


nhiều màu vẻ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, thể
chế kinh tế cũng đang được chuyển đổi từng bước. Qua các cuộc kiểm tra xã hội học, có
thể thấy một số khuynh hướng nổi bật như: có những người chỉ mong kiếm được nhiều
tiền; cũng có người muốn qua kinh doanh mà, có danh tiếng lớn, uy tín và địa vị xã hội
cao; có người muốn vươn lên, tiếp nỗi truyền thống gia đình, báo hiếu cha mẹ; lại có
những người kinh doanh vì khao khát tự hoàn thiện bản thân, có ý chí mạnh về sự phát
triển tự do của con người trong chế độ xã hội mới, v.v…
Hai là, văn hoá doanh nghiệp đòi hỏi gắn bó chặt chẽ hiệu quả kinh doanh và tính nhân
văn trong kinh doanh; không thể đạt hiệu quả bằng bất cứ giá nào mà coi nhẹ những giá
trị nhân văn (tôn trọng con người, bảo vệ môi trường). Điều đặc biệt quan trọng là nâng
cao tinh thần cộng đồng dân tộc trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, một đặc điểm của văn hoá doanh nghiệp mà chúng ta cần xây dựng: chúng ta đề
cao ý chí tự lập, tự cường, sức vươn lên của mỗi doanh nghiệp, đồng thời huy động tính
cộng đồng, tính truyền thống "chị ngã, em nâng" của dân tộc. Đồng thời chúng, khuyến
khích doanh nghiệp tham gia các hoạt động xã hội, như xoá đói giảm nghèo, cứu trợ đồng
bào gặp thiên tai, tham gia các hoạt động từ thiện.v.v…
Điều cần nhấn mạnh hiện nay là khắc phục chủ nghĩa thực dụng, dùng mọi thủ đoạn để
đoạt lợi nhuận cao, thậm chí siêu lợi nhuận, bất kể việc làm đó có hại cho người khác,
các thủ đoạn làm giàu bất chấp tình nghĩa, thậm chí làm giàu trên sự đau khổ của đối tác,
trên sự phá sản của những doanh nghiệp yếu thế. Có thể thấy rõ nhược điểm về mặt này
của doanh nghiệp nước ta trong nhiều trường hợp như cạnh tranh bất hợp pháp, tranh
giành thị trường, đáng phê phán nhất là những thủ đoạn hạ giá, phá giá khi xuất khẩu
hàng hoá. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực hiện nay, khi cuộc cạnh tranh về
chất lượng và giá cả hàng hoá diễn ra gay gắt, chúng ta đề cao việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp lại càng phải đề cao tính tập thể, truyền thống đoàn kết
dân tộc trong kinh doanh.

Do vậy, cần đặc biệt phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp. Đó là những tổ chức
xã hội – nghề nghiệp nhằm khai thác mọi nguồn lực của xã hội, kể cả thu hút tài trợ từ
bên ngoài, để phát triển các hoạt động trợ giúp một cách trực tiếp, có hiệu quả thiết thực,
khắc phục những yếu kém của doanh nghiệp. Các hiệp hội doanh nghiệp có thể cung cấp
nhiều loại dịch vụ đa dạng cho hội viên (như cung cấp thông tin, tư vấn, đào tạo), cùng
nhau thương thảo giải quyết những vấn đề cụ thể mà tong doanh nghiệp riêng lẻ không tự
giải quyết được để bảo đảm lợi ích của mỗi ngành nghề, bảo đảm văn hoá doanh nghiệp,
khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Đương nhiên, lợi ích của doanh nghiệp
phải gắn bó hài hòa với lợi ích của cộng đồng, của toàn xã hội, không nên chỉ đơn thuần
coi trọng lợi ích của doanh nghiệp cùng ngành nghề trở thành lợi ích phường hội.Đồng
thời hiệp hội doanh nghiệp cũng được tạo điều kiện để làm tốt vai trò cầu nối giữa hội
viên với cơ quan của Chính phủ, đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh
SON NGUYEN

13


nghiệp, nhất là trong việc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, hình thành và phát huy văn hoá doanh nghiệp trước hết là phải dựa vào con người.
Đó là vì phát triển doanh nhân không chỉ tăng vốn, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cho
người lao động mà còn phải tạo ra môi trường văn hoá doanh nghiệp tiến bộ cũng tức là
tạo ra một sức mạnh tổng thể cố kết và cổ vũ người lao động trong doanh nghiệp lao
động sáng tạo với niềm tin, một lý tưởng cao đẹp.Văn hoá doanh nghiệp là lý tưởng và
các nguyên tắc chi phối hành động của doanh nghiệp cũng như của mỗi thành viên là hệ
giá trị tạo nên nguồn lực cho sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp, do vậy, càng
cần thiết phát huy nhân tố con người trong doanh nghiệp. Trình độ nhân lực của ta hiện
nay đang còn thấp so với yêu cầu (kể cả trình độ của người lao động cũng như của người
quản lý doanh nghiệp) càng làm nổi bật ý nghĩa hết sức cấp bách của việc bồi dưỡng và
phát huy nhân tố con người trong khi xây dựng văn hoá doanh nghiệp.

Có thể nêu lên ba cấp độ trong việc phát huy nhân tố con người trong doanh nghiệp; cấp
độ thứ nhất là nâng cao năng lực tiềm tàng của mỗi công nhân, viên chức (thông qua biện
pháp giáo dục, đào tạo về kinh tế, công nghệ, quản lý ); cấp độ thứ hai là biến năng lực
tiềm tàng đó thành hiện thực, thông qua các biện pháp khuyến khích, kích thích sức sáng
tạo trong lao động sản xuất; cấp độ thứ ba là tập trung cho được các tiềm lực cá nhân của
công nhân viên chức vào việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp , thông qua các biện
pháp tổ chức quản lý sản xuất và nhân sự. Cấp độ thứ ba có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
bởi vì văn hoá doanh nghiệp không phải kết quả của sự phát triển tự phát trong quá trình
sản xuất kinh doanh mà nó được định hướng xây dựng và hình thành trong ý thức tự giác
của người quản lý doanh nghiệp, biểu hiệnn tập trung quản lý doanh nghiệp, bởi người
quản lý doanh nghiệp. Do vậy, phải đào tạo và trọng dụng đội ngũ doanh nhân nắm được
và vận dụng được văn hoá doanh nghiệp vào trong tong hoạt động sản xuất kinh doanh
cua doanh nghiệp, trong quan hệ với các đối tác cũng như trong công việc quản lý, điều
hành nội bộ doanh nghiệp .
Bốn là, văn hoá doanh nghiệp của từng doanh nghiệp Việt Nam có những nét chung của
văn hoá doanh nghiệp Việt Nam và những nét riêng của từng doanh nghiệp. Những nét
riêng ấy là của quý đặc sắc, là truyền thống tốt đẹp, độc đáo của từng doanh nghiệp. Ví
dụ nét độc đáo của doanh nghiệp A la rất nhã nhặn, chu đáo với khách hàng và đối tác,
nét độc đáo của doanh nghiệp B là nhiều sáng kiến vận dụng công nghệ cao, nét độc đáo
của doanh nghiệp C là tận tình bồi dưỡng, đào tào nguồn nhân lực và phát triển con
người.
Mỗi doanh nghiệp phải hình thành được những nét chung của văn hoá doanh nghiệp Việt
Nam và tạo lập được một số nét riêng. Không trộn lẫn dược của văn hoá doanh nghiệp
mình. Có thể nói văn hoá doanh nghiệp là cái nhãn hiệu, cái "mác" vinh quang của doanh
SON NGUYEN

14


nghiệp, niềm tự hào của doanh nghiệp (và có thể của cả ngành, cả địa phương, cả đất

nước) được lưu truyền và bồi đắp từ thế hệ này sang thế hệ khác các công nhân và cán bộ
của doanh nghiệp. Chúng ta đang nhấn mạnh việc tạo dựng và bảo vệ thương hiệu của
doanh nghiệp; đó là vì thương hiệu là một bộ phận không thể thiếu của văn hoá doanh
nghiệp, thể hiện uy tín, vị thế của sản phẩm, của doanh nghiệp, là tài sản được xây dựng,
tích tụ một cách có ý thức trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Thương hiệu là
niềm tự hào của doanh nghiệp, tạo ra niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm và
dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng; trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu càng có ý nghĩa cấp bách.
2. Vai trò của văn hóa kinh doanh đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Văn hóa kinh doanh là hệ thống các giá trị tinh thần và chuẩn mực chi phối mọi hoạt
động kinh doanh. Khi bước vào hoạt động kinh doanh, ai cũng đều khao khát làm giàu
nhưng không phải ai cũng biết “đạo” làm giàu. Đạo làm giàu có nghĩa là không phải làm
giàu bằng mọi giá mà phải có chuẩn mực, định hướng, đó là tìm cách tối đa hóa lợi nhuận
cho mình nhưng vẫn phải tuân thủ pháp luật và các giá trị đạo đức chung. Một doanh
nghiệp, doanh nhân có văn hóa kinh doanh có nghĩa là biết hài hòa giữa lợi ích của bản
thân, doanh nghiệp với lợi ích của cộng đồng, làm giàu cho mình nhưng không gây tổn
hại đến môi trường, phải bảo đảm an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công
bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng.
Với nội hàm khái niệm văn hóa kinh doanh như vậy, văn hóa kinh doanh có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh góp phần thúc đẩy sự
phát triển bền vững của doanh nghiệp, thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, văn hóa kinh doanh góp phần gia tăng nguồn lực con người cho sự phát triển
của doanh nghiệp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay, người ta nói nhiều đến vai trò của công
nghệ, của thông tin về kinh tế và kỹ thuật nhưng biến nó thành sản phẩm có chất lượng
phải thông qua con người. Con người là một nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển
của doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh chính là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ nguồn lực con
người cho sự phát triển của doanh nghiệp. Ông Ta-ca-hi-rô Xê-ki-mô-tô (Takahiro
Sekimoto), Tổng Giám đốc Công ty điện tử Nippon (NEC) nhấn mạnh: Trên thực tế,
trong thời đại toàn cầu hóa, tầm quan trọng của nền văn hóa công ty có thể được coi như

người quản lý thứ năm, đứng sau những nhân tố con người, sở hữu, tiền tệ và thông tin
(1). Sự tăng trưởng thần kỳ của Nhật Bản thu hút rất nhiều sự quan tâm của thế giới. Giải
thích về sự tăng trưởng thần kỳ của Nhật Bản, một điều tra xã hội học ở một số xí nghiệp
với câu hỏi vì sao anh/chị liên tục tăng năng suất như vậy, câu trả lời nêu 4 nguyên nhân:
Vì tổ quốc, vì Nhật hoàng; Vì tinh thần trách nhiệm với công ty; Vì lương tâm người thợ;
Vì tiền thưởng. Như vậy, chính những giá trị tinh thần trong bản thân mỗi nhân viên thúc
SON NGUYEN

15


đẩy mạnh mẽ để họ tìm mọi cách phát triển doanh nghiệp. Nói cách khác, một trong
những nguyên nhân giải thích sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản là vì các doanh nghiệp
Nhật Bản đã xây dựng được văn hóa kinh doanh cho mình. Văn hóa kinh doanh trong
mỗi doanh nghiệp chính là bầu không khí hoạt động, môi trường bên trong của doanh
nghiệp do các thành viên trước hết là ban lãnh đạo tạo ra, nó ảnh hưởng trực tiếp đến tinh
thần, thái độ, lao động của mỗi thành viên và lòng trung thành của họ đối với doanh
nghiệp. Trong môi trường văn hóa doanh nghiệp lành mạnh, các giá trị và lòng tin được
khẳng định, nhân viên được tôn trọng, thấy sự cống hiến của mình có ích nên gắn bó với
doanh nghiệp. Điều này góp phần củng cố lòng trung thành của nhân viên với doanh
nghiệp, vì vậy doanh nghiệp có thể thu hút và giữ chân được nhân tài. Nhân viên, người
lao động trong doanh nghiệp thấy mình có cơ hội khẳng định mình và thăng tiến, nên
hăng say hoạt động độc lập và đề ra sáng kiến, để đạt được nhiều lợi ích cho bản thân và
doanh nghiệp. Đồng thời, môi trường văn hóa kinh doanh lành mạnh sẽ khuyến khích
tinh thần hợp tác giữa người lao động với nhau cùng hướng tới mục tiêu chung là phát
triển doanh nghiệp.
Thứ hai, văn hóa kinh doanh góp phần xây dựng thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp
với người tiêu dùng. Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại bền vững và làm ăn phát đạt khi
khẳng định được uy tín, thương hiệu dựa trên chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm
và sự cam kết bảo đảm chất lượng sản phẩm đối với người tiêu dùng chính là những giá

trị văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có văn hóa kinh doanh nghĩa
là có triết lý kinh doanh đúng đắn định hướng cho toàn bộ hoạt động của họ. Một doanh
nghiệp có văn hóa kinh doanh luôn theo đuổi giá trị mà mình đã xác định bất chấp sự tác
động từ hoàn cảnh bên ngoài. Giá trị đó chính là xây dựng lòng tin của người tiêu dùng
bằng chất lượng sản phẩm; luôn biết tôn trọng lợi ích và sự an toàn cho người tiêu dùng
bằng chính chất lượng sản phẩm, không bao giờ chấp nhận lối “làm ăn chụp giật”, chạy
theo lợi nhuận trước mắt mà làm hại đến cộng đồng. Người tiêu dùng hiện nay đang có
xu hướng ngày càng trở thành “người tiêu dùng thông thái”, luôn quan tâm đến việc lựa
chọn những sản phẩm có chất lượng, an toàn. Vì vậy, các doanh nghiệp có văn hóa kinh
doanh chắc chắn sẽ là sự lựa chọn của người tiêu dùng, luôn được người tiêu dùng tin
tưởng. Sự tin tưởng và ủng hộ của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp chính là nguồn
nuôi dưỡng sức mạnh của doanh nghiệp.
Văn hóa kinh doanh có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, thế
nhưng hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức rõ điều đó nên chưa
quan tâm nhiều đến việc xây dựng văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp mình. Có tới
92% doanh nghiệp được xếp loại văn hóa kinh doanh bình thường và kém. Nhiều doanh
nghiệp, hoạt động kinh doanh còn mang tính chụp giật, hiện tượng gian lận thương mại,
buôn lậu, trốn thuế, vô trách nhiệm với môi trường sinh thái, đối xử với bạn hàng theo tư
tưởng “cá lớn nuốt cá bé”,… vẫn tồn tại trong không ít các doanh nghiệp. Thậm chí, có
SON NGUYEN

16


một bộ phận chủ doanh nghiệp đối xử thô bạo với người lao động làm thuê, nợ lương của
người lao động từ 2 - 3 tháng, tìm mọi cách trốn tránh nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế. Những doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài
của cộng đồng như vậy không thể thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, không
thể xây dựng được các thương hiệu Việt đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho sự yếu kém của văn hóa kinh doanh ở Việt

Nam, như chúng ta mới phát triển kinh tế thị trường được một số năm, các thể chế, chính
sách về kinh tế thị trường còn chưa hoàn thiện, chưa tạo được môi trường thuận lợi để
doanh nghiệp phát triển bền vững, có văn hóa. Thêm vào đó, do tệ tham nhũng trong bộ
máy nhà nước thời gian qua chưa được đẩy lùi nên đã tác động tiêu cực đến văn hóa kinh
doanh của doanh nghiệp. Bản thân các lãnh đạo doanh nghiệp do mới hoạt động, chưa có
nhiều kinh nghiệm, kiến thức và bản lĩnh, còn ảnh hưởng của lối sản xuất tiểu nông hàng
ngàn năm nay của dân tộc nên chưa có được tầm nhìn, chiến lược dài hạn, còn làm ăn
một cách manh mún, nhỏ lẻ, chủ yếu quan tâm đến lợi ích trước mắt nên chưa thật sự coi
trọng việc xây dựng văn hóa kinh doanh... Do đó, xây dựng văn hóa kinh doanh cho các
doanh nghiệp Việt Nam để góp phần xây dựng được những doanh nghiệp Việt Nam
mạnh, đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cũng như phát triển
nhanh và bền vững ở Việt Nam đang là một yêu cầu cấp bách.
Khi văn hoá kinh doanh trở thành phương thức hoạt động của doanh nghiệp thì có thể
làm tăng giá trị trong sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Bằng sự quan tâm tới các yếu tố văn
hoá, như yêu cầu về thẩm mỹ, tính tiện lợi…, coi chúng là những tiêu chí không thể thiếu
bên cạnh giá trị sử dụng, nhà sản xuất kinh doanh sẽ làm tăng giá trị của sản phẩm. Đồng
thời, khi sử dụng và khai thác những nét tương đồng và dị biệt, sự giao lưu về văn hoá
giữa các quốc gia khác nhau vào hoạt động kinh doanh thì văn hoá trở thành một nhân tố
của kinh doanh quốc tế. Giao lưu văn hoá, tiếp cận văn hoá trong kinh doanh... không chỉ
đơn giản là tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá, mà còn là phương thức hiệu quả để
giới thiệu, quảng bá những tinh hoa văn hoá dân tộc. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị
trường ngày càng rộng mở, nhiều khi giao lưu văn hoá lại đi trước và thúc đẩy mạnh mẽ
sự giao lưu kinh tế
Các hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội cụ thể của doanh nghiệp, như bảo đảm đời
sống vật chất và tinh thần cũng như các quyền lợi khác của người lao động, đóng góp vào
các quỹ từ thiện, các dự án phát triển cộng đồng bị thiệt thòi, tài trợ cho các hoạt động
nghệ thuật và văn hoá… chính là biểu hiện tính nhân văn của hoạt động kinh doanh và
góp phần làm giảm gánh nặng xã hội.
Như vậy, khi yếu tố văn hoá thâm nhập, thẩm thấu vào các hoạt động kinh doanh, nó sẽ
thúc đẩy kinh doanh nói riêng, sản xuất và tiêu dùng xã hội nói chung theo hướng phát

triển bền vững. Lúc đó, văn hoá không còn là yếu tố bên ngoài kinh doanh, mà trở thành
mục tiêu, thành "nội lực" của sự phát triển kinh doanh.
SON NGUYEN

17


3. Những bất cập của văn hóa kinh doanh Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Thực tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay, không ít doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng
thành, trụ vững và phát triển mạnh mẽ, mà nguyên nhân sâu xa chính là do các doanh
nghiệp này đã và đang coi trọng xây dựng văn hóa kinh doanh cho mình. Tuy nhiên, hiện
còn không ít doanh nhân chưa nhận thức được vai trò, động lực của văn hóa kinh doanh
trong hội nhập nên trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ những bất cập, ảnh hưởng tiêu
cực đến năng lực cạnh tranh, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Dưới đây là
một số bất cập chính của văn hóa kinh doanh Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện, thiếu chuyên nghiệp, thiếu sáng tạo.
Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế do
cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện
chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước
đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để
rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giật quyền lợi
riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến cục diện chung. Nhiều doanh nghiệp không
có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và kinh doanh ở quy mô lớn cho cùng loại sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam thì chúng ta
chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cũng
chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước phát triển. Cách
làm “hổng chỗ nào thì vá chỗ ấy”, “cháy chỗ nào thì dập chỗ đó”, cẩu thả trong ký kết và
thực hiện hợp đồng… đang tồn tại và hoàn toàn không phù hợp với môi trường kinh
doanh văn minh, hiện đại. Người Nhật Bản trước khi làm điều gì, họ nghiên cứu kỹ mục

tiêu đến 90%, việc điều chỉnh trong khi thực hiện không quá 10%. Còn ở Việt Nam thì
vừa uống cà phê, uống bia vừa bàn bạc, sau đó thống nhất với nhau làm, nên khi làm phải
điều chỉnh và cuối cùng mục tiêu mà chúng ta đạt được so với mục tiêu ban đầu thay đổi
rất nhiều. Các doanh nhân cũng nhận ra rằng, sự “bài bản” còn thể hiện ở tính chuyên
nghiệp, ở “tinh thần thượng tôn pháp luật”, ở tính kỷ luật.
Trong văn hóa kinh doanh của người Việt Nam, nhiều thói quen, cung cách làm ăn cũ, lạc
hậu, tùy tiện vẫn đang tồn tại; phong cách làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo, sẵn sàng
hợp tác chưa định hình rõ nét. Sự gian dối trong kinh doanh vẫn còn tồn tại, không ít
doanh nhân đã thẳng thắn bộc lộ; “Buôn bán thật thà thì chỉ có ăn cám”, vì thế họ tìm mọi
cách trốn lậu, phi pháp, lách luật để làm ăn.
Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn.
Một hạn chế lớn khác đã bộc lộ rõ nét trong văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp
nước ta khi hội nhập là sự hạn chế về tầm nhìn cũng như khát vọng của các doanh
SON NGUYEN

18


nghiệp, doanh nhân Việt Nam. Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con người Việt Nam
thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn
chờ đợi kết quả lâu dài. Muốn có và đạt được những mục tiêu dài hạn, đòi hỏi doanh
nhân phải có tầm nhìn dài hạn. Vì không có tầm nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt
Nam thường không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch đầu tư thích hợp. Đa số
doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công ty hàng đầu Việt
Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu toàn cầu, tham gia vào giải
quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới.
Cũng vì thiếu tầm nhìn nên doanh nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài
mà lao theo xu hướng “ăn xổi”, đầu tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn
của mình. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi
ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam lại đang

tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang tính đầu cơ như kinh doanh bất động sản,
chứng khoán… mà quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.
Thiếu tính liên kết, cộng đồng.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài có sức mạnh và tiềm lực lớn, lại hơn chúng ta cả
trăm năm kinh nghiệm mà doanh nghiệp Việt Nam lại vốn liếng chưa nhiều, năng lực
cạnh tranh chưa cao thì chúng ta rất cần đến sự liên kết, đoàn kết. Một mình Cà phê
Trung Nguyên với hoài bão xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam mà không có
sự tiếp sức của những doanh nghiệp cùng ngành nghề thì biết đến khi nào mới thực hiện
được. Nhưng thực tế, không ít doanh nghiệp lại không thể cởi mở, liên kết với nhau, thậm
chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Hệ quả là không những
không nâng cao được sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh mua, tranh bán, thậm chí
hạ uy tín của nhau. Trên thực tế, vấn đề liên kết doanh nghiệp đã được đặt ra rất nhiều lần
ở tất cả các hiệp hội, ngành nghề. Tuy nhiên, nhiều quan chức, cơ quan có thẩm quyền
cũng “bó tay” trước thói quen cố hữu của rất nhiều doanh nghiệp là “mạnh ai nấy làm”.
Xét về khía cạnh liên kết, hợp tác của các doanh nhân trong quá trình hoạt động kinh
doanh để cùng phát triển và theo nguyên tắc cùng có lợi, tính cộng đồng của doanh nhân
Việt Nam còn quá yếu, quá rời rạc và ở mức thấp, thể hiện ở ngay trong phạm vi một
ngành nghề, một địa phương và rộng hơn là trong phạm vi cả nước. Sự liên kết giữa các
“nhà”, liên kết theo cụm, vùng nguyên liệu đang ở mức thấp. Chủ trương thành lập những
tập đoàn kinh tế còn vấp phải những rào cản nội tại: Thông tin của doanh nghiệp thường
thiếu độ tin cậy, ảnh hưởng đến việc liên kết ngang; quy định của Nhà nước cho các hoạt
động liên kết chưa đầy đủ…
Trái với phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi vào thị
trường Việt Nam đã biết kết hợp với các doanh nghiệp trong nước để thâm nhập và chiếm
lĩnh thị trường. Có thể kể đến như trường hợp Hãng Pepsi kết hợp với Kinh Đô; các hãng
SON NGUYEN

19



điện tử như Samsung, LG, Toshiba kết hợp với siêu thị Nguyễn Kim… Tại sân nhà, rất
nhiều sản phẩm của chúng ta đang bị áp đảo và phải cạnh tranh gay gắt trước sức mạnh
liên kết của các công ty, tập đoàn nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, hợp tác với nhau
và với nhà đầu tư nước ngoài là một cách tốt để doanh nghiệp tồn tại và tạo khả năng
cạnh tranh.
Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt”, dựa dẫm.
Ở nước ta, đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa các mối quan hệ
kinh doanh, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhiều doanh
nghiệp tập trung thời gian và tiền bạc cho một hoặc một số nhân vật quan trọng của đối
tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa người kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc
mua với người có thẩm quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc bán. Nhiều doanh
nghiệp thành công nhờ vào mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào năng lực. Xu hướng dựa
vào quan hệ rộng như là một chủ bài, mạnh hơn cả năng lực, và xu hướng nhờ vả, chạy
chọt hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Lợi ích quá nhiều từ quan hệ cá nhân, tranh giành
đất đai, dùng quan hệ để thắng thầu bất chính, thậm chí dùng cả quyền lực để bóp méo
lực lượng thị trường như phân phối quota xuất nhập khẩu… là những hiện tượng đang
gây bức xúc trong toàn xã hội. Những cái lợi mà việc thân quen đem lại là một cám dỗ
lớn hơn rất nhiều so với cái cực nhọc phải đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao năng
lực cạnh tranh. Đa phần các nhà kinh doanh của chúng ta dường như hiển nhiên công
nhận mối quan hệ này tốt hay xấu có tính chất quyết định tới sự thành bại. Họ cho rằng,
nếu “thân quen” được với sếp của đối tác thì về cơ bản là đã thành công, lúc này thì mọi
trở ngại về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thậm chí giá cả cũng chỉ là chuyện “nhỏ”. Cám
dỗ về đặc quyền, đặc lợi, dựa dẫm đang là lực cản rất lớn. Cuộc đấu tranh quyết liệt
chống tham nhũng và làm trong sạch bộ máy công quyền sẽ là một trong những yếu tố có
tính quyết định trong việc xóa bỏ tình trạng “chạy cửa sau” và phục hồi luật chơi minh
bạch trên thương trường.
Xem nhẹ chữ tín.
Buôn bán phải giữ chữ tín, đó chính là văn hóa kinh doanh được bắt nguồn từ khi hình
thành thị trường. Trong tập quán du di, “chín bỏ làm mười” của nền kinh tế tiểu nông,
chữ tín không được đề cao. Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các doanh nhân Việt

Nam không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách quan để khước từ việc thực
hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Bản thân
người Việt chưa tin người Việt. Nếu có chọn lựa thì người Việt sẽ làm ăn với các công ty
ngoại quốc, nhất là của các nước Âu, Mỹ, hơn là Việt Nam. Đây là hiểm họa cho các cơ
sở kinh tế Việt Nam về lâu về dài khi mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị trường Việt
Nam cho các cơ sở kinh tế của châu Âu, Mỹ như ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng, hàng
không… ồ ạt vào kinh doanh tại Việt Nam.
SON NGUYEN

20


Nói tóm lại, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo cho mình bản sắc văn hoá kinh doanh
Việt Nam để khai thác các yếu tố văn hoá một cách hiệu quả cho hoạt động kinh doanh.
Vậy bản sắc văn hoá kinh doanh Việt Nam là gì? Theo chúng tôi, nếu văn hoá kinh doanh
Việt Nam - một phần quan trọng của văn hoá Việt Nam - là sự tiếp thu có chọn lọc và
phát huy những tinh hoa văn hoá kinh doanh của các dân tộc khác trên thế giới và của cha
ông, vận dụng phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam hiện đại, thì có thể coi, bản sắc văn
hoá kinh doanh Việt Nam là sự nhạy cảm, tinh tế trong các quan hệ kinh doanh, giàu
nghĩa khí và có ý thức dân tộc cao.
4. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp theo tinh thần của Đảng và Chính phủ.
Nhằm triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 9 khóa XI, ngày 22/4/2015, tại Hà Nội, Hiệp hội phát
triển Văn hóa Doanh nghiệp Việt Nam (VNABC) phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung
ương, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam đồng tổ chức Hội thảo quốc gia với chủ đề: “Xây dựng văn hóa doanh
nghiệp theo tình thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 khóa XI”.
Hội thảo nhận được sự hưởng ứng và tham gia của đông đảo các nhà hoạch định chính
sách và quản lý thuộc các Bộ, ban, ngành cũng như các chuyên gia, học giả, nhà nghiên
cứu, đại diện các cơ quan, tổ chức kinh tế, xã hội, các doanh nghiệp ở Trung ương và địa

phương.
Xây dựng văn hóa trong kinh tế.
Phát biểu đề dẫn Hội thảo, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Thế Kỷ
nhấn mạnh: Trong thực tế phát triển kinh tế của các nước tiên tiến trên thế giới, văn hóa
doanh nghiệp luôn được xem là nền tảng tinh thần tạo nên giá trị doanh nghiệp, là nguồn
lực nội sinh quan trọng cho phát triển. Đối với Việt Nam, do nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn đang trong quá trình hoàn thiện, nên vấn đề xây dựng văn
hóa doanh nghiệp đang nổi lên thành một nhu cầu quan trọng và cấp thiết. Để doanh
nghiệp phát triển nhanh và bền vững, ngoài việc chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm,
sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ cũng như tối đa hóa lợi nhuận, điều cốt yếu là
phải xây dựng cho được văn hóa doanh nghiệp. Đây cũng chính là mối quan tâm to lớn
của Đảng và Nhà nước ta.
Nói về vấn đề xây dựng văn hóa trong kinh tế, PGS. TS Nguyễn Hữu Thức cho biết:
Nghị quyết Trung ương 9 yêu cầu hệ thống chính trị ở nước ta phải “thường xuyên quan
tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, xác định sự cần thiết phải xây dựng văn hóa trong
kinh tế để cả hệ thống chính trị tổ chức thực hiện".

SON NGUYEN

21


Có một công thức được Nhạc sỹ - Thiếu tướng Nguyễn An Thuyên – Chủ tịch Hiệp hội
Phát triển Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam tâm đắc: “Nền kinh tế mạnh = tổng hợp sức
mạnh doanh nghiệp và doanh nhân”. Tại Hội thảo, Chủ tịch Hiệp hội Nguyễn An Thuyên
đề xuất ý tưởng phát động phong trào “Doanh nghiệp văn hóa” với nội dung “ba không,
ba có”: Không buôn lậu, không trốn thuế, không hàng giả hàng nhái; Có trách nhiệm với
người lao động, có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội, có lòng tự tôn dân tộc.
Văn hóa kinh doanh là văn hóa tôn trọng pháp luật.
Trình bày tham luận "Văn hóa kinh doanh kỷ nguyên Internet" tại Hội thảo, ông Trần

Hữu Linh, Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin, Bộ Công
Thương nhấn mạnh: Bản thân Internet và việc ứng dụng Internet vào thương mại điện tử
đã tạo nên nhiều vấn đề về văn hóa và xã hội ở quy mô rộng chưa từng có.
Theo ông Trần Hữu Linh, những vấn đề cơ bản đang tồn tại trong văn hóa kinh doanh
thương mại điện tử là: Chất lượng sản phẩm; Dịch vụ giao nhận; Giá cả; Thông tin cá
nhân; Lòng tin. Do đó, để xây dựng văn hóa kinh doanh trên Internet, các doanh nghiệp
cần: một là, dành được niềm tin của khách hàng; hai là, xây dựng giá trị cốt lõi; ba là, bảo
mật thông tin của khách hàng; bốn là, xây dựng nội dung của website có văn hóa.
Tại Hội thảo, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cũng thẳng thắn chia sẻ những quan niệm
về xây dựng văn hóa. Theo ông, trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, nếu
không am hiểu về văn hóa thế giới thì không giao lưu được, nhưng nếu không mạnh về
văn hóa dân tộc, lại càng không hòa nhập được. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp là cả
một chặng đường dài, cần sự vào cuộc của không chỉ các doanh nghiệp và doanh nhân.
Rất nhiều đại biểu tham dự Hội thảo cũng đồng tình với những khuyến nghị của Luật sư
Trần Vũ Hải: các doanh nghiệp Việt Nam cần từ bỏ việc sử dụng những biện pháp trái
pháp luật đẻ giải quyết công việc, rắc rối, tranh chấp, bởi theo ông, “Văn hóa kinh doanh
là văn hóa tôn trọng pháp luật”.
Với tư cách một doanh nhân nước ngoài công tác tại Việt Nam, Tổng giám dốc Công ty
TNHH phát triển phần mềm TOSHIBA Việt Nam Tetsuya Tabe chia sẻ: Chìa khóa để mở
rộng hoạt động ra quy mô toàn cầu không chỉ là sự hợp tác mà còn là hiệu lực tổng hợp
của các nhân tố. Giữ gìn bản sắc vốn có và sáng tạo ra giá trị mới là nhân tố quan trọng
để thúc đẩy sự hợp tác.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986), hoạt động kinh doanh đã được Nhà nước khuyến
khích với nhiều cơ chế, chính sách ngày càng cởi mở, tạo điều kiện cho giới doanh nhân,
doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, theo PGS-TS Đặng Văn Thanh – Chủ tịch Câu lạc bộ
các nhà Công thương Việt Nam - nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa
còn đang trong quá trình phát triển với nhiều vấn đề quan trọng và cấp thiết, từ yêu cầu

SON NGUYEN


22


nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, sức cạnh tranh của hàng hóa đến xây dựng văn
hóa doanh nghiệp.
Trước thực tế đó, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban
hành Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong đó, có quan điểm
mới xác định xây dựng văn hóa doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị của cả nền kinh tế với
khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
Trong 6 nhiệm vụ cơ bản đối với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam, điểm nổi bật nhất là lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến vấn đề “Xây dựng văn
hóa trong chính trị và kinh tế” (Nhiệm vụ thứ 3 được nêu trong Nghị quyết số 33NQ/TW). Cụ thể hơn, Nghị quyết nêu rõ: “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa
trong kinh tế” và “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn
trọng pháp luật, giữ chứ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ
quốc”. Đây là định hướng chỉ đạo, cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan quản lý nhà
nước, các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong thời kỳ mới –
hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh toàn cầu.
Văn hóa doanh nghiệp: Niềm tự hào, tự tôn dân tộc trong kinh doanh
Khá thẳng thắn, Đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử Việt
Nam Dương Trung Quốc chỉ ra một thực tế đáng suy ngẫm, rằng, doanh nhân, doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay quá coi trong mục đích kiếm tiền mà chưa thực sự quan tâm
đến việc chúng ta phải kiếm tiền trong niềm kiêu hãnh mang trong mình dòng máu oai
hùng của tổ tiên, trong danh dự của người Việt Nam với thế giới.
Điểm qua những thương hiệu Honda, Toyota, Sony… của Nhật Bản hay Samsung của
Hàn Quốc, ông Quốc khẳng định, những thương hiệu đó đã trở thành thương hiệu quốc
gia, là niềm tự hào cho dân tộc họ. Trong khi đó, doanh nhân Việt Nam chưa thực sự coi
việc đưa thương hiệu Việt đi chinh phục thị trường thế giới như một sứ mạng, một sự
thúc bách nội lực, một lòng tự tôn dân tộc.
“Giờ đây, chúng ta có nguồn lực lớn hơn, điều kiện thuận lợi nhiều hơn… điều kiện chính

trị, xã hội ổn định mà chịu thua trên dân nhà thì quả đáng buồn” – ông Quốc nói.
Tuy nhiên, ông Quốc cũng đặc biệt lưu ý, nhất là với lớp doanh nhân trẻ trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế nhanh và sâu, rộng, rằng, tác động của cơ chế thị trường đang khiến
cho văn hóa nói chung, kinh doanh nói riêng đang chao đảo về các hệ thống giá trị. Chính
vì vậy, mỗi doanh nhân, doanh nghiệp cần tư duy đúng về văn hóa và văn hóa doanh
nghiệp.

SON NGUYEN

23


“Nếu ta ví sự phát triển kinh tế như chân ga giúp cho chiếc ô tô tiến lên phía trước thì văn
hóa chính là chân phanh giúp cho chiến “ô tô” của đất nước có được độ ghìm nhất định”
– Đầy ẩn ý, ông Dương Trung Quốc dừng lời.
Trách nhiệm với xã hội – một nhân tố tạo nên văn hóa doanh nghiệp.
Đặt vấn đề văn hóa doanh nghiệp trong mối tương quan với thực hiện trách nhiệm xã hội,
TS. Nguyễn Sỹ Dũng – Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội – nhấn mạnh, kinh doanh
thực chất là khai thác nhu cầu của con người, trong đó có nhu cầu đang, sẽ hoặc có thể
tạo ra.
Ông Nguyễn Sỹ Dũng cho biết: "Người ta vẫn nhìn doanh nghiệp Việt Nam một cách
thiếu thiện ý vì không ít doanh nghiệp, qua hoạt động của mình đẫ để lại hình ảnh và hậu
quả xấu".
“Bạn không thể bán máy tính trên sao Hỏa vì đơn giản trên đó không có nhu cầu” – ông
Dũng nói và kết luận, sự giàu có của các doanh nghiệp suy cho cùng là do các khách
hàng tạo ra. Những khách hàng này – già, trẻ, gái, trai – tập hợp nhau lại thành xã hội và
đó chính là nền tảng của vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Và để thực hiện trách nhiệm này, theo ông Dũng, có nhiều hình thức, nhưng chủ yếu cần
đáp ứng trách nhiệm về đạo lý; nghĩa vụ tài chính (thuế) và môi trường. Phân tích sâu
hơn, ông Dũng cho rằng, thứ nhất, một xã hội nhân bản và bác ái là rất quan trọng trong

hoạt động kinh doanh vì trong một xã hội như vậy, sự giàu có sẽ được chấp nhận và thiếu
điều này động lực của hoạt động kinh doanh sẽ bị tước bỏ. Thứ hai, doanh nghiệp đóng
thuế không phải để nuôi Nhà nước mà để Nhà nước có nguồn kinh phí chăm lo cho các
nhu cầu xã hội. Và cuối cùng, môi trường sống trong lành là nhu cầu đầu tiên và quan
trọng nhất của con người. Vậy trách nhiệm xã hội đầu tiên của doanh nghiệp là không
kinh doanh trên sự tổn hại của môi trường.
Tán thành quan điểm của ông Dũng về trách nhiệm đối với môi trường của doanh nghiệp
như một yếu tố cấu thành của văn hóa doanh nghiệp, ông Phạm Hồng Điệp – Tổng Giám
đốc Công ty CP Công nghiệp tàu thủy Shinec (Hải Phòng) dẫn số liệu, trong hơn một
thập kỷ qua, cùng với tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm đạt cao, từ 15-17% là sự
bùng nổ các hoạt động thương mại, dịch vụ đã gây nên những tác động xấu đến môi
trường ngày càng lớn.
“Sự xuất hiện những “làng ung thư” liên tục trong thời gian gần đây cho thấy cái giá phải
trả cho ô nhiễm môi trường là quá đắt” – ông Điệp nói và cho rằng, doanh nghiệp không
thể coi vấn đề môi trường là ngoại vi, không quan trọng hay không cần thiết trong mọi
hoạt động của mình. Và đây cũng chính là một trong những nhân tố hình thành văn hóa
doanh nghiệp.

SON NGUYEN

24


×