Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Ebook Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 204 trang )

VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

TÌM HIỂU CÁC TRANH CHẤP
TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC PHÁP LUẬT
ĐỀ ÁN 2­ CHƯƠNG TRÌNH PHỔ BIẾN, GIÁO 
DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ  2008­2012
BỘ TƯ PHÁP

NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP NĂM 2012

319

320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN: 
Nguyễn Thúy Hiền
Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Trưởng Ban chỉ đạo Đề án
TỔ CHỨC BIÊN SOẠN:
Nguyễn Duy Lãm
Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp
Phạm Thị Hòa
Phó Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp
THAM GIA BIÊN SOẠN: 
1. TS. Lê Thu Hằng, Học viện Tư pháp


2. ThS. Vũ Thị Thu Hiền, Học viện Tư pháp
3. ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Học viện Tư pháp
4. ThS. Nguyễn Thị Hằng Nga, Học viện Tư pháp
5. TS. Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Học viện Tư pháp
6. ThS. Tống Thị Thanh Thanh, Học viện Tư pháp
7. ThS. Ngô Ngọc Vân, Học viện Tư pháp.

319

320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

LỜI GIỚI THIỆU
Ngày 27/02/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết 
định số 270/2009/QĐ­TTg phê duyệt Đề án: “Củng cố, kiện  
toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác  
phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát  
triển của đất nước” thuộc Chương trình phổ biến, giáo dục 
pháp luật của Chính phủ  từ  năm 2008 đến năm 2012. Một 
trong các hoạt động của Đề  án là cung cấp, hỗ  trợ  tài liệu  
nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho các đối tượng của Đề  án,  
góp phần nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ  của  
đội ngũ thực hiện công tác này trong thời kỳ mới.

Ban chỉ đạo Đề án trân trọng cảm ơn sự tham gia nhiệt  
tình của tập thể tác giả và sự phối hợp tích cực của Vụ Phổ 

biến, giáo dục pháp luật ­ thường trực Ban chỉ  đạo Đề  án  
để hoàn thành cuốn sách này.
Xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được những ý 
kiến đóng góp quý báu của bạn đọc về nội dung cuốn sách.
                       BAN CHỈ ĐẠO ĐỀ ÁN

Nhằm đáp  ứng nhu cầu về  bồi dưỡng kiến thức pháp 
luật, kỹ  năng nghiệp vụ  phổ  biến, giáo dục pháp luật đối 
với những người trực tiếp thực hiện công tác này, đặc biệt  
là đội ngũ Báo cáo viên pháp luật, Ban chỉ  đạo Đề  án tổ 
chức biên soạn và phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp xuất 
bản cuốn: “Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực  
pháp luật”. Cuốn sách cung cấp cho báo cáo viên các vụ 
việc   liên   quan   tới   pháp   luật   trong   lĩnh   vực   kinh   doanh 
thương mại, hình sự, dân sự, hành chính, lao  động,… đã  
diễn ra trên thực tế, quyết định của Tòa án và những bình 
luận pháp luật của các tác giả về những vụ việc trên.
319

320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

I. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG 
TRONG KINH DOANH

Vụ việc số 1

Ngày   15   tháng   9   năm   2010,   bà   Th   ký   với   Công   ty  
CBTHSXK ­ Việt Ph, hai hợp  đồng không số, tên gọi là 
“Hợp đồng vay vốn để  sản xuất kinh doanh” cùng do ông  
Trần Văn K nguyên giám đốc đại diện ký, cho Công ty vay 
20.000 USD/1 hợp đồng, lãi suất 4,5%/tháng, thời hạn 06 
tháng và 12 tháng. Trong hợp đồng, bên cho vay có ghi là bà 
Nguyễn Thị  Th, địa chỉ  35 Nguyễn An N, quận 1 ­ Thành  
phố  H; bên đi vay là Công ty CBTHSXK ­ Việt Ph, do ông  
Trần   Văn   K   ­   Giám   đốc,   địa   chỉ   57   Nguyễn   T,   quận   1,  
Thành phố H đại diện. Hợp đồng chỉ có chữ  ký của ông K, 
không đóng dấu Công ty.
Thực hiện hợp đồng, bà Th đã giao cho ông K 38.000  
USD, ông K đã trả  được 3.353 USD nên vốn gốc chỉ còn là  
34.647 USD. Khi bà Th giao USD cho ông K không có biên 
lai ký nhận của Kế  toán trưởng hay Thủ  quỹ  của Công ty  
CBTHSXK ­ Việt Ph. Công ty CBTHSXK­ Việt Ph không có 
lưu hợp đồng hoặc các chứng từ  liên quan trong hồ  sơ  tại  
Phòng tài vụ  ­ kế  toán của Công ty CBTHSXK ­ Việt Ph.  
319

Ông Trần Văn K không báo việc ký kết, thực hiện hợp đồng 
với bà Th trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty  
CBTHSXK ­ Việt Ph.
Hết hạn thanh toán, bà Th kiện Công ty CBTHSXK ­ 
Việt Ph; yêu cầu Công ty CBTHSXK ­ Việt Ph phải trả cho  
bà Th các khoản tiền sau:
­ Vốn gốc là 34.647 USD tương đương 557.123.760 đồng;
­ Lãi là 733.354.928 đồng.
Tổng cộng tính tròn hai khoản là: 1.290.000.000 đồng. 
Bình luận


­ Thứ  nhất: Về  hình thức, hai “Hợp đồng vay vốn để 
kinh doanh” cùng ký ngày 15/9/2010 được xác lập giữa bà 
Th với Công ty CBTHSXK ­ Việt Ph. Tuy nhiên, thực tế 
thực hiện hợp đồng lại thể  hiện đây là quan hệ  cho vay 
giữa cá nhân với cá nhân (bà Th và ông K), với những tình  
tiết để chứng minh là việc giao tiền được thực hiện giữa cá 
nhân bà Th với ông K, không qua tài khoản Công ty, nội bộ 
Công ty không được biết về  việc vay tiền này, hợp đồng 
không theo biểu mẫu hợp đồng của Công ty và không được 
đóng con dấu Công ty. Vì vậy, việc bà Th khởi kiện đề nghị 
Tòa án buộc chính Công ty CBTHSXK ­ Việt Ph trả  nợ sẽ 
không được Tòa án chấp nhận. 
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Có quan điểm cho rằng, nếu hợp đồng được đóng dấu  
của Công ty, thì cho dù ông K đứng ra nhận tiền, không 
chuyển tiền cho Công ty, Công ty vẫn phải có nghĩa vụ  trả 
nợ. Còn việc ông K sử  dụng danh nghĩa của Công ty vay  
tiền, không trả được nợ, gây thiệt hại cho Công ty sẽ được 
xem xét  ở  quan hệ  pháp luật khác. Quan điểm này cũng đã 
gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử.
Vấn đề  mấu chốt không phải là hợp đồng được đóng 
dấu Công ty hay không được đóng dấu Công ty vì xét cho  
cùng con dấu không làm thay đổi bản chất và hiệu lực của 

hợp đồng. Việc đóng dấu chỉ  là sự  xác thực về  mặt hành 
chính chữ ký của người có thẩm quyền đại diện cho một tổ 
chức. Quan trọng là để  làm rõ bản chất quan hệ  cho vay 
được xác lập giữa bà Th với Công ty hay với cá nhân ông K, 
cần phải xác định:
+ Ý chí cho vay của bà Th là cho Công ty hay cá nhân 
ông K vay? Tại sao bà Th chuyển tiền cho cá nhân ông K mà 
không qua tài khoản, kế toán Công ty?
+ Ý chí của ông K là vay với danh nghĩa cá nhân hay 
dưới danh nghĩa đại diện cho Công ty? Tại sao ông K trực 
tiếp nhận tiền, trả tiền, không qua sổ sách kế toán Công ty, 
không thông báo việc vay nợ trong nội bộ Công ty?

319

Việc làm rõ ý chí của các bên, một mặt để  xác định rõ 
bản chất quan hệ hợp đồng, mặt khác còn làm rõ hiệu lực  
của giao dịch (hợp đồng sẽ vô hiệu do bị lừa dối nếu ý chí  
bà Th là cho Công ty vay nhưng ông K đã lừa dối bà Th để 
bà Th giao tiền trực tiếp cho ông K) và làm rõ lỗi trong việc  
ông K lợi dụng danh nghĩa của Công ty để  vay tiền, từ  đó 
xác định rõ trách nhiệm của từng chủ  thể  trong việc thực 
hiện nghĩa vụ trả nợ.
­ Thứ  hai: Mặc dù khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh 
chấp, bà Th đã quy đổi giá trị  đòi nợ  bằng tiền Việt, tuy  
nhiên việc cho vay bằng USD là đã vi phạm pháp luật nên 
hợp đồng sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu.
Theo quy định của Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối  
năm 2005 thì các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam phải được  
thực hiện bằng đồng tiền nội tệ. Vi phạm quy định này được 

coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và là một trong những 
căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật Dân 
sự.
Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối quy định:
Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm  
yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không  
được thực hiện bằng ngoại hối, trừ  các giao dịch với tổ  
chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung  
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

gian gồm thu hộ, uỷ  thác, đại lý và các trường hợp cần  
thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép. 
Điều 122 Bộ  luật Dân sự  năm 2005 quy định về  điều 
kiện có hiệu lực của giao dịch:
“1. Giao dịch dân sự  có hiệu lực khi có đủ  các điều  
kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm  
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự  là điều kiện có hiệu lực  
của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Và Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự  không có một trong các điều kiện  
được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.”

Thực   tiễn   xét   xử   hiện   nay   cho   th ấy,   các   giao   dịch  
đượ c   xác   lập   bằng   ngoại   tệ   khi   gi ải   quy ết   Tòa   án   sẽ 
tuyên   giao   dịch   vô   hiệu   vì   cho   rằng   nội   dung   của   h ợp  
đồng đã vi phạm điều cấm của pháp luật (không đượ c 
phép giao dịch b ằng ngo ại h ối). Tuy nhiên, cũng có nhiều 
quan điểm khác nhau xung quanh v ấn đề  giao dịch đượ c  
xác lập bằng ngo ại t ệ. Có quan điểm cho rằng việc vi  
319

phạm quy đị nh về  quản lý ngoại hối chỉ  là sự  vi phạm 
về   quản   lý  hành  chính   và   vì   vậy  các   chủ   thể   chỉ   phải  
chịu chế  tài xử  phạt vi ph ạm hành chính mà không làm 
vô hiệu hợp đồng. Tác giả  cho rằng c ần thi ết ph ải làm 
rõ đối tượ ng của hợp đồng là gì, nếu đối tượ ng của hợp  
đồng là giao dịch cho vay thì lúc này nội dung c ủa h ợp 
đồng đượ c coi là vi phạm điều cấm của pháp luậ t, còn 
nếu đối tượ ng của hợp đồng là hàng hóa mua bán, dị ch 
vụ  thuê, mượ n... thì việc các bên thỏa thuận đồng tiền  
thanh toán bằng ngo ại t ệ  ch ỉ  làm vô hiệu điều khoản về 
thanh toán chứ  không làm cho nội dung c ủa h ợp đồng bị 
vi phạm điều cấm như  cách hiểu hiện nay. Vì vậ y, đối 
với   những   hợp   đồng   mua   bán,   thuê...   mà   các   bên   thỏa  
thuận thanh toán bằng ngoại tệ  thì Tòa án chỉ  tuyên vô 
hiệu điều khoản này và buộc các bên phải khôi phụ c tình 
trạng đã thực hiện cho đúng quy đị nh của pháp luật về 
quản lý ngoại hối.
Vụ việc số 2

Ngày 01/8/2010, Công ty điện máy, xe máy, xe đạp TTD 
(bên A ­ không có chức năng cho thuê nhà xưởng) và Công ty 

trách nhiệm hữu hạn T (bên B) có ký hợp đồng thuê nhà  
xưởng với nội dung: Bên A cho bên B thuê 01 nhà 02 tầng 
và 03 dãy nhà xưởng trên diện tích 2000 m2  đất tại số 42Q 
ngõ   67   phố   Đ,   quận   L,   thành   phố   H.   Thời   hạn   thuê   từ 
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

01/9/2010   đến   30/8/2012.   Giá   cho   thuê   là   140.000.000 
đồng/tháng. Bên B thanh toán cho bên A 03 tháng một lần. 
Nếu chậm thanh toán sẽ bị phạt với mức lãi suất 05%/tháng 
cho số tiền và thời gian chậm thanh toán.
Sau khi thanh lý hợp đồng, bên B phải giao lại cho bên 
A toàn bộ mặt bằng, tài sản của bên A và cả phần sửa chữa  
của bên B (được bên A cho phép).
Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận về trách nhiệm của các 
bên và chọn cơ quan tài phán.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty trách nhiệm hữu  
hạn T đã trả  tiền thuê đến hết tháng 3/2011. Sau đó bị  đơn  
không trả tiền thuê nhà nữa, mặc dù phía nguyên đơn đã có  
nhiều công văn nhắc nhở, bị đơn vẫn không thực hiện.
Do đó đến ngày 11/6/2011, nguyên đơn đã có công văn số 
71/ĐM­XĐXM thông báo cho bị  đơn về  việc hủy bỏ  hợp  
đồng và yêu cầu bị  đơn trả  lại toàn bộ  diện tích nhà xưởng  
đang thuê. Đến ngày 24/8/2011, nguyên đơn có đơn khởi kiện 
yêu cầu:
­ Bị đơn trả lại toàn bộ diện tích thuê.

­ Hoàn trả  số  tiền thuê  nhà  còn thiếu là 308.000.000 
đồng và lãi là 50.976.875 đồng.
Bình luận
319

­ Thứ nhất, Hợp đồng cho thuê nhà xưởng của các bên 
sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu do bên A không có chức năng cho  
thuê nhà xưởng để  thực hiện hợp đồng, vi phạm Điều 9 
Luật Doanh nghiệp năm 2005, Điều 122 và Điều 127 Bộ 
luật Dân sự năm 2005.
Khoản 1 Điều 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định 
về nghĩa vụ của doanh nghiệp: “Hoạt động kinh doanh theo  
đúng ngành, nghề  đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký  
kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định  
của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề  kinh doanh có  
điều kiện.”
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng hợp đồng trên là hợp 
đồng cho thuê tài sản (là hợp đồng dân sự) nên Bên A không  
nhất thiết phải có chức năng kinh doanh trong việc cho thuê 
tài sản thuộc sở  hữu của mình. Quan điểm này cũng gây  
nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử. 
­  Thứ  hai:  Về  việc xử  lý hậu quả  của hợp đồng nêu 
trên khi bị  tuyên vô hiệu cũng có nhiều ý kiến khác nhau.  
Theo quy định của Điều 137 Bộ  luật Dân sự  năm 2005 thì  
hợp đồng bị vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ 
của hai bên, các bên hoàn trả  cho nhau những gì đã nhận, 
nếu không hoàn trả  được bằng tiền thì hoàn trả  bằng hiện  
vật và bên nào có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
320



VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay  
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ  dân sự  của các bên kể  từ  
thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại  
tình trạng ban đầu, hoàn trả  cho nhau những gì đã nhận;  
nếu không hoàn trả  được bằng hiện vật thì phải hoàn trả  
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức  
thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi  
gây thiệt hại phải bồi thường.”
Thực tiễn xét  xử  cho thấy, khi hợp đồng cho thuê nhà 
xưởng bị  vô hiệu thì các bên chấm dứt việc thực hiện hợp 
đồng và bên đi thuê phải thanh toán tiền thuê cho thời gian  
đã thuê (vì việc sử  dụng không thể  hoàn trả  nên hoàn trả 
bằng tiền) vì không có quy định và giải thích cụ thể trường 
hợp nào thì “lợi tức, hoa lợi” thu được phải bị  tịch thu sung  
quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, việc giải quyết hậu quả của hợp  
đồng vô hiệu như  vậy vô hình trung là đã thừa nhận hợp  
đồng, đặc biệt là trong trường hợp thời hạn hợp đồng thuê 
đã hết, các bên đã thực hiện xong hợp đồng và chỉ  còn nợ 
tiền   thuê.   Theo   quan   điểm   của   tác   giả,   tiền   thuê   trong 
trường hợp mà bên cho thuê không có chức năng mà lại cho 
thuê là khoản lợi tức không hợp pháp và bên cho thuê không 
được hưởng mà phải sung quỹ Nhà nước.
319


Mặt khác, quy định “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi 
thường” cần phải thống nhất hiểu “lỗi” ở đây là lỗi làm cho  
hợp đồng bị vô hiệu chứ không phải lỗi trong thực hiện hợp  
đồng vì khi hợp đồng bị  vô hiệu thì không làm phát sinh  
quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Và tác giả cũng cho  
rằng, nếu đã là lỗi làm cho hợp đồng bị  vô hiệu thì chỉ  có 
khả năng cả hai bên cùng có lỗi (50/50) hoặc một bên có lỗi 
(100%)   chứ   không   thể   cân   nhắc   lỗi   theo   mức   70/30   hay 
40/60 v.v… phù hợp với mức độ thiệt hại được. Tuy nhiên,  
thực tế xét xử hiện nay cho thấy việc xem xét lỗi trong việc  
giải  quyết   hậu  quả   của   hợp   đồng   vô  hiệu  còn   rất   khác 
nhau.
Vụ việc số 3

Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại 
TL và Công ty cổ  phần đầu tư  sản xuất động cơ  phụ  tùng  
và lắp ráp ô tô, xe máy T cùng thỏa thuận và ký kết một số 
hợp đồng kinh tế. Theo các hợp đồng kinh tế  số 01/XNTL­
L1/HĐKT   ngày   01/10/2009,   số   02/XNTL­L1/HĐKT   ngày 
12/7/2009, số 03/XNTL­L1/HĐKT ngày 01/10/2009, hai bên 
thỏa  thuận: Công ty TL  bán cho Công ty T vành xe máy  
gồm: vành trước là 60.000 cái, vành sau là 60.000 cái. Tổng 
giá trị cả 03 hợp đồng là 4.909.080.000 đồng, kèm theo thỏa  
thuận thanh toán theo từng hóa đơn xuất hàng trong vòng 30 
ngày kể từ ngày Công ty TL giao hàng.
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại


Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Hợp đồng số 01/MTL­L1/HĐKT ngày 12/11/2009, Công 
ty TL bán cho Công ty T 15.000 mặt nạ  nhựa, tổng giá trị 
hợp đồng là 67.500.000 đồng và thỏa thuận thanh toán trong 
vòng 20 ngày kể từ ngày giao nhận hàng.
Việc giao nhận hàng và trả tiền giữa hai bên được thực  
hiện như sau:
­ Về  loại hàng vành xe máy tính đến thời điểm cuối 
cùng là ngày 24/10/2010, Công ty TL đã giao số lượng hàng 
trị  giá 4.473.644.252 đồng, Công ty T đã trả  3.875.713.918 
đồng, còn nợ là 597.930.334 đồng.
­ Về  loại hàng mặt nạ  nhựa tính đến ngày 10/9/2010,  
Công ty TL đã giao trị giá 125.613.000 đồng, tính trừ một số 
hàng  phải  trả   lại thì  giá  trị  còn  lại là   125.263.000  đồng,  
Công ty T chưa trả được đồng nào.
Tại biên bản đối chiếu công nợ này 17/11/2010, hai bên 
xác nhận: Tổng số tiền Công ty T còn nợ của Công ty TL là 
729.193.334   đồng,   trong   đó   nợ   tiền   vành   xe   máy   là 
597.930.334 đồng; tiền mặt nạ nhựa là 125.263.000 đồng và 
6.000.000 đồng tiền khuôn đúc phía Công ty TL đã  ứng trả 
thay cho Công ty T.
Sau khi chốt nhận nợ, Công ty TL đã nhiều lần đôn đốc,  
nhắc   nợ;   ngày   02/4/2011   Công   ty   T   trả   tiếp   50.000.000 
đồng.   Ngày   17/10/2011   Công   ty   TL   đã   có   công   văn   số 
319

101/2011/CV   gửi   Công   ty   T   yêu   cầu   trả   nốt   số   nợ   gốc 
679.193.334 đồng trước ngày 25/10/2011; mặc dù đã nhận 

được văn bản nhưng Công ty T không trả lời và cũng không  
thanh toán nợ. Do vậy, ngày 06/12/2011 Công ty TL đã có 
đơn khởi kiện yêu cầu buộc Công ty T phải trả số nợ gốc là 
679.193.334 đồng.
Ngoài ra, Công ty TL còn yêu cầu Công ty T phải hoàn trả 
lãi phát sinh trong thời gian chậm thanh toán là 208.947.323 
đồng (theo thỏa thuận trong hợp đồng là 05%/tháng trên số 
tiền chậm trả, thời gian chậm trả  và lãi được tính lũy tiến,  
cộng lãi vào gốc để tính). 
Tòa án đã thụ  lý vụ  việc và nhận định cách tính lãi lũy 
tiến lấy lãi cộng gốc để tính và lãi suất 05%/tháng là không 
phù hợp với quy định về lãi suất cho vay được quy định tại 
Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Bình luận

­ Thứ nhất: Sau ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu  
lực, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực thì không còn  
tồn tại khái niệm hợp đồng kinh tế. Vì vậy, việc các bên 
vẫn còn sử dụng thuật ngữ hợp đồng kinh tế trong giao kết 
hợp đồng là không chính xác.
­ Thứ hai: Việc Tòa án áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân 
sự  năm 2005 để  xem xét thỏa thuận của các bên về  việc  
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

phạt   lãi   do   vi   phạm   nghĩa   vụ   thanh   toán   gây   nhiều   băn 

khoăn bởi Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ  quy định 
về lãi suất của hợp đồng vay. Quy định này có đương nhiên 
được áp dụng cho việc thỏa thuận về  lãi suất phạt chậm  
thanh toán trong các hợp đồng thương mại theo Điều 306 
Luật Thương mại năm 2005 hay không cũng chưa thực sự 
rõ ràng.
Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không  
được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà  
nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả  
lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về  
lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước  
công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định:
“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán  
tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí  
hợp lý khác thì bên bị  vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu  
trả  tiền lãi trên số  tiền chậm trả  đó theo lãi suất nợ  quá  
hạn   trung   bình   trên   thị   trường   tại   thời   điểm   thanh   toán  
tương  ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả  
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
319

Có quan điểm cho rằng, trong tình huống này hai bên đã  
có thỏa thuận khác nên thỏa thuận phạt này hoàn toàn phù hợp 
Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, cần phải được chấp 
nhận. Tuy nhiên có quan điểm khác cho rằng dù các bên có 
thỏa thuận khác thì mức lãi phạt cũng không được cao hơn 
mức 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. 

Như  đã đề  cập  ở  trên, liệu Điều 476 Bộ  luật Dân sự  năm 
2005 về lãi suất trong hợp đồng vay có đương nhiên áp dụng 
cho các hợp đồng khác hay không? Quan điểm của tác giả là 
không áp dụng, bởi bản chất của thỏa thuận phạt vi phạm  
nghĩa vụ  thanh toán trong các hợp đồng thương mại là một 
chế  tài để  răn đe và trừng phạt các chủ  thể  cố  tình vi phạm 
nghĩa vụ, không thuộc phạm vi  điều chỉnh về lãi suất cho vay  
để kiểm soát hoạt động cho vay, thực hiện chính sách về tiền  
tệ của Nhà nước. Do đó, không nhất thiết phải điều chỉnh bởi 
mức tỷ  lệ  do pháp luật quy định để  tạo sự   ổn định và cân 
bằng trong quản lý tiền tệ. Vậy nên, theo chúng tôi, trên thực 
tế xét xử các thẩm phán vẫn áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân 
sự năm 2005 để xem xét về thỏa thuận phạt lãi trong các hợp 
đồng thương mại là không hợp lý.
­ Thứ  ba: Theo hợp đồng thì việc thanh toán phải thực 
hiện không quá 20 ngày đối với mặt nạ nhựa, không quá 30  
ngày đối với vành xe máy kể  từ  ngày bên A giao hàng theo 
từng hóa đơn; ngoài thời hạn trên được coi là chậm trả. 
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Như  vậy, hết thời hạn này mà bên có nghĩa vụ  vẫn không 
thanh toán là  đã  vi phạm nghĩa vụ  hợp  đồng.  Tuy nhiên, 
trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu phía Công ty TL 
không có ý kiến gì; các văn bản đối chiếu nợ  cũng chỉ  ghi 
nhận khoản nợ gốc mà không đề cập đến lãi quá hạn thì coi  

như Công ty TL đã mặc nhiên chấp nhận việc vi phạm. Do  
vậy, thời điểm tính lãi suất chậm thanh toán được lấy mốc  
từ ngày đối chiếu xác nhận công nợ chứ không phải tính từ 
mốc vi phạm theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Vụ việc số 4

Ngày 01/3/2011, Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT 
ký hợp đồng số  03/HĐ­CT liên doanh kinh tế  với nội dung  
chính là:
Hợp tác xã ĐT đồng ý liên doanh với Công ty cổ  phần  
MT. Công ty cổ phần MT đồng ý đầu tư liên doanh của Hợp 
tác xã ĐT để chăn nuôi lợn siêu nạc xuất khẩu với hình thức 
góp  vốn,  khoán  gọn,  thu  lợi  nhuận (lãi  suất 0,7%/tháng). 
Công ty cổ phần MT phải thanh toán lãi cho Hợp tác xã ĐT 
vào ngày cuối tháng hoặc cuối quý.
Hợp tác xã ĐT chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh  
là   500   triệu   đồng   trong   thời   gian  05  năm.   Hết  thời   hạn,  
Công ty cổ phần MT phải thanh toán hết gốc và lãi cho Hợp 
tác xã ĐT.
319

Tài sản Công ty cổ  phần MT làm thế  chấp cho Hợp 
tác xã ĐT là hệ  thống cây xăng đang hoạt động với trị  giá 
1,4 tỷ đồng.
Ngày 14/3/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty  
cổ  phần MT 150 triệu đồng (phiếu chi số  41) căn cứ  vào 
văn   bản   đề   nghị   tạm   ứng   vốn   số   01/VBĐN­CT   ngày 
06/3/2011 của Công ty cổ phần MT.
Ngày 28/4/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty  
cổ phần MT 100 triệu đồng (phiếu chi số 70).

Công ty cổ  phần MT sau khi ký hợp đồng với Hợp tác 
xã ĐT đã ký 03 hợp đồng về lợn giống, thiết bị chuồng lợn  
với Xí nghiệp tập thể BH, Công ty cổ phần Hùng S, Công ty 
trách nhiệm hữu hạn CHAROEN P ­ Những hợp đồng này  
Công ty cổ  phần MT không chuyển đúng tiền thanh toán 
trong hợp đồng nên đã bị phạt 221.323.550 đồng và các thiệt 
hại khác. Tổng thiệt hại hơn 300 triệu đồng.
Công ty cổ phần MT đã chuyển Hợp tác xã ĐT tiền lợi  
nhuận  khoán   gọn   hàng  tháng   (từ   tháng   3/2011   đến   tháng 
11/2011, tổng số  tiền lợi nhuận  đã chuyển là 11.550.000 
đồng).   Từ   tháng   11/2011,   Công   ty   cổ   phần   MT   ngừng 
chuyển tiền lãi cho Hợp tác xã ĐT.
Phía Hợp tác xã ĐT, sau khi ký hợp đồng với Công ty cổ 
phần MT đã bị   Ủy ban kiểm tra huyện C kiểm tra và kết  
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

luận việc ký và thực hiện hợp đồng liên doanh kinh tế giữa  
Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ  phần MT là vi phạm điều lệ 
Hợp tác xã, Nghị  quyết đại hội xã viên bất thường ngày 
07/6/2011, không tìm hiểu kỹ  đối tác kinh doanh mà huyện 
ủy C đã có thông báo số  151/TB­HU. Đại hội đại biểu xã 
viên Hợp tác xã ĐT ngày 29/5/2011 đã yêu cầu thu hồi số 
tiền 250 triệu đồng cho Công ty cổ  phần MT vay về  quỹ 
Hợp tác xã.
Từ  ngày 01/6/2011 đến 09/11/2011, Hợp tác xã ĐT liên 

tục yêu cầu Công ty cổ  phần MT thanh lý hợp đồng, yêu 
cầu Công ty cổ phần MT chuyển trả lại 250 triệu đồng mà 
Hợp tác xã đã chuyển, nhưng Công ty cổ  phần MT không 
thực hiện.
Còn Công ty cổ  phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT hoặc 
thanh lý hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng Hợp tác  
xã ĐT phải bồi thường đầy đủ  mọi thiệt hại của Công ty 
cổ phần MT do Hợp tác xã ĐT gây ra.
Tranh chấp giữa hai bên không giải quyết được. Ngày 
10/02/2012, Hợp tác xã ĐT gửi đơn và hồ sơ khởi kiện đến 
Tòa án nhân dân thành phố HP đề  nghị  giúp Hợp tác xã ĐT 
thu hồi 250 triệu đồng đã chuyển cho Công ty cổ phần MT.  
Công ty cổ phần MT cũng có yêu cầu phản tố đề  nghị  Tòa 
án buộc Hợp tác xã ĐT phải bồi thường các thiệt hại phát 
sinh cho Công ty cổ phần MT.
319

Bình luận
­ Thứ nhất: Hợp đồng liên doanh kinh tế số 03/HĐ­CT 
ký kết ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ 
phần MT bị vô hiệu toàn bộ.
Tại Điều 2 của hợp đồng có quy định: Hợp tác xã ĐT  
chỉ   đầu   tư   lượng   tài   chính   để   liên   doanh   là   500.000.000  
đồng vào vốn lưu động của Công ty cổ phần MT trong thời 
hạn 05 năm. Nhưng tại Điều 1, Điều 3 quy định: khoán gọn, 
thu lợi nhuận lãi suất 0,7%/tháng. Công ty cổ  phần MT đã  
phải trả  lãi hàng tháng cho Hợp tác xã ĐT cho đến tháng  
11/2011.   Tại   văn   bản   đề   nghị   số   01/VBĐN­CT   ngày 
06/3/2011 của Công ty cổ phần MT xác định Hợp tác xã ĐT 
là bên đầu tư  tài chính cho Công ty cổ  phần MT trên cơ  sở 

khoán gọn, trả  lãi hàng tháng theo hợp đồng số  03/HĐ­CT 
ngày 01/3/2011.
Giấy ủy quyền nhận tiền số 01/GUQ­CT ngày 11/3/2011 
của   Công   ty   cổ   phần   MT   ghi   rõ   là   nhận   số   tiền   vay 
150.000.000 đồng. Phiếu chi số  41 ngày 14/3/2011 của Hợp 
tác xã ĐT ghi rõ chi theo văn bản đề nghị vay vốn của Công ty  
cổ phần MT. Phiếu chi 100.000.000 đồng ngày 28/4/2011 của 
Hợp tác xã ĐT ghi chi theo hợp đồng vay vốn. Một số phiếu  
thu của Hợp tác xã ĐT ghi rõ thu tiền lãi cụ thể: phiếu thu số 
02 ngày 28/6/2011, phiếu thu số 24 ngày 15/5/2011; phiếu thu  
số 01 ngày 15/6/2011; phiếu thu số 06, 07 ngày 18/7/2011.
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Từ căn cứ trên thể hiện, thực chất hợp đồng kinh tế số 
03/HĐ­CT ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT với Công ty 
cổ phần MT chỉ là hợp đồng vay vốn.
Như  vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh bị  vô hiệu do 
giả  tạo vì che dấu bản chất là một hợp đồng cho vay vốn 
theo Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo  
nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả  tạo vô  
hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường  
hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ  luật  
này.

Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn  
tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”

luật.”
Khoản 1 Điều 7 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có 
nghĩa vụ: “Sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đúng ngành, nghề,  
mặt hàng đã đăng ký.”
­ Thứ hai: Công ty cổ phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT 
phải bồi thường toàn bộ  thiệt hại do có lỗi dẫn đến hợp 
đồng vô hiệu là không có cơ  sở  để  chấp nhận bởi Công ty 
cổ  phần MT buộc phải có nghĩa vụ  biết chức năng kinh 
doanh của Hợp tác xã là không được phép cho vay vốn. Vì  
vậy, trong trường hợp này lỗi làm cho hợp đồng bị  vô hiệu  
là 50/50 (trừ khi Hợp tác xã ĐT lừa dối làm cho Công ty cổ 
phần MT tin vào việc Hợp tác xã có chức năng này), Công ty  
cổ phần MT phải gánh chịu 1/2 thiệt hại của mình.

Giao dịch bị  che giấu  ở  đây là hợp đồng cho vay vốn  
vẫn bị vô hiệu vì vi phạm Điều 6, Điều 7 của Luật Hợp tác 
xã năm 2003. Cụ  thể, Hợp tác xã không được cho vay đối 
với các tổ chức, cá nhân không phải là xã viên Hợp tác xã và 
không được kinh doanh ngoài những ngành, nghề  đã đăng 
ký.
 Khoản 8 Điều 6 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có  
quyền: “Vay vốn của tổ chức tín dụng và huy động các nguồn  
vốn khác; tổ  chức tín dụng nội bộ  theo  quy định của pháp  
319

320



VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

3. Khế   ước số 9500034 ngày 29/11/2009 vay 3.000.000 
đồng (ba tỷ đồng), chưa trả được gốc và lãi quá hạn.
II. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG 
TÍN DỤNG
Vụ việc số 1

Ngày 07/3/2009, Công ty thương mại xây dựng có thư 
bảo lãnh số  142 cho Chi nhánh Sài Gòn V là đơn vị  thuộc  
Công ty thương mại xây dựng vay tiền của Chi nhánh Ngân  
hàng   Công  thương   thành   phố   H   thuộc   Ngân   hàng   Công 
thương Việt Nam. Thư bảo lãnh với số  tiền 10 tỷ  đồng có 
tài   khoản   710­A00477   tại   Ngân   hàng   Công   thương  Việt 
Nam và tài khoản ngoại tệ  số  362­111­37­0333 tại Ngân 
hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ  thư  bảo lãnh này, Chi 
nhánh Sài Gòn V đã lập khế ước vay Ngân hàng như sau:
1. Ngày 29/7/2009 mở  L/C s ố  0104106/T95LC91 tr ả 
chậm   một   năm   không   quy   định   lãi   suất,   nhưng   có   phí 
chuyển   tiền   với   s ố   tiền   là   232.416   USD.   Từ   ngày 
23/8/2010 đến ngày 15/11/2010 đã trả được 203.670 USD,  
nợ gốc còn 28.746 USD.
2. Khế ước số 95000634 ngày 02/10/2009 vay số tiền là 
2.500.000.000  đồng (hai tỷ  năm trăm triệu đồng) và đã trả 
lãi trong hạn được 75.405.947 đồng.
319


4. Khế ước số 9501051 ngày 26/12/2009 vay 6.375.000.000 
đồng (sáu tỷ ba trăm bảy lăm triệu đồng), hợp đồng ngoại tệ còn  
nợ 28.746 USD.
Ngày 15/4/2011, Công ty thương mại xây dựng được 
khoanh   nợ   05   tháng  và   được   trừ   lãi   đã   thu   vào   gốc   là 
975.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà phía bị đơn đã 
trả   được   1.600.000.000   đồng   tiền   gốc.   Còn   nợ   gốc   sau 
khoanh nợ là 5.400.000.000 đồng và 28.746 USD.
Hết thời gian khoanh nợ, Ngân hàng Công  thương đã 
đến Chi nhánh Sài Gòn V lập biên bản nhận nợ và hai bên  
đã   xác   nhận   với   nhau:   Sài   Gòn   V   còn   nợ   Ngân   hàng   là 
5.400.000.000 đồng tiền gốc và 3.544.152.741 đồng tiền lãi 
quá hạn. Về  ngoại tệ: nợ  gốc 28.746 USD, lãi nợ  quá hạn 
16.994,39 USD.
Sau nhiều  lần  đề   nghị  thanh  toán không  thành,   Ngân 
hàng đã tiến hành khởi kiện Chi nhánh Sài Gòn V với yêu 
cầu Tòa án buộc Chi nhánh Sài Gòn V phải trả  nợ  và xác  
định Công ty thương mại xây dựng là người có quyền lợi, 
nghĩa vụ  liên quan phải đứng ra trả  nợ  thay cho Chi nhánh 
Sài Gòn V khi Chi nhánh không thực hiện nghĩa vụ.
Công   ty   thươ ng   mại   xây   dựng   từ   chối   thực   hiện  
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

nghĩa vụ  bảo lãnh với lý do trong văn bản hoạt động củ a 
Công ty có quy đị nh Chi nhánh tự  chịu trách nhiệm pháp  

lý đối với các khoản nợ mà Chi nhánh đã vay và sử  dụng  
không
 
hiệu quả.
Bình luận

­  Thứ  nhất, việc Ngân hàng khởi kiện Chi nhánh Sài 
Gòn V với tư  cách bị  đơn và xác định Công ty thương mại 
xây dựng là người có quyền lợi,  nghĩa vụ  liên quan phải 
đứng ra trả nợ thay cho Chi nhánh Sài Gòn V khi Chi nhánh  
không thực hiện nghĩa vụ là đã kiện sai đối tượng.
Theo quy định của khoản 2 Điều 37 Luật Doanh nghiệp  
năm 2005, Điều 92, 93 Bộ luật Dân sự năm 2005, chi nhánh 
là đơn vị  phụ  thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ  thực 
hiện toàn bộ  hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp  
kể  cả  chức năng đại diện theo  ủy quyền và doanh nghiệp 
phải chịu trách nhiệm về  việc thực hiện quyền, nghĩa vụ 
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp 
nhân. 
Khoản  2  Điều  37  Luật  Doanh  nghiệp  năm  2005  quy 
định: “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có  
nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của  
doanh  nghiệp  kể   cả   chức   năng  đại  diện   theo  uỷ   quyền.  
319

Ngành, nghề  kinh doanh của chi nhánh phải phù hợp với  
ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp.”
Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Pháp nhân có thể đặt văn phòng đại diện, chi nhánh  
ở nơi khác với nơi đặt trụ sở của pháp nhân.

2. Văn phòng đại diện là đơn vị  phụ  thuộc của pháp  
nhân, có nhiệm vụ  đại diện theo  ủy quyền cho lợi ích của  
pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó.
3. Chi nhánh là đơn vị  phụ  thuộc của pháp nhân, có  
nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của  
pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền.
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp  
nhân. Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực  
hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi  
và thời hạn được ủy quyền.
5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ  dân sự phát sinh từ  
giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực  
hiện.”
Đi ề u 93 B ộ  Lu ậ t D ân s ự  năm 2005 quy  đ ị nh:
“1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự  về  việc  
thực hiện quyền, nghĩa vụ  dân sự  do người đại diện xác  
lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của  
mình; không chịu trách nhiệm thay cho thành viên của pháp  
nhân đối với nghĩa vụ  dân sự  do thành viên xác lập, thực  
hiện không nhân danh pháp nhân.
3. Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm  
dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp  

nhân xác lập, thực hiện.”
Như  vậy, mặc dù các Khế   ước vay nợ  được lập giữa  
Chi nhánh Ngân hàng Công thương tại Thành phố  Hồ  Chí 
Minh với Chi nhánh Sài Gòn V và Công ty thương mại xây 
dựng đứng ra bảo lãnh trả nợ nhưng về bản chất pháp lý thì 
quan hệ  hợp đồng tín dụng được hình thành giữa hai chủ 
thể  đó là: i/Bên cho vay là Ngân hàng Công thương Việt 
Nam; ii/ Bên đi vay là Công ty thương mại xây dựng. Việc 
Ngân hàng Công thương Việt Nam để  cho Công ty thương 
mại xây dựng phát hành thư  bảo lãnh cho Chi nhánh của  
mình vay vốn là đã hiểu không đúng các quy định của pháp  
luật. Bên bảo lãnh phải là bên thứ ba độc lập trong quan hệ 
hợp đồng vay (Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005). 
Đi ề u 361  Bộ luật Dân sự năm 2005 quy  đ ị nh:  
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo  
lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận  
bảo lãnh) sẽ  thực hiện nghĩa vụ  thay cho bên có nghĩa vụ  
319

(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn  
mà   bên   được   bảo   lãnh   không   thực   hiện   hoặc   thực   hiện  
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể  thỏa thuận về  
việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được  
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
Có quan điểm cho rằng, Ngân hàng khởi kiện Chi nhánh 
Sài Gòn V cho nên cần phải xác định Chi nhánh là bị  đơn vì  
theo quy định của khoản 3 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự thì 
bị đơn “là người bị nguyên đơn khởi kiện ”. Tuy nhiên, cần 
hiểu rằng “người” trong quan hệ  tố  tụng có thể  là cá nhân 
hoặc tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự được quy 

định tại Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với cá nhân thì 
phải đủ  18 tuổi trở  lên, đối với tổ  chức thì phải có tư  cách  
pháp nhân, trừ  những tổ  chức không có tư  cách pháp nhân  
nhưng không lệ thuộc bất kỳ tổ chức nào khác (ví dụ: tổ hợp 
tác, hộ gia đình…).
Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định:
“1. Năng lực pháp luật tố  tụng dân sự  là khả  năng có  
các quyền, nghĩa vụ trong tố  tụng dân sự do pháp luật quy  
định. Mọi cá nhân, cơ  quan, tổ  chức có năng lực pháp luật  
tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ  
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình  
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho  
người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
3. Đương sự  là người từ  đủ  mười tám tuổi trở  lên có  
đầy đủ  năng lực hành vi tố  tụng dân sự, trừ  người mất  
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi  
dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Đươ ng sự  là ngườ i chưa đủ  sáu tuổi hoặc người  
mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi  
tố  tụng dân sự. Việc bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp  
cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp  
pháp của họ thực hiện.

5. Đươ ng sự  là  ngườ i từ   đủ  sáu tuổi  đến chưa  đủ  
mườ i lăm tuổi thì việc bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp  
cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp  
pháp của họ thực hiện.
6. Đương sự  là người từ  đủ  mười lăm tuổi đến chưa  
đủ  mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao  
động hoặc giao dịch dân sự  bằng tài sản riêng của mình  
được tự  mình tham gia tố  tụng về những việc có liên quan  
đến   quan   hệ   lao   động   hoặc   quan   hệ   dân   sự   đó.   Trong  
trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người đại diện  
hợp pháp  của họ  tham   gia  tố   tụng.   Đối với những  việc  
khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại Toà  
319

án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
7. Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp  
pháp tham gia tố tụng.”
­  Thứ  hai,  việc  Công ty thương mại xây dựng từ  chối  
thực hiện nghĩa vụ  bảo lãnh với lý do trong văn bản hoạt 
động của Công ty có quy định Chi nhánh tự chịu trách nhiệm  
pháp lý đối với các khoản nợ  mà Chi nhánh đã vay và sử 
dụng không hiệu quả  cũng là chưa hiểu đúng các quy định 
của pháp luật về trách nhiệm của pháp nhân. 
Mặc dù Quy chế  hoạt động của Công ty thương mại 
xây  dựng  có  quy  định  như   vậy  nhưng  sự   ràng  buộc   của 
những quy định này chỉ  có tính chất “quản lý nội bộ”. Về 
mặt pháp lý, pháp nhân vẫn phải chịu toàn bộ  trách nhiệm 
đối với những giao dịch và hoạt động do chi nhánh của mình 
xác lập.
Vụ việc số 2


Căn cứ Quyết định số 146/2009/QĐ­UB ngày 15/3/2009 
của Uỷ  ban nhan dân (UBND) tỉnh THB ­ Phê duyệt mức 
vốn vay “Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm” đối với dự  án sản 
xuất và chế  biến nấm xuất khẩu của Công ty nấm xuất 
khẩu TB, ngày 25/4/2009, trên cơ sở đơn đề nghị  nhận tiền  
vay do ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty nấm xuất 
khẩu TB ký tên và đóng dấu của Công ty, Chi nhánh Ngân 
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

hàng chính sách xã hội tỉnh THB đã ký hợp đồng tín dụng số 
68/HĐ­TD cho ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty nấm 
xuất khẩu TB vay 200.000.000 đồng, mục đích vay để  “mở 
rộng dây chuyền sản xuất và chế  biến nấm xuất khẩu” ; 
thời   hạn   vay   là   24   tháng;   lãi   suất   vay   trong   hạn   là 
0,5%/tháng; lãi quá hạn là 1%/tháng; hình thức  đảm bảo:  
“Bảo lãnh bằng tài sản” của một số cá nhân gồm:
+ Ông Vũ Xuân T ký “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản” 
số 4 HĐ/BLTS ngày 14/02/2009 và hợp đồng bổ sung số 05  
HĐ/BS ngày 21/4/2009, thế  chấp nhà  ở  của gia đình mình 
để  bảo lãnh cho số tiền vay là 85 triệu đồng cả  gốc và lãi  
của ông Nguyễn Tiến Tr.
+ Bà Nguyễn Thị  H ký “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài 
sản” số  03/HĐ­BLTS ngày 24/4/2009, thế  chấp nhà và đất 
của gia đình mình để  bảo lãnh cho số  tiền vay là 50 triệu 

đồng cả gốc và lãi của ông Nguyễn Tiến Tr.
+ Ông Phạm Văn K và vợ  là bà Đinh Thị  Ph ký “Hợp  
đồng   bảo   lãnh   bằng   tài   sản”   số   05/HĐ­BLTS   ngày 
12/6/2009, th ế ch ấp nhà và đất của gia đình mình để  bảo 
lãnh cho số  tiền vay là 62 triệu đồng cả  gốc và lãi của  
ông Nguyễn Tiến Tr.
Hợp đồng vay có ghi rõ bên vay là ông Nguyễn Tiến Tr  
­ Giám đốc Công ty nấm xuất khẩu TB. Hợp đồng do ông  
319

Tr ký, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng chính sách THB ký và 
đóng dấu hai bên. Các văn bản bảo lãnh nói trên đều có cam  
kết “nếu ông Nguyễn Tiến Tr không trả  được thì lúc đó tôi  
sẽ  có trách nhiệm trả  cho Ngân hàng chính sách xã hội cả  
gốc và lãi theo pháp luật”.
Thực   hiện   hợp   đồng   tín   dụng   số   68/HĐ­TD   ngày 
25/4/2009, Chi nhánh ngân hàng chính sách tỉnh THB đã giao 
cho ông Nguyễn Tiến Tr với tư  cách là Giám đốc Công ty 
nấm xuất khẩu TB ký nhận tiền như sau:
+ Ngày 25/4/2009, nhận 110 triệu đồng;
+ Ngày 26/4/2009, nhận 50 triệu đồng;
+ Ngày 14/6/2009, nhận 25 triệu đồng;
+ Ngày 09/8/2009, nhận 15 triệu đồng.
Đến hạn trả nợ, ông Tr không có khả năng trả nợ vì dự 
án   làm   ăn   thua   lỗ.   Ngân   hàng   khởi   kiện   đích   danh   ông 
Nguyễn Tiến Tr và những người bảo lãnh nói trên ra Tòa 
án.
Bình luận
­  Thứ  nhất, Ngân hàng khởi kiện cá nhân ông Nguyễn 
Tiến Tr là không đúng đối tượng.

Mặc   dù   hợp   đồng   vay   ghi   rõ   tên   bên   vay   là   ông 
Nguyễn Tiến Tr ­ Giám đốc Công ty. Tuy nhiên, cần phải 
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

làm   rõ   quan   hệ   hợp   đồng   vay   thực   chất   phát   sinh   giữa 
Ngân hàng với cá nhân ông Tr hay với Công ty nấm xuất 
khẩu TB do ông Tr làm đại diện. Cần phải xem xét đến  
các chứng cứ  khác liên quan đến việc cho vay như  căn cứ 
để  Chi nhánh Ngân hàng chính sách tỉnh THB ký kết hợp 
đồng   tín   dụng   này   là   Quyết   định   số   146/2009/QĐ­UB 
ngày 15/3/2009 c ủa UBND t ỉnh THB v ề  vi ệc phê duyệt 
cho Công ty nấm xuất khẩu TB (chứ  không phải cá nhân  
ông Nguyễn Tiến Tr) đượ c vay 200 triệu đồng tiền vốn  
từ  Quỹ  quốc gia hỗ  trợ  vi ệc làm; các đơn đề  nghị  nhận  
tiền vay đều do ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty  
nấm xuất khẩu TB ký tên và đóng dấu của Công ty nấm 
xuất khẩu  TB.  Như   vậy,  chủ  th ể   đượ c  quyền vay  tiền  
của Quỹ  quốc gia hỗ  trợ  việc làm  ở  đây phải là Công ty 
nấm xuất khẩu TB chứ  không phải cá nhân ông Nguyễn 
Tiến Tr.

hữu chung vợ  chồng. Khi tài sản bảo lãnh là tài sản chung 
vợ  chồng thì cần phải được cả  vợ  và chồng nhất trí định 
đoạt mới có giá trị  pháp lý (Điều 219 Bộ  luật Dân sự  năm 
2005).


Thứ hai, hai hợp đồng bão lãnh ký giữa ông Vũ Xuân T, 
bà Nguyễn Thị  H với Chi nhánh Ngân hàng chính sách tỉnh 
THB đều bị  vô hiệu tuyệt đối nên sẽ  không làm phát sinh 
nghĩa vụ bảo lãnh của ông T và bà Hưng. 

Mặt   khác   việc   bảo   lãnh   bằng   tài   sản   là   quyền   sử 
dụng đất phải thực hiện thủ  tục công chứng và đăng ký  
giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật mới đảm 
bảo hiệu lực về  mặt hình thức của giao dịch (Điều 122 
Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai  
năm  2003  và  Điều 3 Nghị   định số   83 /2010/NĐ­CP  ngày 
23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm).

Bên bảo lãnh là ông Vũ Xuân T, bà Nguyễn Thị H dùng 
tài sản chung của hai vợ  chồng để  đảm bảo cho nghĩa vụ 
bảo lãnh nhưng lại thiếu chữ ký của vợ ông Vũ Xuân T và 
chồng bà Nguyễn Thị  H là vi phạm quy định về  chế  độ  sở 
319

Đi ề u 219 B ộ  lu ậ t D ân s ự  năm 2005 quy  đ ị nh:   
“1. Sở  hữu chung của vợ  chồng là sở  hữu chung hợp  
nhất.
2. Vợ  chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản  
chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau  
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ  chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc  ủy quyền  
cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ  chồng có thể  phân chia theo  
thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.”


Đi ề u 122 B ộ  lu ậ t D ân s ự  2005 quy  đ ị nh :
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

“1. Giao dịch dân sự  có hiệu lực khi có đủ  các điều  
kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm  
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự  là điều kiện có hiệu lực  
của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Điểm a khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai năm 2003 quy 
định: 
“Hợp đồng thế  chấp, bảo lãnh bằng quyền sử  dụng  
đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường  
hợp hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất  
của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng  
nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ  
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất;”
Điều 3  Nghị  định số  83/2010/NĐ­CP ngày 23/7/2010 quy 
định: 
“1. Các giao dịch bảo đảm sau đây phải đăng ký:

c) Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay;

d) Thế chấp tàu biển;
đ) Các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy định.
2. Các giao dịch bảo đảm bằng tài sản không thuộc các  
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này được đăng ký khi  
cá nhân, tổ chức có yêu cầu”.
Mặt khác, về  chủ  thể  được nhận bảo lãnh, trong các  
văn   bản   bảo   lãnh   đều   ghi   là   “nếu   ông  Nguyễn   Tiến  Tr  
không trả được…”; như vậy, việc bảo lãnh được đặt ra cho 
cá nhân ông Nguyễn Tiến Tr   chứ  không phải là Công ty 
nấm  xuất khẩu TB do ông Tr làm đại diện, nên rất khó  
buộc những người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ, trừ khi 
những người này thừa nhận họ  đứng ra bảo lãnh cho Công 
ty chứ không phải cho cá nhân ông Tr. 
Rõ ràng có thể  thấy rằng, những sai sót về  nghiệp 
vụ  của Ngân hàng như  xác định không đúng chủ  thể  vay  
vốn, chủ  thể  đượ c bảo lãnh vay vốn và không tuân thủ 
các quy định của pháp luật về các điều kiện để  giao dịch  
bảo đảm có hiệu lực sẽ  mang l ại cho Ngân hàng những 
hậu quả rất bất l ợi.

a) Thế chấp quyền sử dụng đất;

Vụ việc số 3

b) Thế chấp rừng sản xuất là rừng trồng;

Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh H và Công 
319

320



VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

ty cổ  phần thương mại và phát triển gia súc TTĐN có ký  
kết 04 hợp đồng tín dụng, cụ thể:
Hợp đồng tín dụng số 09/HĐTD ngày 24/6/2004 với số 
tiền vay là 3.500.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng, 
ngày trả hết nợ lãi và gốc là 24/6/2009. Ngày 16/6/2004, hai 
bên ký kết hợp đồng thế  chấp quyền sử  dụng đất, tài sản  
gắn liền với đất số 01/TC là quyền sử  dụng 16.970 m2 đất 
và tài sản hình thành từ  vốn vay gắn liền với đất, với tổng 
giá trị tài sản bảo đảm là 5.280.351.000 đồng;
Hợp đồng tín dụng số  12/HĐTD ngày 28/10/2004 với 
số tiền vay là 600 triệu đồng, thời hạn cho vay là 60 tháng, 
ngày trả hết nợ gốc và lãi là 28/10/2009. Cùng ngày hai bên  
còn ký hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, giá 
trị  tài sản dự  kiến sẽ hình thành từ  vốn vay là 850.000.000  
đồng;
Hợp đồng tín dụng s ố  04/HĐTD ngày 04/4/2005 v ới 
số   tiền   vay   là   525.000.000   đồng,   thời   hạn   vay   là   60 
tháng, ngày trả  hết nợ gốc và lãi là ngày 04/4/2010. Cùng  
ngày hai bên còn ký hợp đồng thế chấp tài sản hình thành 
từ  vốn vay, giá trị  tài sản dự  kiến s ẽ  hình thành từ  vốn 
vay là 700.000.000 đồng;
Hợp đồng tín dụng s ố  16/HĐTD ngày 04/4/2005 v ới 
số   tiền   vay   là   1.900.000.000   đồng,   thời   hạn   vay   là   12 
319


tháng, ngày trả  hết nợ  gốc và lãi là 04/4/2006, ti ền vay  
đượ c bảo đảm theo thỏa thuận trong h ợp đồng bả o đả m 
tiền vay kèm theo h ợp đồng vay; đến hạn Công ty không 
trả  đượ c nợ  gốc và lãi, Ngân hàng đượ c quyền xử  lý tài 
sản thế  chấp để  thu hồi cả  nợ  gốc và lãi. Thực tế  thì 
không có hợp đồng bảo đảm kèm theo hợp đồng tín dụng  
nêu   trên   nhưng   có   giấy   thỏa   thu ận   đăng   ký   nghĩa   vụ 
đượ c bảo đả m nợ  vay Ngân hàng do hai bên lập không 
đề  ngày chỉ  ghi tháng 4/2005 v ới n ội dung: Tài sản thế 
chấp chính chủ và tài sản hình thành từ vốn vay là 16.970  
m2  đất tại thôn Nguyệt Viên, xã HQ, huyện H, t ỉnh TH 
do UBND t ỉnh TH c ấp ngày 03/9/2003 cho Công ty. Tài 
sản  gắn  liền  với  đấ t là   văn phòng  làm  việc,  trang  tr ại  
chăn nuôi, tài sản khác là xe con điều hành đượ c tiếp tục  
sử  dụng để  đảm bảo thực hiện nghĩa vụ  theo hợp đồng  
tín dụng s ố  16/HĐTD ngày 04/4/2005 thay th ế  cho nghĩa 
vụ   đượ c   bảo   đả m   củ a   hợp   đồng   tín   dụ ng   ngày 
01/9/2004. Giấy th ỏa thu ận này chưa đượ c các cơ  quan 
Nhà   nướ c   có   thẩm   quyền   công   chứng,   chứng   thực   và 
đăng ký theo quy đị nh của pháp luật.
Tại biên bản làm việc ngày 22/01/2007, hai bên thỏa 
thuận: “1. Công ty TTĐN đồng ý bàn giao, Ngân hàng đồng 
ý nhận lại các tài sản thế chấp theo danh mục sau để xử lý 
thu hồi nợ:
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại


Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Các tài sản theo danh mục tại hợp đồng thế  chấp tài 
sản   số   01/TC   ngày   16/6/2004;   nguyên   giá   5.151.256.000 
đồng;
Trại nái 131 con theo hợp đồng thế  chấp tài sản ngày 
28/10/2004: nguyên giá 828.670.462 đồng;
Trạm nghiền thức ăn gia súc theo hợp đồng thế chấp tài 
sản ngày 04/4/2005: nguyên giá 700.000.000 đồng;
Tổng giá trị theo nguyên giá là 6.733.926.462 đồng.
Các tài sản trên được đảm bảo cho khoản nợ  vay tại 
Ngân   hàng   Hoằng   Hóa   với   số   tiền   gốc   là   6.133.156.000 
đồng.
Tại biên bản làm việc ngày 10/02/2007, hai bên thống 
nhất bàn giao tài sản của Công ty TTĐN theo hợp đồng đảm  
bảo, riêng đàn lợn theo đúng thực tế tại thời điểm bàn giao 
và ấn định ngày bàn giao là ngày 13/02/2007.
Cũng  trong ngày  10/02/2007,  Công ty  TTĐN   ký hợp 
đồng chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất với ông Lê  
Khả  Thủy, bao gồm: Chu ồng l ợn 800m 2, tường rào bao 
quanh, đường giao thông nội khu, hồ  sinh thái, bể  phốt,  
tháp nước và hệ  thống cấp nước, san lấp m ặt b ằng trên 
diện tích 7.746 m2 tại thôn 8 xã HQ, huyện H, tỉnh TH v ới 
giá 110.000.000 đồng và Công ty TTĐN bán cho Lê Khả 
Th 300 con lợn thành tiền là 152.290.000 đồng. Ngày 11 
319

và 13/12/2007, Công ty TTĐN bán cho ông Lê Khả  L 358  
con lợn thành tiền là 300.341.000 đồng.
Ngày 12/02/2007, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án 

buộc Công ty TTĐN phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền 
nợ  gốc và lãi của 04 hợp đồng tín dụng nói trên tính đến 
ngày 31/01/2007 gồm: nợ gốc là 6.133.516.000 đồng, và nợ 
lãi là 558.411.000 đồng.
Khi Tòa án chưa nhận đơn và thụ  lý vụ  án thì ngày 
13/12/2007,   Ngân   hàng   và   Công   ty   đã   có   văn   bản   thỏa  
thuận thống nhất bàn giao tài sản thế  chấp của các hợp 
đồng   tín   dụng   trên   có   trị   giá   là   6.732.229.528   đồng   và 
Ngân hàng đã đơn phương bán tài sản thế chấp mà không 
có sự  thỏa thuận thống nhất c ủa Công ty TTĐN. Cụ  thể 
là Ngân hàng đã trưng cầu Trung tâm tư  vấn tài chính giá  
cả  TH định giá lại tài sản bàn giao ngày 13/02/2007 với  
kết quả  định giá là 6.167.763.000 đồng. Ngày 04/7/2007, 
Ngân  hàng tổ  chức   bán  đấu giá   tài sản cho Công  ty cổ 
phần CN HH với giá 4.020.000.000đ, sau khi trừ  chi phí 
chăm sóc đàn lợn thì số tiền còn lại Ngân hàng thực thu từ 
việc   bán   tài   sản   là   3.245.589.736   đồng   để   trừ   vào   các 
khoản vay nợ  của Công ty TTĐN theo 04 hợp  đồng tín  
dụng   trên.   Công   ty   TTĐN   được   thông   báo   về   việc   này 
nhưng cũng không có ý kiến phản đối.
Theo tính toán của Ngân hàng thì số  tiền còn lại mà 
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

Công ty TTĐN còn nợ sau khi đã được khấu trừ số tiền bán  
tài   sản   thế   chấp   là   2.889.926.000   đồng   nợ   gốc   và 

1.837.750.000 đồng nợ lãi, tổng cộng là 4.725.676.000 đồng.
Ngược lại, phía Công ty TTĐN lại có yêu cầu phản tố 
cho rằng Ngân hàng đã bán tài sản gây thiệt hại cho Công ty 
là 416.052.856 đồng (theo tính toán của Công ty về giá trị tài 
sản trừ đi nợ của Công ty).
Bình luận

ra  trong quá  trình  Tòa  án đang thụ   lý  giải quyết vụ   án, 
Ngân hàng phải yêu cầu Tòa án xử  lý tài sản này để  thu 
hồi nợ  và phải chờ  kết quả  giải quyết của Tòa án theo 
đúng   quy   định   tại   khoản   4   Điều   34   Nghị   định   số 
178/1999/NĐ­CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ.
Tiểu   mục   5.2   Mục   I   Phần   B   Thông   tư   liên   tịch   số 
03/2001/TTLT­NHNN­BTP­BCA­BTC­TCĐC quy định về các 
phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận như sau:

Văn bản pháp luật để  xem xét việc xử  lý tài sản bảo  
đảm   tiền   vay   vào   thời   điểm   này   là   Nghị   định   số 
178/1999/NĐ­CP  ngày  29/12/1999   của   Chính  phủ   về   bảo 
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Thông tư liên tịch  
số   03/2001/TTLT­NHNN­BTP­BCA­BTC­TCĐC   ngày 
23/4/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm bằng tiền  
vay để thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng.

5.2. Tổ chức tín dụng nhận tài sản bảo đảm để thay thế  
cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm.

Việc Ngân hàng tự xử lý tài sản thế chấp để khấu trừ 
công nợ  là vi phạm các quy định của pháp luật nên yêu  
cầu khởi kiện của Ngân hàng sẽ  không đượ c Tòa án xem 

xét chấp nhận. Mặc dù việc Ngân hàng và Công ty TTĐN  
bàn giao tài sản thế  chấp và xác định giá trị  tài sản bàn 
giao để  thu hồi nợ  trước hạn là phù hợp với hướng dẫn 
tại   Thông   tư   liên   tịch   số   03/2001/TTLT­NHNN­BTP­
BCA­BTC­TCĐC. Tuy nhiên, khi có tranh chấp thì đáng lẽ 

b. Sau khi nhận tài sản bảo đảm để  thay thế  cho việc  
thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, tổ chức tín dụng được làm  
thủ  tục nhận chuyển giao quyền sở  hữu, quyền sử dụng tài  
sản bảo đảm hoặc được bán, chuyển nhượng tài sản bảo  
đảm cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng tài sản theo quy  
định của pháp luật.

319

a. Tổ chức tín dụng và bên bảo đảm lập biên bản nhận  
tài sản bảo đảm để  thay thế  cho việc thực hiện nghĩa vụ  
được bảo đảm. Biên bản phải ghi rõ việc bàn giao, tiếp  
nhận, định giá xử  lý tài sản bảo đảm và thanh toán nợ  từ  
việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Thông tư này. 

Khoản 4 Điều 34 Nghị định số 178/1999/NĐ­CP quy định 
về  xử  lý tài sản bảo đảm tiền vay như  sau:  “Trong trường  
320


VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật


hợp các bên có tranh chấp và khởi kiện, thì tài sản bảo đảm  
tiền vay được xử lý theo bản án có hiệu lực pháp luật của Toà  
án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.”

gây thiệt hại lớn cho Ngân hàng./.

Mặt khác, việc Ngân hàng xử  lý bán tài sản thế  chấp 
bàn giao ngày 13/02/2007 cũng không phù hợp với các quy 
định của Thông tư  liên tịch số  03/2001/TTLT­NHNN­BTP­
BCA­BTC­TCĐC. 
Đối với yêu cầu phản tố  của Công ty TTĐN: Do quá 
trình   thực   hiện   hợp   đồng   tín   dụng,   Công   ty   TTĐN   đã 
không   thực   hiện  đúng   cam   kết   về   thời   gian   trả   n ợ   nên 
việc Ngân hàng yêu cầu xử  lý nợ  trước hạn là do lỗi của  
Công ty. Trong quá trình bàn giao và giải quyết việc xử lý 
tài sản, Ngân hàng đã trưng cầu Trung tâm tư  vấn giá cả 
và   kết quả   định giá,   mặc  dù  không có  sự   tham gia   của 
Công ty, nhưng Công ty đã được thông báo và không có sự 
phản đối sự  định giá này nên khả  năng đượ c Tòa án chấp  
nhận yêu cầu phản tố này là khó khả thi.
Như  vậy, tình huống trên cho thấy các Ngân hàng khi 
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải nắm vững các quy định 
của   pháp  luật  để  đảm bảo  sự  chủ   động  của  Ngân hàng 
đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân 
hàng được pháp luật bảo vệ, tránh tình trạng tự ý xử lý như 
tình huống của Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh H dẫn đến 
yêu cầu khởi kiện không được Tòa án chấp nhận xem xét, 
319

320



VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật

III. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP CÔNG TY1

Vụ việc số 1
Đầu năm 2011, bà Lan A,  ông Trần C,  ông Nguyễn 
Tấn L, ông Nguyễn Phú T và bà Đặng Thị  Kiều Ch cùng 
nhau bàn bạc và thống nhất thành lập Công ty trách nhiệm  
hữu hạn sản xuất thương mại xu ất nh ập kh ẩu HB, d ự 
kiến giao cho ông L làm giám đốc và đại diện theo pháp  
luật của công ty. Các thành viên cũng thống nhất cử  bà  
Lan   A   sẽ   làm  Chủ   tịch   Hội   đồng   thành   viên,   ông   Trần 
Công M (do bà Lan A giới thiệu) làm thủ  quỹ. Để  các cổ 
đông yên tâm góp vốn và thể hiện sự công bằng, các thành 
viên giao cho ông T mở  và đứng tên tài khoản, việc rút 
tiền từ  ngân hàng phải có chữ  ký của cả  ông T và ông M.  
Các   cổ   đông   phải   nộp   một   phần   tiền   tr ước   ngày 
10/4/2011 để  trang trải cho việc thành lập công ty. Ông L  
chịu trách nhiệm soạn thảo điều lệ  công ty để  các thành 
viên thông qua và đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư qua  
mạng Internet. 
 Chúng tôi gọi tắt các tranh chấp phát sinh giữa thành viên công 
ty với công ty, thành viên công ty với nhau liên quan đến tổ chức,  
hoạt động và giải thể doanh nghiệp là “tranh chấp công ty”
1


319

Ngày 07/4/2011, các thành viên gồm ông L, ông T và bà 
Kiều Ch, có cả ông M, ông Trần C cùng đến Vietcombank ­  
chi nhánh BT mở  tài khoản cho ông T đứng tên. Việc nộp 
tiền được thực hiện như sau: ông Nguyễn Phú T nộp 01 tỷ 
đồng; bà Đặng Thị  Kiều Ch nộp 2,5 tỷ  đồng; ông Nguyễn 
Tấn L nộp 2,5 tỷ đồng. 
Sau   khi   nộp   hồ   sơ   và   được   cấp   biên   nhận,   Sở   Kế 
hoạch và Đầu tư thành phố H phát hiện số CMND mang tên 
Nguyễn   Thị   Lan   A   không   trùng   khớp   với   số   CMND   ghi  
trong sổ hộ khẩu nên yêu cầu bà Lan A điều chỉnh hoặc có 
xác nhận hợp lệ bổ sung hồ sơ thành lập công ty nhưng bà  
Lan A không đáp ứng yêu cầu này. 
Do bất đồng ý kiến giữa các bên nên cuối cùng Công ty  
HB không được thành lập. Theo kiểm kê quĩ thì tổng số các  
khoản chi lên đến 2,2 tỷ  đồng nhưng ông T, ông M không  
giải trình các khoản chi này một cách hợp lý (nhiều khoản  
chi phục vụ mục đích mua sắm cá nhân).
Ông L và bà Kiều Ch khởi kiện ra Tòa án để  yêu cầu 
ông T trả lại toàn bộ số tiền góp vốn.
Bình luận
­ Có quan điểm cho rằng, đây là tranh chấp liên quan  
đến việc thành lập doanh nghiệp theo Điều 14 Luật Doanh 
nghiệp năm 2005, khoản 2 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự 
320


×