Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Bài giảng: Bệnh sán lá phổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.18 KB, 8 trang )

BỆNH SÁN LÁ PHỔI
PGS.TS Trịnh Thị Minh Liên
ThS. Nguyễn Quốc Thái
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong, người học phải có khả năng:
1. Mô tả được dây chuyền gây bệnh của sán lá phổi
2. Chẩn đoán được bệnh sán lá phổi
3. Điều trị được bệnh sán lá phổi
4. Kể được các biện pháp cơ bản phòng chống bệnh sán lá phổi ở Việt Nam
NỘI DUNG
1. Đại cương
- Bệnh sán lá phổi do sán lá phổi Paragonimus gây nên.
- Người bị nhiễm sán lá phổi là do ăn sống hoặc chưa chín các vật chủ trung
gian là cua, tôm hay vật chủ tạm thời, ví dụ như thịt lợn có chứa ấu trùng sán.
Mầm bệnh sau đó di trú đến phổi và gây bệnh với triệu chứng chủ yếu là ho
có máu.
2. Tác nhân gây bệnh
- Sán lá phổi Paragonimus thuộc lớp Sán lá Trematoda, ngành phụ Sán dẹt
Plathelminthes, ngành Đa bào Metazoa.
- Trong 40 loài sán lá phổi có trên 10 loại gây bệnh ở người, chủ yếu là loài
Paragonimus westermani, còn ở Việt Nam là loài P. heterotremus.
- Con sán lá phổi to bằng hạt cà phê hay hạt lạc nhỏ, dài 7-13 mm, rộng 4-6
mm, màu đỏ hoặc trắng hồng. Sán lưỡng tính, nghĩa là trên một con sán có cả
bộ phận sinh dục đực và cái. Sán chủ yếu kí sinh trong phổi, làm nang trong
tiểu phế quản bé của phổi người hay súc vật, trong mỗi nang hầu hết có 2 con
và dịch mủ màu đỏ, xung quanh có mạch máu tân tạo.
- Sán lá phổi đẻ trứng, trứng theo đờm xuống họng ra ngoài môi trường hoặc
theo phân khi nuốt đờm. Trứng rơi xuống nước, nở ra ấu trùng lông
(miracidium), chui vào ốc phát triển thành ấu trùng đuôi (cercaria), ấu trùng
đuôi rời ốc chui vào tôm cua nước ngọt tạo nang ở tổ chức và phủ tạng (ấu
trùng nang-metacercaria). Khi con người hay súc vật ăn phải tôm, cua có ấu


trùng sán lá phổi chưa nấu chín, ấu trùng sán vào dạ dày và ruột, xuyên qua
thành ống tiêu hoá vào ổ bụng rồi từng đôi một xuyên qua cơ hoành và màng
phổi vào nhu mô phổi rồi làm tổ ở đó.
1
Hình 1. Chu kì sống của sán lá phổi
3. Dịch tễ học
- Tập quán ăn tôm cua chưa nấu chín cũng như ăn gỏi cua, gỏi tôm, ăn cua
nướng (thực chất thịt cua nướng chưa chín), ăn gạch cua sống, ăn mắm cua,
uống nước cua sống... đều có nguy cơ bị nhiễm sán lá phổi.
- Ở Việt Nam, ca bệnh sán lá phổi đầu tiên được thông báo ở Châu Đốc - An
Giang năm 1906. Cho đến nay đã có 6 tỉnh có bệnh sán lá phổi lưu hành như
Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Lào Cai, Nghệ An, Hà Giang.
- Trong tự nhiên, sán lá phổi kí sinh trên động vật hoang dại như hổ, báo, cáo,
chồn, chó, mèo, lợn, chuột... nhưng ở Việt Nam chỉ mới điều tra tỷ lệ nhiễm
bệnh sán lá phổi trên chó nhà Canis familiaris. Mầm bệnh dự trữ trên động vật
là một khó khăn trong công tác phòng chống bệnh sán lá phổi.
4. Bệnh sinh
- Người mắc bệnh do ăn cua hoặc tôm chưa nấu chín có chứa kí sinh trùng ở
giai đoạn ấu trùng nang metacercaria.
- Sau khi ăn, metacercaria thoát nang ở tá tràng, xuyên qua thành dạ dày ruột
và di trú trong khoang phúc mạc.
+ Một số sán non có thể di trú đến các vị trí ngoài phổi như màng tim,
phúc mạc, dưới da, gan, ruột, não, tinh hoàn...
2
+ Phấn lớn sán phát triển xuyên qua cơ hoành di trú trong nhu mô phổi.
- Lúc đầu xung quanh sán thâm nhiễm bạch cầu ái toan và trung tính, sau đó
là bạch cầu đơn nhân. Xuất hiện hoại tử khu trú nhu mô phổi, sau đó hình
thành nang xơ bao quanh sán trưởng thành.
- Sau khi nhiễm 7-8 tuần, sán trưởng thành hoàn toàn bắt đầu đẻ trứng ở trong
nang. Nang này có thể lớn lên và vỡ, thường là vỡ vào tiểu phế quản.

- Các thể ngoài phổi do 1 trong 2 cơ chế:
+ Sán non và chưa trưởng thành di trú từ khoang màng bụng đến các cơ
quan khác ngoài phổi hoặc từ phổi tới các cơ quan khác. Sán có thể tạo
nang và đẻ trứng tại vị trí ngoài phổi này.
+ Trứng của sán trưởng thành sống trong phổi đi vào hệ tuần hoàn và
được đưa đến các vùng phía xa của cơ thể.
- Trứng và sán chưa trưởng thành ở các vị trí lạc chỗ có thể gây phản ứng
viêm, dẫn đến hình thành nang, áp-xe, u hạt.
5. Biểu hiện lâm sàng
5.1. Nhiễm sớm
- Giai đoạn sớm tính từ khi nhiễm cho đến khi sán đẻ trứng đầu tiên, trung
bình 2-20 ngày, có thể kéo dài đến 2 tháng.
- Trong thời gian ấu trùng di trú trong khoang phúc mạc, một số bệnh nhân
thấy đau bụng hay đau thượng vị, thậm chí có thể có ỉa chảy.
- Khi ấu trùng xuyên qua cơ hoành và di trú trong khoang màng phổi, có thể
có đau ngực kiểu màng phổi (thường là hai bên).
+ X quang phổi lúc này, khoảng sau nhiễm từ một tháng trở lên, có thể
thấy tràn khí màng phổi hoặc tràn dịch màng phổi.
+ Tràn dịch màng phổi là dịch tiết và dày đặc bạch cầu ái toan.
- Khi ấu trùng di trú trong nhu mô phổi tăng lên, bệnh nhân thường có biểu
hiện giống như hội chứng Loeffler:
+ Ho khan, đau ngực và khó chịu.
+ Các triệu chứng ít gặp hơn bao gồm sốt nhẹ và đờm có dây máu.
+ X quang phổi có thâm nhiễm thoáng qua, di chuyển và mịn.
+ Bạch cầu máu tăng và thành phần ái toan nổi trội.
5.2. Nhiễm muộn
- Giai đoạn thứ hai của nhiễm sán lá phổi là thời gian sán trưởng thành sống ở
phổi. Giai đoạn này có thể kéo dài tới mười năm trước khi sán chết dần.
3
- Lâm sàng:

+ Ho máu tái diễn là triệu chứng hay gặp nhất trong giai đoạn này.
Điển hình thì chất đờm có màu sô-cô-la, bao gồm hỗn hợp máu, tế bào
viêm và trứng sán giải phóng ra khi nang bao quanh sán trưởng thành
vỡ vào tiểu phế quản.
+ Bệnh nhân có thể khó chịu nhưng nói chung không sốt.
+ Khám thường không thấy có vẻ ốm cho dù ho máu tái diễn.
- Xét nghiệm:
+ Bạch cầu ái toan máu tối thiểu hoặc không có.
+ X quang phổi:
• Nói chung, thấy một hay nhiều vị trí khu trú sán trong nang hay
đường hầm trên phim X quang phổi, cho dù khoảng 20% không
thấy bất thường gì.
• Các bất thường trên phim X quang thường hay phim CT có thể gặp:
 Tổn thương mờ hình vòng do sự sáng tương đối của các
thành phần trong nang sán.
 Đường sọc, thường cạnh bóng mờ hình vòng, biểu hiện
đường hầm của sán.
 Có thể thấy dày màng phổi
 Hiếm khi thấy hình mức nước hơi
• Nhiều biểu hiện phổi khác nhau có thể tự nhiên mất đi và tổn
thương mới xuất hiện chậm trong nhiều tháng. Những biểu hiện X
quang phổi đó có thể bị qui nhầm cho lao.
• Có thể chỉ xuất hiện tràn dịch màng phổi, đôi khi với số lượng
nhiều, mà không có tổn thương nhu mô phổi trên X quang.
6. Các thể lâm sàng
Bao gồm thể phổi và các thể ngoài phổi. Các thể ngoài phổi có triệu chứng
hay gặp nhất là: thể não, thể bụng và thể dưới da.
6.1. Thể phổi:
- Là thể bệnh điển hình với các triệu chứng tại phổi.
- Thể phổi có thể phối hợp với biểu hiện bệnh ở các hệ cơ quan khác.

6.2. Thể màng phổi:
- Bệnh nhân có tràn dịch màng phổi đơn thuần do sán lá phổi ký sinh trong
màng phổi. Dịch màng phổi thường màu trắng hồng.
4
- Có thể phối hợp phổi-màng phổi: bệnh nhân vừa ho ra máu vừa có tràn dịch
màng phổi. Xét nghiệm vừa có trứng sán lá phổi trong đờm vừa có trong dịch
màng phổi.
6.3. Thể não:
- Chỉ gặp dưới 1% các trường hợp sán lá phổi nhưng lại là thể ngoài phổi
được chẩn đoán nhiều nhất, chủ yếu gặp ở bệnh nhân trẻ tuổi.
- Sán có thể qua màng não trực tiếp vào não, gây viêm màng não, viêm não,
viêm màng nhện hoặc tổn thương choán chỗ, có thể dẫn đến tử vong.
- Viêm màng não là biểu hiện cấp tính ban đầu ở khoảng một phần ba các
trường hợp thể não. Triệu chứng thường gặp là đau đầu, sốt và nôn, có thể
kéo dài một đến hai tháng.
- Các biểu hiện mạn tính thể não bao gồm đau đầu, nôn, co giật, rối loạn thị
giác (nhất là nhìn đôi và bán manh đồng danh), rối loạn vận động và cảm giác
liên quan đến tổn thương choán chỗ. Khám có thể thấy phù gai, liệt và/hoặc dị
cảm.
- Có thể có tổn thương tuỷ sống với biểu hiện liệt hoặc mất cảm giác chi.
6.4. Thể bụng:
- Nang sán có thể phát triển ở thành ruột gây buồn nôn, nôn hoặc ỉa phân
máu.
- Sự hình thành nang hay áp-xe ở gan, lách, khoang phúc mạc hoặc hạch mạc
treo ruột có thể dẫn đến đau bụng và sờ thấy khối trong ổ bụng.
- Tổn thương ở thận có thể gây đái máu và phát hiện được trứng sán trong
nước tiểu.
6.5. Thể dưới da:
- Các nốt hoặc cục dưới da nhiều kích cỡ không đau, di chuyển hoặc chắc, di
động và nắn đau trong chứa sán chưa trưởng thành.

- Hay gặp nhất ở thành bụng dưới, vùng bẹn và đùi.
- Biểu hiện bệnh tương tự như bệnh ấu trùng da di chuyển.
6.6. Các thể khác:
- Viêm mào tinh hoàn với biểu hiện bệnh lý tại bìu
- Viêm cơ với biểu hiện bệnh tại chỗ
- Viêm màng ngoài tim
7. Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định nhiễm sán lá phổi trong giai đoạn sớm (trước khi sán đẻ
trứng) là khó khăn. Có thể phỏng đoán trên cơ sở triệu chứng ở phổi phù hợp
5

×