VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
TÌM HIỂU CÁC TRANH CHẤP
TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC PHÁP LUẬT
ĐỀ ÁN 2 CHƯƠNG TRÌNH PHỔ BIẾN, GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ 20082012
BỘ TƯ PHÁP
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP NĂM 2012
319
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN:
Nguyễn Thúy Hiền
Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Trưởng Ban chỉ đạo Đề án
TỔ CHỨC BIÊN SOẠN:
Nguyễn Duy Lãm
Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp
Phạm Thị Hòa
Phó Vụ trưởng Vụ PBGDPL, Bộ Tư pháp
THAM GIA BIÊN SOẠN:
1. TS. Lê Thu Hằng, Học viện Tư pháp
2. ThS. Vũ Thị Thu Hiền, Học viện Tư pháp
3. ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Học viện Tư pháp
4. ThS. Nguyễn Thị Hằng Nga, Học viện Tư pháp
5. TS. Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Học viện Tư pháp
6. ThS. Tống Thị Thanh Thanh, Học viện Tư pháp
7. ThS. Ngô Ngọc Vân, Học viện Tư pháp.
319
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
LỜI GIỚI THIỆU
Ngày 27/02/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 270/2009/QĐTTg phê duyệt Đề án: “Củng cố, kiện
toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát
triển của đất nước” thuộc Chương trình phổ biến, giáo dục
pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 đến năm 2012. Một
trong các hoạt động của Đề án là cung cấp, hỗ trợ tài liệu
nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho các đối tượng của Đề án,
góp phần nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ của
đội ngũ thực hiện công tác này trong thời kỳ mới.
Ban chỉ đạo Đề án trân trọng cảm ơn sự tham gia nhiệt
tình của tập thể tác giả và sự phối hợp tích cực của Vụ Phổ
biến, giáo dục pháp luật thường trực Ban chỉ đạo Đề án
để hoàn thành cuốn sách này.
Xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của bạn đọc về nội dung cuốn sách.
BAN CHỈ ĐẠO ĐỀ ÁN
Nhằm đáp ứng nhu cầu về bồi dưỡng kiến thức pháp
luật, kỹ năng nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật đối
với những người trực tiếp thực hiện công tác này, đặc biệt
là đội ngũ Báo cáo viên pháp luật, Ban chỉ đạo Đề án tổ
chức biên soạn và phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp xuất
bản cuốn: “Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực
pháp luật”. Cuốn sách cung cấp cho báo cáo viên các vụ
việc liên quan tới pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại, hình sự, dân sự, hành chính, lao động,… đã
diễn ra trên thực tế, quyết định của Tòa án và những bình
luận pháp luật của các tác giả về những vụ việc trên.
319
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
I. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TRONG KINH DOANH
Vụ việc số 1
Ngày 15 tháng 9 năm 2010, bà Th ký với Công ty
CBTHSXK Việt Ph, hai hợp đồng không số, tên gọi là
“Hợp đồng vay vốn để sản xuất kinh doanh” cùng do ông
Trần Văn K nguyên giám đốc đại diện ký, cho Công ty vay
20.000 USD/1 hợp đồng, lãi suất 4,5%/tháng, thời hạn 06
tháng và 12 tháng. Trong hợp đồng, bên cho vay có ghi là bà
Nguyễn Thị Th, địa chỉ 35 Nguyễn An N, quận 1 Thành
phố H; bên đi vay là Công ty CBTHSXK Việt Ph, do ông
Trần Văn K Giám đốc, địa chỉ 57 Nguyễn T, quận 1,
Thành phố H đại diện. Hợp đồng chỉ có chữ ký của ông K,
không đóng dấu Công ty.
Thực hiện hợp đồng, bà Th đã giao cho ông K 38.000
USD, ông K đã trả được 3.353 USD nên vốn gốc chỉ còn là
34.647 USD. Khi bà Th giao USD cho ông K không có biên
lai ký nhận của Kế toán trưởng hay Thủ quỹ của Công ty
CBTHSXK Việt Ph. Công ty CBTHSXK Việt Ph không có
lưu hợp đồng hoặc các chứng từ liên quan trong hồ sơ tại
Phòng tài vụ kế toán của Công ty CBTHSXK Việt Ph.
319
Ông Trần Văn K không báo việc ký kết, thực hiện hợp đồng
với bà Th trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty
CBTHSXK Việt Ph.
Hết hạn thanh toán, bà Th kiện Công ty CBTHSXK
Việt Ph; yêu cầu Công ty CBTHSXK Việt Ph phải trả cho
bà Th các khoản tiền sau:
Vốn gốc là 34.647 USD tương đương 557.123.760 đồng;
Lãi là 733.354.928 đồng.
Tổng cộng tính tròn hai khoản là: 1.290.000.000 đồng.
Bình luận
Thứ nhất: Về hình thức, hai “Hợp đồng vay vốn để
kinh doanh” cùng ký ngày 15/9/2010 được xác lập giữa bà
Th với Công ty CBTHSXK Việt Ph. Tuy nhiên, thực tế
thực hiện hợp đồng lại thể hiện đây là quan hệ cho vay
giữa cá nhân với cá nhân (bà Th và ông K), với những tình
tiết để chứng minh là việc giao tiền được thực hiện giữa cá
nhân bà Th với ông K, không qua tài khoản Công ty, nội bộ
Công ty không được biết về việc vay tiền này, hợp đồng
không theo biểu mẫu hợp đồng của Công ty và không được
đóng con dấu Công ty. Vì vậy, việc bà Th khởi kiện đề nghị
Tòa án buộc chính Công ty CBTHSXK Việt Ph trả nợ sẽ
không được Tòa án chấp nhận.
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
Có quan điểm cho rằng, nếu hợp đồng được đóng dấu
của Công ty, thì cho dù ông K đứng ra nhận tiền, không
chuyển tiền cho Công ty, Công ty vẫn phải có nghĩa vụ trả
nợ. Còn việc ông K sử dụng danh nghĩa của Công ty vay
tiền, không trả được nợ, gây thiệt hại cho Công ty sẽ được
xem xét ở quan hệ pháp luật khác. Quan điểm này cũng đã
gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử.
Vấn đề mấu chốt không phải là hợp đồng được đóng
dấu Công ty hay không được đóng dấu Công ty vì xét cho
cùng con dấu không làm thay đổi bản chất và hiệu lực của
hợp đồng. Việc đóng dấu chỉ là sự xác thực về mặt hành
chính chữ ký của người có thẩm quyền đại diện cho một tổ
chức. Quan trọng là để làm rõ bản chất quan hệ cho vay
được xác lập giữa bà Th với Công ty hay với cá nhân ông K,
cần phải xác định:
+ Ý chí cho vay của bà Th là cho Công ty hay cá nhân
ông K vay? Tại sao bà Th chuyển tiền cho cá nhân ông K mà
không qua tài khoản, kế toán Công ty?
+ Ý chí của ông K là vay với danh nghĩa cá nhân hay
dưới danh nghĩa đại diện cho Công ty? Tại sao ông K trực
tiếp nhận tiền, trả tiền, không qua sổ sách kế toán Công ty,
không thông báo việc vay nợ trong nội bộ Công ty?
319
Việc làm rõ ý chí của các bên, một mặt để xác định rõ
bản chất quan hệ hợp đồng, mặt khác còn làm rõ hiệu lực
của giao dịch (hợp đồng sẽ vô hiệu do bị lừa dối nếu ý chí
bà Th là cho Công ty vay nhưng ông K đã lừa dối bà Th để
bà Th giao tiền trực tiếp cho ông K) và làm rõ lỗi trong việc
ông K lợi dụng danh nghĩa của Công ty để vay tiền, từ đó
xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc thực
hiện nghĩa vụ trả nợ.
Thứ hai: Mặc dù khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh
chấp, bà Th đã quy đổi giá trị đòi nợ bằng tiền Việt, tuy
nhiên việc cho vay bằng USD là đã vi phạm pháp luật nên
hợp đồng sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu.
Theo quy định của Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối
năm 2005 thì các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam phải được
thực hiện bằng đồng tiền nội tệ. Vi phạm quy định này được
coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và là một trong những
căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật Dân
sự.
Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối quy định:
Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm
yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không
được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ
chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần
thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về điều
kiện có hiệu lực của giao dịch:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều
kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Và Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện
được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.”
Thực tiễn xét xử hiện nay cho th ấy, các giao dịch
đượ c xác lập bằng ngoại tệ khi gi ải quy ết Tòa án sẽ
tuyên giao dịch vô hiệu vì cho rằng nội dung của h ợp
đồng đã vi phạm điều cấm của pháp luật (không đượ c
phép giao dịch b ằng ngo ại h ối). Tuy nhiên, cũng có nhiều
quan điểm khác nhau xung quanh v ấn đề giao dịch đượ c
xác lập bằng ngo ại t ệ. Có quan điểm cho rằng việc vi
319
phạm quy đị nh về quản lý ngoại hối chỉ là sự vi phạm
về quản lý hành chính và vì vậy các chủ thể chỉ phải
chịu chế tài xử phạt vi ph ạm hành chính mà không làm
vô hiệu hợp đồng. Tác giả cho rằng c ần thi ết ph ải làm
rõ đối tượ ng của hợp đồng là gì, nếu đối tượ ng của hợp
đồng là giao dịch cho vay thì lúc này nội dung c ủa h ợp
đồng đượ c coi là vi phạm điều cấm của pháp luậ t, còn
nếu đối tượ ng của hợp đồng là hàng hóa mua bán, dị ch
vụ thuê, mượ n... thì việc các bên thỏa thuận đồng tiền
thanh toán bằng ngo ại t ệ ch ỉ làm vô hiệu điều khoản về
thanh toán chứ không làm cho nội dung c ủa h ợp đồng bị
vi phạm điều cấm như cách hiểu hiện nay. Vì vậ y, đối
với những hợp đồng mua bán, thuê... mà các bên thỏa
thuận thanh toán bằng ngoại tệ thì Tòa án chỉ tuyên vô
hiệu điều khoản này và buộc các bên phải khôi phụ c tình
trạng đã thực hiện cho đúng quy đị nh của pháp luật về
quản lý ngoại hối.
Vụ việc số 2
Ngày 01/8/2010, Công ty điện máy, xe máy, xe đạp TTD
(bên A không có chức năng cho thuê nhà xưởng) và Công ty
trách nhiệm hữu hạn T (bên B) có ký hợp đồng thuê nhà
xưởng với nội dung: Bên A cho bên B thuê 01 nhà 02 tầng
và 03 dãy nhà xưởng trên diện tích 2000 m2 đất tại số 42Q
ngõ 67 phố Đ, quận L, thành phố H. Thời hạn thuê từ
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
01/9/2010 đến 30/8/2012. Giá cho thuê là 140.000.000
đồng/tháng. Bên B thanh toán cho bên A 03 tháng một lần.
Nếu chậm thanh toán sẽ bị phạt với mức lãi suất 05%/tháng
cho số tiền và thời gian chậm thanh toán.
Sau khi thanh lý hợp đồng, bên B phải giao lại cho bên
A toàn bộ mặt bằng, tài sản của bên A và cả phần sửa chữa
của bên B (được bên A cho phép).
Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận về trách nhiệm của các
bên và chọn cơ quan tài phán.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty trách nhiệm hữu
hạn T đã trả tiền thuê đến hết tháng 3/2011. Sau đó bị đơn
không trả tiền thuê nhà nữa, mặc dù phía nguyên đơn đã có
nhiều công văn nhắc nhở, bị đơn vẫn không thực hiện.
Do đó đến ngày 11/6/2011, nguyên đơn đã có công văn số
71/ĐMXĐXM thông báo cho bị đơn về việc hủy bỏ hợp
đồng và yêu cầu bị đơn trả lại toàn bộ diện tích nhà xưởng
đang thuê. Đến ngày 24/8/2011, nguyên đơn có đơn khởi kiện
yêu cầu:
Bị đơn trả lại toàn bộ diện tích thuê.
Hoàn trả số tiền thuê nhà còn thiếu là 308.000.000
đồng và lãi là 50.976.875 đồng.
Bình luận
319
Thứ nhất, Hợp đồng cho thuê nhà xưởng của các bên
sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu do bên A không có chức năng cho
thuê nhà xưởng để thực hiện hợp đồng, vi phạm Điều 9
Luật Doanh nghiệp năm 2005, Điều 122 và Điều 127 Bộ
luật Dân sự năm 2005.
Khoản 1 Điều 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định
về nghĩa vụ của doanh nghiệp: “Hoạt động kinh doanh theo
đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định
của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện.”
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng hợp đồng trên là hợp
đồng cho thuê tài sản (là hợp đồng dân sự) nên Bên A không
nhất thiết phải có chức năng kinh doanh trong việc cho thuê
tài sản thuộc sở hữu của mình. Quan điểm này cũng gây
nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử.
Thứ hai: Về việc xử lý hậu quả của hợp đồng nêu
trên khi bị tuyên vô hiệu cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo quy định của Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì
hợp đồng bị vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của hai bên, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận,
nếu không hoàn trả được bằng tiền thì hoàn trả bằng hiện
vật và bên nào có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ
thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận;
nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức
thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi
gây thiệt hại phải bồi thường.”
Thực tiễn xét xử cho thấy, khi hợp đồng cho thuê nhà
xưởng bị vô hiệu thì các bên chấm dứt việc thực hiện hợp
đồng và bên đi thuê phải thanh toán tiền thuê cho thời gian
đã thuê (vì việc sử dụng không thể hoàn trả nên hoàn trả
bằng tiền) vì không có quy định và giải thích cụ thể trường
hợp nào thì “lợi tức, hoa lợi” thu được phải bị tịch thu sung
quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, việc giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu như vậy vô hình trung là đã thừa nhận hợp
đồng, đặc biệt là trong trường hợp thời hạn hợp đồng thuê
đã hết, các bên đã thực hiện xong hợp đồng và chỉ còn nợ
tiền thuê. Theo quan điểm của tác giả, tiền thuê trong
trường hợp mà bên cho thuê không có chức năng mà lại cho
thuê là khoản lợi tức không hợp pháp và bên cho thuê không
được hưởng mà phải sung quỹ Nhà nước.
319
Mặt khác, quy định “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi
thường” cần phải thống nhất hiểu “lỗi” ở đây là lỗi làm cho
hợp đồng bị vô hiệu chứ không phải lỗi trong thực hiện hợp
đồng vì khi hợp đồng bị vô hiệu thì không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Và tác giả cũng cho
rằng, nếu đã là lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu thì chỉ có
khả năng cả hai bên cùng có lỗi (50/50) hoặc một bên có lỗi
(100%) chứ không thể cân nhắc lỗi theo mức 70/30 hay
40/60 v.v… phù hợp với mức độ thiệt hại được. Tuy nhiên,
thực tế xét xử hiện nay cho thấy việc xem xét lỗi trong việc
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu còn rất khác
nhau.
Vụ việc số 3
Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại
TL và Công ty cổ phần đầu tư sản xuất động cơ phụ tùng
và lắp ráp ô tô, xe máy T cùng thỏa thuận và ký kết một số
hợp đồng kinh tế. Theo các hợp đồng kinh tế số 01/XNTL
L1/HĐKT ngày 01/10/2009, số 02/XNTLL1/HĐKT ngày
12/7/2009, số 03/XNTLL1/HĐKT ngày 01/10/2009, hai bên
thỏa thuận: Công ty TL bán cho Công ty T vành xe máy
gồm: vành trước là 60.000 cái, vành sau là 60.000 cái. Tổng
giá trị cả 03 hợp đồng là 4.909.080.000 đồng, kèm theo thỏa
thuận thanh toán theo từng hóa đơn xuất hàng trong vòng 30
ngày kể từ ngày Công ty TL giao hàng.
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
Hợp đồng số 01/MTLL1/HĐKT ngày 12/11/2009, Công
ty TL bán cho Công ty T 15.000 mặt nạ nhựa, tổng giá trị
hợp đồng là 67.500.000 đồng và thỏa thuận thanh toán trong
vòng 20 ngày kể từ ngày giao nhận hàng.
Việc giao nhận hàng và trả tiền giữa hai bên được thực
hiện như sau:
Về loại hàng vành xe máy tính đến thời điểm cuối
cùng là ngày 24/10/2010, Công ty TL đã giao số lượng hàng
trị giá 4.473.644.252 đồng, Công ty T đã trả 3.875.713.918
đồng, còn nợ là 597.930.334 đồng.
Về loại hàng mặt nạ nhựa tính đến ngày 10/9/2010,
Công ty TL đã giao trị giá 125.613.000 đồng, tính trừ một số
hàng phải trả lại thì giá trị còn lại là 125.263.000 đồng,
Công ty T chưa trả được đồng nào.
Tại biên bản đối chiếu công nợ này 17/11/2010, hai bên
xác nhận: Tổng số tiền Công ty T còn nợ của Công ty TL là
729.193.334 đồng, trong đó nợ tiền vành xe máy là
597.930.334 đồng; tiền mặt nạ nhựa là 125.263.000 đồng và
6.000.000 đồng tiền khuôn đúc phía Công ty TL đã ứng trả
thay cho Công ty T.
Sau khi chốt nhận nợ, Công ty TL đã nhiều lần đôn đốc,
nhắc nợ; ngày 02/4/2011 Công ty T trả tiếp 50.000.000
đồng. Ngày 17/10/2011 Công ty TL đã có công văn số
319
101/2011/CV gửi Công ty T yêu cầu trả nốt số nợ gốc
679.193.334 đồng trước ngày 25/10/2011; mặc dù đã nhận
được văn bản nhưng Công ty T không trả lời và cũng không
thanh toán nợ. Do vậy, ngày 06/12/2011 Công ty TL đã có
đơn khởi kiện yêu cầu buộc Công ty T phải trả số nợ gốc là
679.193.334 đồng.
Ngoài ra, Công ty TL còn yêu cầu Công ty T phải hoàn trả
lãi phát sinh trong thời gian chậm thanh toán là 208.947.323
đồng (theo thỏa thuận trong hợp đồng là 05%/tháng trên số
tiền chậm trả, thời gian chậm trả và lãi được tính lũy tiến,
cộng lãi vào gốc để tính).
Tòa án đã thụ lý vụ việc và nhận định cách tính lãi lũy
tiến lấy lãi cộng gốc để tính và lãi suất 05%/tháng là không
phù hợp với quy định về lãi suất cho vay được quy định tại
Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Bình luận
Thứ nhất: Sau ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu
lực, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực thì không còn
tồn tại khái niệm hợp đồng kinh tế. Vì vậy, việc các bên
vẫn còn sử dụng thuật ngữ hợp đồng kinh tế trong giao kết
hợp đồng là không chính xác.
Thứ hai: Việc Tòa án áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân
sự năm 2005 để xem xét thỏa thuận của các bên về việc
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
phạt lãi do vi phạm nghĩa vụ thanh toán gây nhiều băn
khoăn bởi Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định
về lãi suất của hợp đồng vay. Quy định này có đương nhiên
được áp dụng cho việc thỏa thuận về lãi suất phạt chậm
thanh toán trong các hợp đồng thương mại theo Điều 306
Luật Thương mại năm 2005 hay không cũng chưa thực sự
rõ ràng.
Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không
được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả
lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về
lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định:
“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán
tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí
hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu
trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá
hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
319
Có quan điểm cho rằng, trong tình huống này hai bên đã
có thỏa thuận khác nên thỏa thuận phạt này hoàn toàn phù hợp
Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, cần phải được chấp
nhận. Tuy nhiên có quan điểm khác cho rằng dù các bên có
thỏa thuận khác thì mức lãi phạt cũng không được cao hơn
mức 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Như đã đề cập ở trên, liệu Điều 476 Bộ luật Dân sự năm
2005 về lãi suất trong hợp đồng vay có đương nhiên áp dụng
cho các hợp đồng khác hay không? Quan điểm của tác giả là
không áp dụng, bởi bản chất của thỏa thuận phạt vi phạm
nghĩa vụ thanh toán trong các hợp đồng thương mại là một
chế tài để răn đe và trừng phạt các chủ thể cố tình vi phạm
nghĩa vụ, không thuộc phạm vi điều chỉnh về lãi suất cho vay
để kiểm soát hoạt động cho vay, thực hiện chính sách về tiền
tệ của Nhà nước. Do đó, không nhất thiết phải điều chỉnh bởi
mức tỷ lệ do pháp luật quy định để tạo sự ổn định và cân
bằng trong quản lý tiền tệ. Vậy nên, theo chúng tôi, trên thực
tế xét xử các thẩm phán vẫn áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân
sự năm 2005 để xem xét về thỏa thuận phạt lãi trong các hợp
đồng thương mại là không hợp lý.
Thứ ba: Theo hợp đồng thì việc thanh toán phải thực
hiện không quá 20 ngày đối với mặt nạ nhựa, không quá 30
ngày đối với vành xe máy kể từ ngày bên A giao hàng theo
từng hóa đơn; ngoài thời hạn trên được coi là chậm trả.
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
Như vậy, hết thời hạn này mà bên có nghĩa vụ vẫn không
thanh toán là đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu phía Công ty TL
không có ý kiến gì; các văn bản đối chiếu nợ cũng chỉ ghi
nhận khoản nợ gốc mà không đề cập đến lãi quá hạn thì coi
như Công ty TL đã mặc nhiên chấp nhận việc vi phạm. Do
vậy, thời điểm tính lãi suất chậm thanh toán được lấy mốc
từ ngày đối chiếu xác nhận công nợ chứ không phải tính từ
mốc vi phạm theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Vụ việc số 4
Ngày 01/3/2011, Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT
ký hợp đồng số 03/HĐCT liên doanh kinh tế với nội dung
chính là:
Hợp tác xã ĐT đồng ý liên doanh với Công ty cổ phần
MT. Công ty cổ phần MT đồng ý đầu tư liên doanh của Hợp
tác xã ĐT để chăn nuôi lợn siêu nạc xuất khẩu với hình thức
góp vốn, khoán gọn, thu lợi nhuận (lãi suất 0,7%/tháng).
Công ty cổ phần MT phải thanh toán lãi cho Hợp tác xã ĐT
vào ngày cuối tháng hoặc cuối quý.
Hợp tác xã ĐT chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh
là 500 triệu đồng trong thời gian 05 năm. Hết thời hạn,
Công ty cổ phần MT phải thanh toán hết gốc và lãi cho Hợp
tác xã ĐT.
319
Tài sản Công ty cổ phần MT làm thế chấp cho Hợp
tác xã ĐT là hệ thống cây xăng đang hoạt động với trị giá
1,4 tỷ đồng.
Ngày 14/3/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty
cổ phần MT 150 triệu đồng (phiếu chi số 41) căn cứ vào
văn bản đề nghị tạm ứng vốn số 01/VBĐNCT ngày
06/3/2011 của Công ty cổ phần MT.
Ngày 28/4/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty
cổ phần MT 100 triệu đồng (phiếu chi số 70).
Công ty cổ phần MT sau khi ký hợp đồng với Hợp tác
xã ĐT đã ký 03 hợp đồng về lợn giống, thiết bị chuồng lợn
với Xí nghiệp tập thể BH, Công ty cổ phần Hùng S, Công ty
trách nhiệm hữu hạn CHAROEN P Những hợp đồng này
Công ty cổ phần MT không chuyển đúng tiền thanh toán
trong hợp đồng nên đã bị phạt 221.323.550 đồng và các thiệt
hại khác. Tổng thiệt hại hơn 300 triệu đồng.
Công ty cổ phần MT đã chuyển Hợp tác xã ĐT tiền lợi
nhuận khoán gọn hàng tháng (từ tháng 3/2011 đến tháng
11/2011, tổng số tiền lợi nhuận đã chuyển là 11.550.000
đồng). Từ tháng 11/2011, Công ty cổ phần MT ngừng
chuyển tiền lãi cho Hợp tác xã ĐT.
Phía Hợp tác xã ĐT, sau khi ký hợp đồng với Công ty cổ
phần MT đã bị Ủy ban kiểm tra huyện C kiểm tra và kết
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
luận việc ký và thực hiện hợp đồng liên doanh kinh tế giữa
Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT là vi phạm điều lệ
Hợp tác xã, Nghị quyết đại hội xã viên bất thường ngày
07/6/2011, không tìm hiểu kỹ đối tác kinh doanh mà huyện
ủy C đã có thông báo số 151/TBHU. Đại hội đại biểu xã
viên Hợp tác xã ĐT ngày 29/5/2011 đã yêu cầu thu hồi số
tiền 250 triệu đồng cho Công ty cổ phần MT vay về quỹ
Hợp tác xã.
Từ ngày 01/6/2011 đến 09/11/2011, Hợp tác xã ĐT liên
tục yêu cầu Công ty cổ phần MT thanh lý hợp đồng, yêu
cầu Công ty cổ phần MT chuyển trả lại 250 triệu đồng mà
Hợp tác xã đã chuyển, nhưng Công ty cổ phần MT không
thực hiện.
Còn Công ty cổ phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT hoặc
thanh lý hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng Hợp tác
xã ĐT phải bồi thường đầy đủ mọi thiệt hại của Công ty
cổ phần MT do Hợp tác xã ĐT gây ra.
Tranh chấp giữa hai bên không giải quyết được. Ngày
10/02/2012, Hợp tác xã ĐT gửi đơn và hồ sơ khởi kiện đến
Tòa án nhân dân thành phố HP đề nghị giúp Hợp tác xã ĐT
thu hồi 250 triệu đồng đã chuyển cho Công ty cổ phần MT.
Công ty cổ phần MT cũng có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa
án buộc Hợp tác xã ĐT phải bồi thường các thiệt hại phát
sinh cho Công ty cổ phần MT.
319
Bình luận
Thứ nhất: Hợp đồng liên doanh kinh tế số 03/HĐCT
ký kết ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ
phần MT bị vô hiệu toàn bộ.
Tại Điều 2 của hợp đồng có quy định: Hợp tác xã ĐT
chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh là 500.000.000
đồng vào vốn lưu động của Công ty cổ phần MT trong thời
hạn 05 năm. Nhưng tại Điều 1, Điều 3 quy định: khoán gọn,
thu lợi nhuận lãi suất 0,7%/tháng. Công ty cổ phần MT đã
phải trả lãi hàng tháng cho Hợp tác xã ĐT cho đến tháng
11/2011. Tại văn bản đề nghị số 01/VBĐNCT ngày
06/3/2011 của Công ty cổ phần MT xác định Hợp tác xã ĐT
là bên đầu tư tài chính cho Công ty cổ phần MT trên cơ sở
khoán gọn, trả lãi hàng tháng theo hợp đồng số 03/HĐCT
ngày 01/3/2011.
Giấy ủy quyền nhận tiền số 01/GUQCT ngày 11/3/2011
của Công ty cổ phần MT ghi rõ là nhận số tiền vay
150.000.000 đồng. Phiếu chi số 41 ngày 14/3/2011 của Hợp
tác xã ĐT ghi rõ chi theo văn bản đề nghị vay vốn của Công ty
cổ phần MT. Phiếu chi 100.000.000 đồng ngày 28/4/2011 của
Hợp tác xã ĐT ghi chi theo hợp đồng vay vốn. Một số phiếu
thu của Hợp tác xã ĐT ghi rõ thu tiền lãi cụ thể: phiếu thu số
02 ngày 28/6/2011, phiếu thu số 24 ngày 15/5/2011; phiếu thu
số 01 ngày 15/6/2011; phiếu thu số 06, 07 ngày 18/7/2011.
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
Từ căn cứ trên thể hiện, thực chất hợp đồng kinh tế số
03/HĐCT ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT với Công ty
cổ phần MT chỉ là hợp đồng vay vốn.
Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh bị vô hiệu do
giả tạo vì che dấu bản chất là một hợp đồng cho vay vốn
theo Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo
nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô
hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật
này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”
luật.”
Khoản 1 Điều 7 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có
nghĩa vụ: “Sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đúng ngành, nghề,
mặt hàng đã đăng ký.”
Thứ hai: Công ty cổ phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do có lỗi dẫn đến hợp
đồng vô hiệu là không có cơ sở để chấp nhận bởi Công ty
cổ phần MT buộc phải có nghĩa vụ biết chức năng kinh
doanh của Hợp tác xã là không được phép cho vay vốn. Vì
vậy, trong trường hợp này lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu
là 50/50 (trừ khi Hợp tác xã ĐT lừa dối làm cho Công ty cổ
phần MT tin vào việc Hợp tác xã có chức năng này), Công ty
cổ phần MT phải gánh chịu 1/2 thiệt hại của mình.
Giao dịch bị che giấu ở đây là hợp đồng cho vay vốn
vẫn bị vô hiệu vì vi phạm Điều 6, Điều 7 của Luật Hợp tác
xã năm 2003. Cụ thể, Hợp tác xã không được cho vay đối
với các tổ chức, cá nhân không phải là xã viên Hợp tác xã và
không được kinh doanh ngoài những ngành, nghề đã đăng
ký.
Khoản 8 Điều 6 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có
quyền: “Vay vốn của tổ chức tín dụng và huy động các nguồn
vốn khác; tổ chức tín dụng nội bộ theo quy định của pháp
319
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
3. Khế ước số 9500034 ngày 29/11/2009 vay 3.000.000
đồng (ba tỷ đồng), chưa trả được gốc và lãi quá hạn.
II. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG
Vụ việc số 1
Ngày 07/3/2009, Công ty thương mại xây dựng có thư
bảo lãnh số 142 cho Chi nhánh Sài Gòn V là đơn vị thuộc
Công ty thương mại xây dựng vay tiền của Chi nhánh Ngân
hàng Công thương thành phố H thuộc Ngân hàng Công
thương Việt Nam. Thư bảo lãnh với số tiền 10 tỷ đồng có
tài khoản 710A00477 tại Ngân hàng Công thương Việt
Nam và tài khoản ngoại tệ số 362111370333 tại Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ thư bảo lãnh này, Chi
nhánh Sài Gòn V đã lập khế ước vay Ngân hàng như sau:
1. Ngày 29/7/2009 mở L/C s ố 0104106/T95LC91 tr ả
chậm một năm không quy định lãi suất, nhưng có phí
chuyển tiền với s ố tiền là 232.416 USD. Từ ngày
23/8/2010 đến ngày 15/11/2010 đã trả được 203.670 USD,
nợ gốc còn 28.746 USD.
2. Khế ước số 95000634 ngày 02/10/2009 vay số tiền là
2.500.000.000 đồng (hai tỷ năm trăm triệu đồng) và đã trả
lãi trong hạn được 75.405.947 đồng.
319
4. Khế ước số 9501051 ngày 26/12/2009 vay 6.375.000.000
đồng (sáu tỷ ba trăm bảy lăm triệu đồng), hợp đồng ngoại tệ còn
nợ 28.746 USD.
Ngày 15/4/2011, Công ty thương mại xây dựng được
khoanh nợ 05 tháng và được trừ lãi đã thu vào gốc là
975.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà phía bị đơn đã
trả được 1.600.000.000 đồng tiền gốc. Còn nợ gốc sau
khoanh nợ là 5.400.000.000 đồng và 28.746 USD.
Hết thời gian khoanh nợ, Ngân hàng Công thương đã
đến Chi nhánh Sài Gòn V lập biên bản nhận nợ và hai bên
đã xác nhận với nhau: Sài Gòn V còn nợ Ngân hàng là
5.400.000.000 đồng tiền gốc và 3.544.152.741 đồng tiền lãi
quá hạn. Về ngoại tệ: nợ gốc 28.746 USD, lãi nợ quá hạn
16.994,39 USD.
Sau nhiều lần đề nghị thanh toán không thành, Ngân
hàng đã tiến hành khởi kiện Chi nhánh Sài Gòn V với yêu
cầu Tòa án buộc Chi nhánh Sài Gòn V phải trả nợ và xác
định Công ty thương mại xây dựng là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan phải đứng ra trả nợ thay cho Chi nhánh
Sài Gòn V khi Chi nhánh không thực hiện nghĩa vụ.
Công ty thươ ng mại xây dựng từ chối thực hiện
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
nghĩa vụ bảo lãnh với lý do trong văn bản hoạt động củ a
Công ty có quy đị nh Chi nhánh tự chịu trách nhiệm pháp
lý đối với các khoản nợ mà Chi nhánh đã vay và sử dụng
không
hiệu quả.
Bình luận
Thứ nhất, việc Ngân hàng khởi kiện Chi nhánh Sài
Gòn V với tư cách bị đơn và xác định Công ty thương mại
xây dựng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải
đứng ra trả nợ thay cho Chi nhánh Sài Gòn V khi Chi nhánh
không thực hiện nghĩa vụ là đã kiện sai đối tượng.
Theo quy định của khoản 2 Điều 37 Luật Doanh nghiệp
năm 2005, Điều 92, 93 Bộ luật Dân sự năm 2005, chi nhánh
là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực
hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp
kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền và doanh nghiệp
phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp
nhân.
Khoản 2 Điều 37 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy
định: “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có
nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của
doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền.
319
Ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phải phù hợp với
ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp.”
Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“1. Pháp nhân có thể đặt văn phòng đại diện, chi nhánh
ở nơi khác với nơi đặt trụ sở của pháp nhân.
2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp
nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của
pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó.
3. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có
nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của
pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền.
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp
nhân. Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực
hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi
và thời hạn được ủy quyền.
5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ
giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực
hiện.”
Đi ề u 93 B ộ Lu ậ t D ân s ự năm 2005 quy đ ị nh:
“1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác
lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của
mình; không chịu trách nhiệm thay cho thành viên của pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực
hiện không nhân danh pháp nhân.
3. Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm
dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp
nhân xác lập, thực hiện.”
Như vậy, mặc dù các Khế ước vay nợ được lập giữa
Chi nhánh Ngân hàng Công thương tại Thành phố Hồ Chí
Minh với Chi nhánh Sài Gòn V và Công ty thương mại xây
dựng đứng ra bảo lãnh trả nợ nhưng về bản chất pháp lý thì
quan hệ hợp đồng tín dụng được hình thành giữa hai chủ
thể đó là: i/Bên cho vay là Ngân hàng Công thương Việt
Nam; ii/ Bên đi vay là Công ty thương mại xây dựng. Việc
Ngân hàng Công thương Việt Nam để cho Công ty thương
mại xây dựng phát hành thư bảo lãnh cho Chi nhánh của
mình vay vốn là đã hiểu không đúng các quy định của pháp
luật. Bên bảo lãnh phải là bên thứ ba độc lập trong quan hệ
hợp đồng vay (Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Đi ề u 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy đ ị nh:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo
lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận
bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
319
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về
việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
Có quan điểm cho rằng, Ngân hàng khởi kiện Chi nhánh
Sài Gòn V cho nên cần phải xác định Chi nhánh là bị đơn vì
theo quy định của khoản 3 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự thì
bị đơn “là người bị nguyên đơn khởi kiện ”. Tuy nhiên, cần
hiểu rằng “người” trong quan hệ tố tụng có thể là cá nhân
hoặc tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự được quy
định tại Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với cá nhân thì
phải đủ 18 tuổi trở lên, đối với tổ chức thì phải có tư cách
pháp nhân, trừ những tổ chức không có tư cách pháp nhân
nhưng không lệ thuộc bất kỳ tổ chức nào khác (ví dụ: tổ hợp
tác, hộ gia đình…).
Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định:
“1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có
các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy
định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật
tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho
người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có
đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Đươ ng sự là ngườ i chưa đủ sáu tuổi hoặc người
mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi
tố tụng dân sự. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp
pháp của họ thực hiện.
5. Đươ ng sự là ngườ i từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ
mườ i lăm tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp
pháp của họ thực hiện.
6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa
đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao
động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình
được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan
đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong
trường hợp này, Toà án có quyền triệu tập người đại diện
hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc
khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại Toà
319
án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
7. Đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp
pháp tham gia tố tụng.”
Thứ hai, việc Công ty thương mại xây dựng từ chối
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do trong văn bản hoạt
động của Công ty có quy định Chi nhánh tự chịu trách nhiệm
pháp lý đối với các khoản nợ mà Chi nhánh đã vay và sử
dụng không hiệu quả cũng là chưa hiểu đúng các quy định
của pháp luật về trách nhiệm của pháp nhân.
Mặc dù Quy chế hoạt động của Công ty thương mại
xây dựng có quy định như vậy nhưng sự ràng buộc của
những quy định này chỉ có tính chất “quản lý nội bộ”. Về
mặt pháp lý, pháp nhân vẫn phải chịu toàn bộ trách nhiệm
đối với những giao dịch và hoạt động do chi nhánh của mình
xác lập.
Vụ việc số 2
Căn cứ Quyết định số 146/2009/QĐUB ngày 15/3/2009
của Uỷ ban nhan dân (UBND) tỉnh THB Phê duyệt mức
vốn vay “Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm” đối với dự án sản
xuất và chế biến nấm xuất khẩu của Công ty nấm xuất
khẩu TB, ngày 25/4/2009, trên cơ sở đơn đề nghị nhận tiền
vay do ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty nấm xuất
khẩu TB ký tên và đóng dấu của Công ty, Chi nhánh Ngân
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
hàng chính sách xã hội tỉnh THB đã ký hợp đồng tín dụng số
68/HĐTD cho ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty nấm
xuất khẩu TB vay 200.000.000 đồng, mục đích vay để “mở
rộng dây chuyền sản xuất và chế biến nấm xuất khẩu” ;
thời hạn vay là 24 tháng; lãi suất vay trong hạn là
0,5%/tháng; lãi quá hạn là 1%/tháng; hình thức đảm bảo:
“Bảo lãnh bằng tài sản” của một số cá nhân gồm:
+ Ông Vũ Xuân T ký “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản”
số 4 HĐ/BLTS ngày 14/02/2009 và hợp đồng bổ sung số 05
HĐ/BS ngày 21/4/2009, thế chấp nhà ở của gia đình mình
để bảo lãnh cho số tiền vay là 85 triệu đồng cả gốc và lãi
của ông Nguyễn Tiến Tr.
+ Bà Nguyễn Thị H ký “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài
sản” số 03/HĐBLTS ngày 24/4/2009, thế chấp nhà và đất
của gia đình mình để bảo lãnh cho số tiền vay là 50 triệu
đồng cả gốc và lãi của ông Nguyễn Tiến Tr.
+ Ông Phạm Văn K và vợ là bà Đinh Thị Ph ký “Hợp
đồng bảo lãnh bằng tài sản” số 05/HĐBLTS ngày
12/6/2009, th ế ch ấp nhà và đất của gia đình mình để bảo
lãnh cho số tiền vay là 62 triệu đồng cả gốc và lãi của
ông Nguyễn Tiến Tr.
Hợp đồng vay có ghi rõ bên vay là ông Nguyễn Tiến Tr
Giám đốc Công ty nấm xuất khẩu TB. Hợp đồng do ông
319
Tr ký, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng chính sách THB ký và
đóng dấu hai bên. Các văn bản bảo lãnh nói trên đều có cam
kết “nếu ông Nguyễn Tiến Tr không trả được thì lúc đó tôi
sẽ có trách nhiệm trả cho Ngân hàng chính sách xã hội cả
gốc và lãi theo pháp luật”.
Thực hiện hợp đồng tín dụng số 68/HĐTD ngày
25/4/2009, Chi nhánh ngân hàng chính sách tỉnh THB đã giao
cho ông Nguyễn Tiến Tr với tư cách là Giám đốc Công ty
nấm xuất khẩu TB ký nhận tiền như sau:
+ Ngày 25/4/2009, nhận 110 triệu đồng;
+ Ngày 26/4/2009, nhận 50 triệu đồng;
+ Ngày 14/6/2009, nhận 25 triệu đồng;
+ Ngày 09/8/2009, nhận 15 triệu đồng.
Đến hạn trả nợ, ông Tr không có khả năng trả nợ vì dự
án làm ăn thua lỗ. Ngân hàng khởi kiện đích danh ông
Nguyễn Tiến Tr và những người bảo lãnh nói trên ra Tòa
án.
Bình luận
Thứ nhất, Ngân hàng khởi kiện cá nhân ông Nguyễn
Tiến Tr là không đúng đối tượng.
Mặc dù hợp đồng vay ghi rõ tên bên vay là ông
Nguyễn Tiến Tr Giám đốc Công ty. Tuy nhiên, cần phải
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
làm rõ quan hệ hợp đồng vay thực chất phát sinh giữa
Ngân hàng với cá nhân ông Tr hay với Công ty nấm xuất
khẩu TB do ông Tr làm đại diện. Cần phải xem xét đến
các chứng cứ khác liên quan đến việc cho vay như căn cứ
để Chi nhánh Ngân hàng chính sách tỉnh THB ký kết hợp
đồng tín dụng này là Quyết định số 146/2009/QĐUB
ngày 15/3/2009 c ủa UBND t ỉnh THB v ề vi ệc phê duyệt
cho Công ty nấm xuất khẩu TB (chứ không phải cá nhân
ông Nguyễn Tiến Tr) đượ c vay 200 triệu đồng tiền vốn
từ Quỹ quốc gia hỗ trợ vi ệc làm; các đơn đề nghị nhận
tiền vay đều do ông Nguyễn Tiến Tr, Giám đốc Công ty
nấm xuất khẩu TB ký tên và đóng dấu của Công ty nấm
xuất khẩu TB. Như vậy, chủ th ể đượ c quyền vay tiền
của Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở đây phải là Công ty
nấm xuất khẩu TB chứ không phải cá nhân ông Nguyễn
Tiến Tr.
hữu chung vợ chồng. Khi tài sản bảo lãnh là tài sản chung
vợ chồng thì cần phải được cả vợ và chồng nhất trí định
đoạt mới có giá trị pháp lý (Điều 219 Bộ luật Dân sự năm
2005).
Thứ hai, hai hợp đồng bão lãnh ký giữa ông Vũ Xuân T,
bà Nguyễn Thị H với Chi nhánh Ngân hàng chính sách tỉnh
THB đều bị vô hiệu tuyệt đối nên sẽ không làm phát sinh
nghĩa vụ bảo lãnh của ông T và bà Hưng.
Mặt khác việc bảo lãnh bằng tài sản là quyền sử
dụng đất phải thực hiện thủ tục công chứng và đăng ký
giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật mới đảm
bảo hiệu lực về mặt hình thức của giao dịch (Điều 122
Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai
năm 2003 và Điều 3 Nghị định số 83 /2010/NĐCP ngày
23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm).
Bên bảo lãnh là ông Vũ Xuân T, bà Nguyễn Thị H dùng
tài sản chung của hai vợ chồng để đảm bảo cho nghĩa vụ
bảo lãnh nhưng lại thiếu chữ ký của vợ ông Vũ Xuân T và
chồng bà Nguyễn Thị H là vi phạm quy định về chế độ sở
319
Đi ề u 219 B ộ lu ậ t D ân s ự năm 2005 quy đ ị nh:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp
nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản
chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền
cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo
thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.”
Đi ề u 122 B ộ lu ậ t D ân s ự 2005 quy đ ị nh :
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều
kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Điểm a khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai năm 2003 quy
định:
“Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng
đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường
hợp hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất
của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng
nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất;”
Điều 3 Nghị định số 83/2010/NĐCP ngày 23/7/2010 quy
định:
“1. Các giao dịch bảo đảm sau đây phải đăng ký:
c) Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay;
d) Thế chấp tàu biển;
đ) Các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy định.
2. Các giao dịch bảo đảm bằng tài sản không thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này được đăng ký khi
cá nhân, tổ chức có yêu cầu”.
Mặt khác, về chủ thể được nhận bảo lãnh, trong các
văn bản bảo lãnh đều ghi là “nếu ông Nguyễn Tiến Tr
không trả được…”; như vậy, việc bảo lãnh được đặt ra cho
cá nhân ông Nguyễn Tiến Tr chứ không phải là Công ty
nấm xuất khẩu TB do ông Tr làm đại diện, nên rất khó
buộc những người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ, trừ khi
những người này thừa nhận họ đứng ra bảo lãnh cho Công
ty chứ không phải cho cá nhân ông Tr.
Rõ ràng có thể thấy rằng, những sai sót về nghiệp
vụ của Ngân hàng như xác định không đúng chủ thể vay
vốn, chủ thể đượ c bảo lãnh vay vốn và không tuân thủ
các quy định của pháp luật về các điều kiện để giao dịch
bảo đảm có hiệu lực sẽ mang l ại cho Ngân hàng những
hậu quả rất bất l ợi.
a) Thế chấp quyền sử dụng đất;
Vụ việc số 3
b) Thế chấp rừng sản xuất là rừng trồng;
Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh H và Công
319
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
ty cổ phần thương mại và phát triển gia súc TTĐN có ký
kết 04 hợp đồng tín dụng, cụ thể:
Hợp đồng tín dụng số 09/HĐTD ngày 24/6/2004 với số
tiền vay là 3.500.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng,
ngày trả hết nợ lãi và gốc là 24/6/2009. Ngày 16/6/2004, hai
bên ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất số 01/TC là quyền sử dụng 16.970 m2 đất
và tài sản hình thành từ vốn vay gắn liền với đất, với tổng
giá trị tài sản bảo đảm là 5.280.351.000 đồng;
Hợp đồng tín dụng số 12/HĐTD ngày 28/10/2004 với
số tiền vay là 600 triệu đồng, thời hạn cho vay là 60 tháng,
ngày trả hết nợ gốc và lãi là 28/10/2009. Cùng ngày hai bên
còn ký hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, giá
trị tài sản dự kiến sẽ hình thành từ vốn vay là 850.000.000
đồng;
Hợp đồng tín dụng s ố 04/HĐTD ngày 04/4/2005 v ới
số tiền vay là 525.000.000 đồng, thời hạn vay là 60
tháng, ngày trả hết nợ gốc và lãi là ngày 04/4/2010. Cùng
ngày hai bên còn ký hợp đồng thế chấp tài sản hình thành
từ vốn vay, giá trị tài sản dự kiến s ẽ hình thành từ vốn
vay là 700.000.000 đồng;
Hợp đồng tín dụng s ố 16/HĐTD ngày 04/4/2005 v ới
số tiền vay là 1.900.000.000 đồng, thời hạn vay là 12
319
tháng, ngày trả hết nợ gốc và lãi là 04/4/2006, ti ền vay
đượ c bảo đảm theo thỏa thuận trong h ợp đồng bả o đả m
tiền vay kèm theo h ợp đồng vay; đến hạn Công ty không
trả đượ c nợ gốc và lãi, Ngân hàng đượ c quyền xử lý tài
sản thế chấp để thu hồi cả nợ gốc và lãi. Thực tế thì
không có hợp đồng bảo đảm kèm theo hợp đồng tín dụng
nêu trên nhưng có giấy thỏa thu ận đăng ký nghĩa vụ
đượ c bảo đả m nợ vay Ngân hàng do hai bên lập không
đề ngày chỉ ghi tháng 4/2005 v ới n ội dung: Tài sản thế
chấp chính chủ và tài sản hình thành từ vốn vay là 16.970
m2 đất tại thôn Nguyệt Viên, xã HQ, huyện H, t ỉnh TH
do UBND t ỉnh TH c ấp ngày 03/9/2003 cho Công ty. Tài
sản gắn liền với đấ t là văn phòng làm việc, trang tr ại
chăn nuôi, tài sản khác là xe con điều hành đượ c tiếp tục
sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng
tín dụng s ố 16/HĐTD ngày 04/4/2005 thay th ế cho nghĩa
vụ đượ c bảo đả m củ a hợp đồng tín dụ ng ngày
01/9/2004. Giấy th ỏa thu ận này chưa đượ c các cơ quan
Nhà nướ c có thẩm quyền công chứng, chứng thực và
đăng ký theo quy đị nh của pháp luật.
Tại biên bản làm việc ngày 22/01/2007, hai bên thỏa
thuận: “1. Công ty TTĐN đồng ý bàn giao, Ngân hàng đồng
ý nhận lại các tài sản thế chấp theo danh mục sau để xử lý
thu hồi nợ:
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
Các tài sản theo danh mục tại hợp đồng thế chấp tài
sản số 01/TC ngày 16/6/2004; nguyên giá 5.151.256.000
đồng;
Trại nái 131 con theo hợp đồng thế chấp tài sản ngày
28/10/2004: nguyên giá 828.670.462 đồng;
Trạm nghiền thức ăn gia súc theo hợp đồng thế chấp tài
sản ngày 04/4/2005: nguyên giá 700.000.000 đồng;
Tổng giá trị theo nguyên giá là 6.733.926.462 đồng.
Các tài sản trên được đảm bảo cho khoản nợ vay tại
Ngân hàng Hoằng Hóa với số tiền gốc là 6.133.156.000
đồng.
Tại biên bản làm việc ngày 10/02/2007, hai bên thống
nhất bàn giao tài sản của Công ty TTĐN theo hợp đồng đảm
bảo, riêng đàn lợn theo đúng thực tế tại thời điểm bàn giao
và ấn định ngày bàn giao là ngày 13/02/2007.
Cũng trong ngày 10/02/2007, Công ty TTĐN ký hợp
đồng chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất với ông Lê
Khả Thủy, bao gồm: Chu ồng l ợn 800m 2, tường rào bao
quanh, đường giao thông nội khu, hồ sinh thái, bể phốt,
tháp nước và hệ thống cấp nước, san lấp m ặt b ằng trên
diện tích 7.746 m2 tại thôn 8 xã HQ, huyện H, tỉnh TH v ới
giá 110.000.000 đồng và Công ty TTĐN bán cho Lê Khả
Th 300 con lợn thành tiền là 152.290.000 đồng. Ngày 11
319
và 13/12/2007, Công ty TTĐN bán cho ông Lê Khả L 358
con lợn thành tiền là 300.341.000 đồng.
Ngày 12/02/2007, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án
buộc Công ty TTĐN phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền
nợ gốc và lãi của 04 hợp đồng tín dụng nói trên tính đến
ngày 31/01/2007 gồm: nợ gốc là 6.133.516.000 đồng, và nợ
lãi là 558.411.000 đồng.
Khi Tòa án chưa nhận đơn và thụ lý vụ án thì ngày
13/12/2007, Ngân hàng và Công ty đã có văn bản thỏa
thuận thống nhất bàn giao tài sản thế chấp của các hợp
đồng tín dụng trên có trị giá là 6.732.229.528 đồng và
Ngân hàng đã đơn phương bán tài sản thế chấp mà không
có sự thỏa thuận thống nhất c ủa Công ty TTĐN. Cụ thể
là Ngân hàng đã trưng cầu Trung tâm tư vấn tài chính giá
cả TH định giá lại tài sản bàn giao ngày 13/02/2007 với
kết quả định giá là 6.167.763.000 đồng. Ngày 04/7/2007,
Ngân hàng tổ chức bán đấu giá tài sản cho Công ty cổ
phần CN HH với giá 4.020.000.000đ, sau khi trừ chi phí
chăm sóc đàn lợn thì số tiền còn lại Ngân hàng thực thu từ
việc bán tài sản là 3.245.589.736 đồng để trừ vào các
khoản vay nợ của Công ty TTĐN theo 04 hợp đồng tín
dụng trên. Công ty TTĐN được thông báo về việc này
nhưng cũng không có ý kiến phản đối.
Theo tính toán của Ngân hàng thì số tiền còn lại mà
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
Công ty TTĐN còn nợ sau khi đã được khấu trừ số tiền bán
tài sản thế chấp là 2.889.926.000 đồng nợ gốc và
1.837.750.000 đồng nợ lãi, tổng cộng là 4.725.676.000 đồng.
Ngược lại, phía Công ty TTĐN lại có yêu cầu phản tố
cho rằng Ngân hàng đã bán tài sản gây thiệt hại cho Công ty
là 416.052.856 đồng (theo tính toán của Công ty về giá trị tài
sản trừ đi nợ của Công ty).
Bình luận
ra trong quá trình Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án,
Ngân hàng phải yêu cầu Tòa án xử lý tài sản này để thu
hồi nợ và phải chờ kết quả giải quyết của Tòa án theo
đúng quy định tại khoản 4 Điều 34 Nghị định số
178/1999/NĐCP ngày 29/12/1999 của Chính phủ.
Tiểu mục 5.2 Mục I Phần B Thông tư liên tịch số
03/2001/TTLTNHNNBTPBCABTCTCĐC quy định về các
phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận như sau:
Văn bản pháp luật để xem xét việc xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay vào thời điểm này là Nghị định số
178/1999/NĐCP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Thông tư liên tịch
số 03/2001/TTLTNHNNBTPBCABTCTCĐC ngày
23/4/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm bằng tiền
vay để thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng.
5.2. Tổ chức tín dụng nhận tài sản bảo đảm để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm.
Việc Ngân hàng tự xử lý tài sản thế chấp để khấu trừ
công nợ là vi phạm các quy định của pháp luật nên yêu
cầu khởi kiện của Ngân hàng sẽ không đượ c Tòa án xem
xét chấp nhận. Mặc dù việc Ngân hàng và Công ty TTĐN
bàn giao tài sản thế chấp và xác định giá trị tài sản bàn
giao để thu hồi nợ trước hạn là phù hợp với hướng dẫn
tại Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLTNHNNBTP
BCABTCTCĐC. Tuy nhiên, khi có tranh chấp thì đáng lẽ
b. Sau khi nhận tài sản bảo đảm để thay thế cho việc
thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, tổ chức tín dụng được làm
thủ tục nhận chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản bảo đảm hoặc được bán, chuyển nhượng tài sản bảo
đảm cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng tài sản theo quy
định của pháp luật.
319
a. Tổ chức tín dụng và bên bảo đảm lập biên bản nhận
tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm. Biên bản phải ghi rõ việc bàn giao, tiếp
nhận, định giá xử lý tài sản bảo đảm và thanh toán nợ từ
việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Thông tư này.
Khoản 4 Điều 34 Nghị định số 178/1999/NĐCP quy định
về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay như sau: “Trong trường
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
hợp các bên có tranh chấp và khởi kiện, thì tài sản bảo đảm
tiền vay được xử lý theo bản án có hiệu lực pháp luật của Toà
án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.”
gây thiệt hại lớn cho Ngân hàng./.
Mặt khác, việc Ngân hàng xử lý bán tài sản thế chấp
bàn giao ngày 13/02/2007 cũng không phù hợp với các quy
định của Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLTNHNNBTP
BCABTCTCĐC.
Đối với yêu cầu phản tố của Công ty TTĐN: Do quá
trình thực hiện hợp đồng tín dụng, Công ty TTĐN đã
không thực hiện đúng cam kết về thời gian trả n ợ nên
việc Ngân hàng yêu cầu xử lý nợ trước hạn là do lỗi của
Công ty. Trong quá trình bàn giao và giải quyết việc xử lý
tài sản, Ngân hàng đã trưng cầu Trung tâm tư vấn giá cả
và kết quả định giá, mặc dù không có sự tham gia của
Công ty, nhưng Công ty đã được thông báo và không có sự
phản đối sự định giá này nên khả năng đượ c Tòa án chấp
nhận yêu cầu phản tố này là khó khả thi.
Như vậy, tình huống trên cho thấy các Ngân hàng khi
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải nắm vững các quy định
của pháp luật để đảm bảo sự chủ động của Ngân hàng
đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân
hàng được pháp luật bảo vệ, tránh tình trạng tự ý xử lý như
tình huống của Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh H dẫn đến
yêu cầu khởi kiện không được Tòa án chấp nhận xem xét,
319
320
VI. Bình luận một số vụ việc về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Tìm hiểu các tranh chấp trong một số lĩnh vực pháp luật
III. BÌNH LUẬN MỘT SỐ TRANH CHẤP CÔNG TY1
Vụ việc số 1
Đầu năm 2011, bà Lan A, ông Trần C, ông Nguyễn
Tấn L, ông Nguyễn Phú T và bà Đặng Thị Kiều Ch cùng
nhau bàn bạc và thống nhất thành lập Công ty trách nhiệm
hữu hạn sản xuất thương mại xu ất nh ập kh ẩu HB, d ự
kiến giao cho ông L làm giám đốc và đại diện theo pháp
luật của công ty. Các thành viên cũng thống nhất cử bà
Lan A sẽ làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, ông Trần
Công M (do bà Lan A giới thiệu) làm thủ quỹ. Để các cổ
đông yên tâm góp vốn và thể hiện sự công bằng, các thành
viên giao cho ông T mở và đứng tên tài khoản, việc rút
tiền từ ngân hàng phải có chữ ký của cả ông T và ông M.
Các cổ đông phải nộp một phần tiền tr ước ngày
10/4/2011 để trang trải cho việc thành lập công ty. Ông L
chịu trách nhiệm soạn thảo điều lệ công ty để các thành
viên thông qua và đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư qua
mạng Internet.
Chúng tôi gọi tắt các tranh chấp phát sinh giữa thành viên công
ty với công ty, thành viên công ty với nhau liên quan đến tổ chức,
hoạt động và giải thể doanh nghiệp là “tranh chấp công ty”
1
319
Ngày 07/4/2011, các thành viên gồm ông L, ông T và bà
Kiều Ch, có cả ông M, ông Trần C cùng đến Vietcombank
chi nhánh BT mở tài khoản cho ông T đứng tên. Việc nộp
tiền được thực hiện như sau: ông Nguyễn Phú T nộp 01 tỷ
đồng; bà Đặng Thị Kiều Ch nộp 2,5 tỷ đồng; ông Nguyễn
Tấn L nộp 2,5 tỷ đồng.
Sau khi nộp hồ sơ và được cấp biên nhận, Sở Kế
hoạch và Đầu tư thành phố H phát hiện số CMND mang tên
Nguyễn Thị Lan A không trùng khớp với số CMND ghi
trong sổ hộ khẩu nên yêu cầu bà Lan A điều chỉnh hoặc có
xác nhận hợp lệ bổ sung hồ sơ thành lập công ty nhưng bà
Lan A không đáp ứng yêu cầu này.
Do bất đồng ý kiến giữa các bên nên cuối cùng Công ty
HB không được thành lập. Theo kiểm kê quĩ thì tổng số các
khoản chi lên đến 2,2 tỷ đồng nhưng ông T, ông M không
giải trình các khoản chi này một cách hợp lý (nhiều khoản
chi phục vụ mục đích mua sắm cá nhân).
Ông L và bà Kiều Ch khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu
ông T trả lại toàn bộ số tiền góp vốn.
Bình luận
Có quan điểm cho rằng, đây là tranh chấp liên quan
đến việc thành lập doanh nghiệp theo Điều 14 Luật Doanh
nghiệp năm 2005, khoản 2 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự
320