Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.75 MB, 168 trang )

CHUƠNG III
XÂY DỰNG VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1.

NI-ỈỦNG ĐIỂM CHUNG VỀ XÂY DỤNG VÀN BẢN ÁP

DỤNG PHÁP LUẬT
1.1. Vc thum quyển ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Khi xây dựng văn bản áp dụng pháp luật, trước hết cần
định đúng thẩm quyền giải quyết công việc phát sinh theo
định của pháp luật hiện hành, vì nếu vãn bản áp dụng pháp
được ban hành trái thẩm quyển thì sẽ không có hiệu lực pháp
và sẽ bị cấp có thẩm quyền huỷ bỏ.

xác
quy
luật
luật

Hiện nay, thẩm quyền ban hành vãn bán áp dụng pháp luật
được quy định trong rất nhiều vãn bản quy phạm pháp luật khác
nhau, như: hiến pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các
luật, pháp lệnh vồ quản lí nhà nước tron5 những lĩnh vục cụ thể...
Trong các quy định dó, có Iihững trường hợp chỉ quy định
chung chung về hình lliức cùa một sô ván bản áp dụng pháp luật,
như: "Chù tịch nước ban liùnlì lệnli, quyết đinh để thực hiện Iiliiệm
vụ. quyên lụm cùa mình ", "Các bàn án và quyết định cùa tuà án
nhàn dàn dã cỏ hiệu lực pháp luật phải được... tôn trọng ”;n> nhưng

(l).Xom: Các iliéu 106 và Ị 36 HiOn pluip.


139


cũng có trường hợp, song song với việc quy định về thẩm quyền
giải quyết công việc còn xác định rõ hình thức văn bản áp dụng
pháp luật cần ban hành khi giải quyết những việc đó, như: Vữa quy
định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính'u vừa quy định về
hình thức văn bản cần ban hành để xử phạt là quyết định.<2) Trong
những trường hợp này thì việc xác định thẩm quyền nội dung và
thẩm quyền hình thức trong việc ban hành vãn bản áp dụng pháp luật
là tương đối thuận lợi.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tình trạng pháp luật chỉ quy định
về thẩm quyền giải quyết công việc (thẩm quyền nội dung) mà
không quy định về hình thức văn bản áp dụng pháp luật càn ban
hành (thẩm quyền hình thức). Khi đó việc xác định hình thức văn
bản áp dụng pháp luật là khá khó khăn.
Bên cạnh đó, cá biệt còn có trường hợp quy định không thống
nhất về hình thức văn bản áp dụng pháp luật do cùng một loại chủ
thể ban hành để giải quyết cùng một loại việc. Ví dụ: Cùng để thực
hiện quyền kháng nghị của viện kiểm sát, hiện nay pháp luật quy
định hai loại văn bản khác nhau là kháng nghị(1) và quyết định.'41
Mặt khác, ngoại trừ một số ít loại văn bản được sử dụng thuần
tuý là vãn bản áp dụng pháp luật, như bản án, bản cáo trạng...
phần lớn các loại vãn bản được sử dụng chung với cả hai tư cách:
Vãn bản áp dụng pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật. Trong
khi đó, việc phân biệt những quy phạm pháp luật với nhũng ir.ệnh
lênh cá biệt nhiều khi rất khó khăn nên trong một số trường hợp
(1 ).Xem: Các điểu từ 28 đến 40 Pháp lẹnh xử lí vi phạm hành chính.
(2).Xem: Điều 56 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính.
(3 ).Xem: Điểu 6 Luật tổ chức vịộn kiểm sát nhân dân; khoán 2 Điểu 233, Điểu 2"7 Bộ

luât tố rụng hình sự.
(4 ).Xem: Các điểu 251, 287 Bọ luật lô' tụng dân sự.

140


Iiìiưừi soạn thào đưa lần lộn hai nhóm nội dung này vào trong
cùng một vãn bản, gây khó khăn cho hoạt động có liên quan (lựa
chọn thủ tục soạn thào, ban hành, sao gửi, đãng tải ván bản...)- w
dự: Để thành lập đon vị trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước,
có hai nhóm nội dung cần xác lập là: Quy định về tên gọi, địa
đicm đónc trụ sở, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị cấp dưới
trong việc thành lập đơn vị đó (những nội dung cá biệt) và các
quy định về địa vị pháp lí, cơ cấu tổ chức của đơn vị được thành
lập (các nội dung quy phạm). Xét về lí luận thì cần ban hành hai
vãn bàn, một vãn bản áp dụng pháp luật đê thành lập ra đơn vị này
(xác định tên gọi, nơi đóng trụ sở, trách nhiệm tổ chức thành lập),
một vãn bản quy phạm pháp luật quy định về cơ quan chủ quản,
cliức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của đon vị được
thành lập. Trong hai vãn bản đó, vãn bản thành lập chỉ có giá trị
trong việc hình thành nên đơn vị, là cơ sỏ để nhũng chủ thể có
liên quan tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc ra đòi của
đan vị, như: mao đất, xây dựng trụ sờ, bổ nhiệm người đứng
đầu... và những việc này chỉ được thực hiện một lần, khi được
thực hiện xong thì vãn bản hết hiệu lực còn văn bản quy định về
chức nàng, nhiệm vụ, quyền hạn của đon vị được áp dụng nhiều
lẩn, trong suốt quá lành hoạt động của đơn vị sau này. Tuy nhiên,
trèii ihực tiền các nội dung đó thường được nhập chung trong văn
bản thành lập đơn vị, làm lẫn lộn các nội dung chỉ đuợc thực hiện
một lần với những nội dung được áp dụaỉ’ nhiều lần.

Vì vậy, dể vãn bản áp dụng pháp luật được ban hành đúng thám
quyển, người soạn tháo cán hết sức thận trọng, nghiên cứu kĩ pháp
luát .liện hành dể xác đinh chù thể ban hành và hình thức văn bàn
cho phù hợp với từng Irườne hạn cụ thể.
141


1.2. Về thủ tục xảy dựng văn bản áp dụng pháp luật

Hiện nay, trong pháp luật không có quy định về thủ tục ban
hành văn bản áp dụng pháp luật mà chi quy định về thủ tục áp dụng
pháp luật giải quyết đối với mỗi loại việc cụ thể, trong đó có xác
định hình thức văn bản và những vấn đề có liên quan, như: những
nội dung chính, thời hạn ban hành vãn bản áp dụng pháp luật... Ví
dụ: Bộ luật tố tụng hình sự quy định về việc điều tra, truy tố xét
xử vụ án hình sự, trong đó quy định về hình thức văn bản ờ các
điểu: 104 (Quyết định khời tố vụ án hình sự), 108 (Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự), 224 (Bản án)...
Tuy nhiên, ở một sô' ngành hoặc cơ quan nhà nước, tror g quy
định về quy trình soạn thảo, trình kí vãn bản, thù tục ban hành vãn
bản áp dụng pháp luật cũng đã được xác lập dưới dạng các quy
định mang tính nội bộ.
Nếu xuất phát từ góc độ khoa học để xem xét thì có tnể kết
luận: Thủ tục ban hành vãn bản áp dụng pháp luật đơn giàn hơn
rất nhiều so với thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đó, chỉ bao gồm một số hoạt động chuyên môn, nhu: soạn
thảo, thông qua, ban hành vãn bản và mỗi hoạt động này thưỉmg có
nội dung khá hẹp, được tiến hành trong thời gian ngắn, không cần
sự tham gia của nhiều người.
1.2.1. Soạn thào vân bản áp dụng pháp luật

Việc soạn thảo văn bản áp dụng pháp luật được xác định thuộc
về các đơn vị trực thuộc chủ thể ban hành mà khỏng thành lập bộ
phận chuyên trách soạn thào vãn bản hoặc thành lạp ban soạn thảo
đối với từng vãn bản cụ thể. Để bảo đảm chất lượng về chuyên món
nẽn xác định thẩm quyển soạn thảo văn bản áp dụng pháp luíìt theo
hướng vãn bản có nội dung liên quan trực tiếp tới chức nãng của
142


ilưn vị nào thì sẽ do đơn vị dó soạn thảo; nếu liên quan tới nhiều
dơn vị khác Iihau thì do đơn vị có chức năng quán lí vấn đề liên
quan tới nội dung chính của văn bản soạn thảo và đơn vị liên quan
Khác iham gia góp ý cho dự thảo. Ví dụ: Quyết định cùa chủ tịch
uv ban nhân dân tỉnh về công tác cán bộ sẽ do sờ nội vụ soạn thảo
nhưng về việc giải quyết tranh chấp về đất đai sẽ do thanh tra tỉnh
soạn thào và nếu cán thiết thì sớ tài nguyên - môi trường tham gia
íỊÓp ý đối với dự tháo.
Khi soạn thảo, cần xuất phát từ tính chất của mỗi công việc cụ
thể để xác định phạm vi những vấn đé được đề cập và đối tượng
tác đ ộ n g của vãn bản áp dụng pháp luật. Do vãn bản áp dụng pháp

luật luôn trực tiếp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đối
tượng liên quan nên việc bảo đảm tính kịp thời trong việc ban
hành là lất quan trọng, vì vậy nếu chưa có điều kiện để giải quyết
toàn diện đối với vấn dề có nhiều nội dung phát sinh thì có thể
giới hạn chú đề của vãn bản trong phạm vi hẹp hơn so với phạm vi
những việc cần giải quyết, tức là tách vụ việc đó ra để giải quyết
trong nhiều vãn bản khác nhau. Ví clụ: Khi có nhiều việc cấn giải
quyếi sau cơn bão, có thể ban hành một chỉ thị để cùng lúc giao
nhiệm vụ cho tất cả các đơn vị trực thuộc có liên quan, khi đó chủ

đề vãn bán là “khắc phục hậu quả cơn bão số ...”; cũng có thể lần
lượt ra nhiều chỉ thị khác nhau, mỗi vãn bàn được sử dụng để giao
nhiệm vụ cụ thể cho một vài đơn vị trực thuộc, khi đó chủ đề của
mỗi chi thị khá hẹp, chỉ giới hạn trong một vài vấn để, như: cứu
hộ. cứu đói, phòng chống dịch bệnh, cùng cố đê điểu...
Do tính cá biệt của vãn bản áp dụng pháp luật là rất cao nên
trong trường hợp nhiều đối tượng có cùng một loại quyền và
nghĩa vụ nhưng nội dung quyền và nehĩa vụ của mỏi đối tượng
143


đều có những điểm riêng biệt thì nên tách từng đối tượng đó ra để
giải quyết trong từng văn bản áp dụng pháp luật riêng. Vỉ' dụ:
Trong một đợt nâng lương, không nên chỉ dùng một quyết định để
áp dụng chung cho mọi đối tượng mà nên ban hành nhiều quyết
định, mỗi quyết định áp dụng đối với một đối tượng nhất định.
Tuy nhiên, nếu giữa quyền và nghĩa vụ của các đối tượng đó
không có những khác biệt lớn thì nên ban hành một quyết định để
áp dụng đối với tất cả đối tượng có liên quan. Ví dụ: Ban hành
quyết định để khen thường hàng năm đối với cán bộ, công chức
trong cơ quan mà không tách việc khen thưởng đối với mỗi người
thành quyết định riêng.
Trong văn bản áp dụng pháp luật, cần giải quyết tất cả các vấn
đề có liên quan tới nội dung chính mà không được bỏ sót những nội
dung phụ, trường hợp phức tạp không thể giải quyết cùng lúc và nếu
được pháp luật cho phép thì cần nói rõ nội dung nào được tách ra để
giải quyết sau. Ví dụ: Trong vụ án hình sự, cần giải quyết cả vấn đề
dân sự, như: Bổi thường thiệt hại, xử lí tài sản bị tạm giữ, án phí...
nhung trong trường hợp pháp luật quy định thì có thể tách một phần
dân sự liên quan đến vụ án để giải quyết trong vụ án khác (kỉli đó,

phải nói rõ trong bản án hình sự).
1.2.2. Thông qua văn bàn áp dụng pháp luật
Văn bản áp dụng pháp luật được trình trực tiếp, không cần có
văn bản trình kèm theo. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho
cấp có thẩm quyền xem xét vụ việc thì trong hồ sơ trình, bên cạnh
dự thảo văn bản áp dụng pháp luật còn phải có đầy đủ những văn
bản quy phạm pháp luật và các tài liệu có liên quan khác (có trong
hổ sơ vụ việc).
Nếu người có thẩm quyền không chấp nhận dự thảo thì có thể
144


irục tiếp đưa ra yêu cầu sửa đổi đối với người soạn thảo hoặc trục
tiếp sửa vào bản thảo để đánh m áy lại (bán này được coi là bản í!ốc,

lưu ờ hổ sơ vụ việc); nếu chấp nhận thì kí vào văn bản đế ban hành.
Việc thòng qua văn bản áp dụnc pháp luật cũng được tiến
hành Iheo những thú tục do pháp luật quy định, có thể do cá nhân
quyết định, cũng có thê’ do tập thê biểu quyết. Ví dụ: Trước khi
mở phiên toà thì chánh án hoặc thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án thông q u a quyết định nhưng tại phiên toà thì hội đ ồ n g

xét xử thông qua quyết định cúa toà án nhân dân.
1.2.3. Ban hành văn bàn áp dụng plìáp luật
Sau khi được cấp có thẩm quyền thông qua và đã thực hiện đầy
đủ n h ữ n s quy định pháp luật về công tác văn thư (vào sổ, đóng dâu

xác nhận), vãn bản áp dụng pháp luật được ban hành bàng cách gửi
tói các đối tượng có liên quan để thực hiện. Việc sứi văn bán áp
dụng pháp luật có những nét đặc thù so với các vãn bản quy phạm

pháp luật. Thông thường, nhũng vãn bản áp dụng pháp luật có nội
dung là những việc quan trọng, được giao trực tiếp cho đối tượng
tiếp nhận (trong hoạt dộng tố tụng hình sự, việc giao nhận một số
vãn bàn áp dụng pháp luật, như: quyết định khởi tố bị can, quyết
định đưa vụ án ra xét xử... được gọi là “tống đạt”) hoặc có thể
được gửi ihco dường công vãn tới từng đối tượng tiếp nhận.

1.3. Vc vai trò của văn bán áp dụng pháp luật
Trong hệ thống các vãn bản áp dụng pháp luật, có một số loại
vãn bán được xác định theo hướng chuyên biệt, có vai trò riêng so
vói những vãn bàn áp dụng pháp luật khác nên rất thuận tiện cho
người soạn thảo lựa chọn loại vãn bản cần sử dụng trong những
trường hợp cụ thể. Ví dụ: Lệnh được co quan tiến hành tố tụng
hình sự ban hành trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (bắt
145


người, khám nhà, truy nã bị can...); bản án được sử dụng Jể ghi
nhận phán quyết của hội đổng xét xử cấp sơ thẩm, phúc thẩm về
các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.
Ngược lại, có nhiều trường hợp vai trò của văn bản không được
xác định rõ nên để giải quyết một loại việc, cơ quan có thẩm quyền
có thể sử dụng những loại vãn bản khác nhau, gây khó khan cho
việc xác định của người soạn thảo và có thể tạo ra sự không thống
nhất trong hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước,
ví dụ: Để giao nhiộm vụ cụ thể cho cấp dưới, uỷ ban nhân đân có
thể ra quyết định hoặc chỉ thị. Trong những trường hợp này, cần
dựa vào lí luận khoa học về vai ưò của mỗi loại văn bản áp dụng
pháp luật để xác định loại vãn bản cần sử dụng cho phù hợp với
thẩm quyền giải quyết và nội dung của công việc phát sinh.

Trên cơ sờ các quy định của pháp luật và lí luận khoa học
pháp lí, có thể xác định vai trò của mỗi loại văn bản áp dụn g pháp
luật cụ thể được sử dụng trong quản lí nhà nước ờ nước ta.
Nghị quyết được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hội
đồng nhân dân ban hành để bầu, miễn nhiộm, bãi nhiệm các chức
vụ nhà nước; phê chuẩn đề nghị của cấp dưới vể việc thành lập cơ
quan trực thuộc hoặc về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
các chức vụ nhà nước; thành lập, giải thể, phân chia, sáp nhập cơ
quan trực thuộc; đình chỉ thi hành hoậc huỷ bỏ các văn bản áp
dụng pháp luật sai trái cùa cấp dưới và những việc khác thuộc
thẩm quyến áp dụng pháp luật của những cơ quan này. Ngoài ra,
nghị quyết còn được Uỷ ban thường vụ Quốc hộiu> và thưcmg trực

(] ).Xem: Điểu 28 Quy chế hoạt động của Uý ban thường vụ Quốc hội. ngày 7/7/1993
của Quốc hỏi.

146


hò đóng nhãn dân các cáp"’ sử dụng để giái quyết nhữní? côns
VÌÍC' phát sinh trong quá trình quản lí cõn g tác nội bộ cùa cơ quan.

Nẹhị dịnh được Chính phú ban hành để thành lập, giải thế,
plân chia, sáp nhập cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền cúa Chính
phú; thành lập, nhập, chia, điều chinh địa giới đon vị hành chính
câi huvcn, cấp xã.
Quyết định được dùng để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
cá: chức vụ nhà nước; thành lập, giải thể, phân chia, sáp nhập cơ
quin trực thuộc; tạm đình chi, đình chỉ thi hành hoặc huỷ bỏ các
vãi bản pháp luật sai trái của cấp dưới; giải quyết quyền và nghĩa

vụ cúa tổ chức và cá nhân và những việc khác thuộc thẩm quyền
áp dụng pháp luật c ủ a m ỗi chủ thể theo quy định cúa pháp luật.

Chủ thể ban hành quyết định rất đa dạng, gồm các cơ quan nhà
nuóc (uý ban nhân dãn, toà án nhãn dân), thú trưởng co' quan hành
chàih nhà nước, viện trưởng viện kiểm sát nhân dãn, chánh án toà
án nhãn dua, nguời đứng đầu các đơn vị cơ sớ cứa cơ quan nhà
niúc, một số công chức nhà nước (chiến sĩ cảnh sát, thanh tra
viên, chấp hành viên, thẩm phán...), cá nhân, tổ chức xã hội được
uỷ quyền áp dụne pháp luật (người chi huy tàu bay, tàu biến, tổ
chức công đoàn...).
Chi thị được Thù tướníí Chính phủ, chù tịch uỳ ban nhân dân
các cấp, bộ trưởng, thủ trường cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
chính phủ, viện trướng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chánh án
Toà án nhân dân tối cao ban hành để giao nhiệm vụ cụ thể cho
các i‘0 quan, đơn vị trực thuộc.

( I ).x»m:

Khoán I Điểu 18 Quy ch ế hoạt dộng của hội đổng nhân dán (ban hành kèm
Iheo .Ngiii quy ÓI sỏ 7f>.V20().VNQ-UBTVQH 11 ngày 02/4/2005 của Uỷ ban iliưcmg vụ
Q u ố c ‘lộ i)

147


Lệnh duựt các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự sử dụng để
tạm giữ, tạm giam, bắt, truy nã, khám người, khám nhà trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Bản án được toà án nhân dán cấp sơ thẩm và phúc th ẩn ban

hành để đưa ra phán quyết về các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế,
hành chính, lao động.
Yêu cầu được thanh tra, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà
án, cơ quan thi hành án dân sự ban hành trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đó. Trước hết, yêu cẩu được
cơ quan thanh tra sử dụng để buộc đối tượng thanh tra hoặc cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác "cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo
bằng vân bán, giải trình về nhũng vấn đê có liên quan tới nội
dung thanh tra"', buộc "người có thẩm quyền tạm giữ tiền, âồ vật,
giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật hoặc đ ể xác minh tình tiết
làm chíơĩg cứ cho việc kết ỉuận, xử lí"}" Bẻn cạnh đó, yêu cầu
còn được các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án sử dụng trong
quá trình điểu tra, xét xử vụ án hình sự, để buộc các đối tưcng có
liên quan cung cấp chứng cứ, tài liệu hoậc thực hiện những hành
vi cần thiết cho hoạt động tỏ' tụng hình sự (vi dụ: Viên trưcm.! viện
kiểm sát nhân dân có quyền... “yêu cầu thù trưởng cơ quan điều
tra thay đổi điểu tra viên ", "yêu cấu cơ quan điều tra truy nã bị
can ”,‘2>có quyến “yêu cầu toà án nhân dán cùng cấp và cấp dưới
chuyển hồ sơ những VII án hình sự đ ể xem xét, quyết định việc
kháng nxhị"0)). Đổng thời, yêu cẩu cũng được cơ quan thi hành

(1).Xem: ĐiỂu 39 Luài ĩhanh tra.
(2 ).Xem: Điểu 36 Bô luật tô' tụng hình sự.
(3 ).Xem: Điển 18 Luật tổ chức viên kiểm sát nhân dân.

148


an sử dụnu đế đòi hói "toù án dà rư bán CUI, quyết định giải ílìicli


bủỉĩíỊ vủti bàn ễiỉiữHỊỊ cíiẻm chưa rỏ ỉronq bàn áĩi, quyết dinh dó ".Uỉ
Ngoài ra, viện kiểm sát nhàn dân cũim có thế dùng yêu cầu để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong quá trình thực hiện chức
nàn 2 kiểm sát các hoạt động tư pháp khác, như: xét xử vụ việc
dán sự, thi hành án, tạm giữ, tạm giam, quản lí và siáo dục người
chấp hành án phạt tù.
Kiến nnliị là vãn bán áp dụng pháp luật do thanh tra, cơ quan
diều tra, viện kiểm sát, toà án, cơ quan thi hành án clân sự ban hành

để dề xuất với cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp hoàn
thiện cơ chế, chính sách, pháp luật; đề nghị cơ quan, tổ chức hĩru
quan áp dụim những biện pháp cần thiết để khắc phục những
nuuyèn nhãn và điểu kiện phát sinh vi phạm pháp luật ĩrong các
cơ quan, tổ chức đó: để đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét lại

vãn bản pháp luật hoạc hành vi pháp lí theo thủ tục nhất định.
Khans nghị (bản kháng nghị) là loại văn bản áp dụng pháp luật
du ục sử cỉụim trong các hoạt động tố tụng, để chủ thể ban hành yêu
cáu cơ quan có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định của toà
án theo thủ tục phúc thẩm, giám dốc thẩm, tái thám;(2) đế viện kiểm
sát nhãn dân “kháng nghị với toe) án nhân dân, cơ quan thi hành án
củng cấp và cấp dưới, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị cố
trách ỉiìiiệm trong việc thì hành áễi'\ “yêu cầu đình chỉ việc ĩhì
hành áỉĩ, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết dịềih có vi phạm pháp luật
trung việc ĩìú hành án. chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật
trong việc ỉlii hành ứ/ỉ ", "kháng nghị với cơ quan cùng cấp và cấp
dưới yêu cầu dinh chi thi hành, sửa đổi , bãi bỏ quyết định có 17
(1 ).Xcm: Điều 16 Pháp lệnh thi hành án dàn sự.
(2 ). Xem: Bộ luàr lộ' Ịụno hình sự. Pháp lệnh thủ tục gidi quyết các


vụ án

hành cliính.

149


phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lí và giáo dục
người chấp hành án phạt tù, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật
và yêu cầu xử li người vi phạm pháp luậl"}u

1.4. Về thể thức văn bản áp dụng pháp luật
Nhìn chung, thể thức cùa văn bản áp dụng pháp luật được
trình bày theo nguyên tắc ở Chương I, gồm các để mục: Quốc
hiệu, tên cơ quan ban hành, số và kí hiệu của văn bản, địa đi<:m và
thời gian ban hành văn bản. Tuy nhiên, thể thức của một s5 vãn
bản áp dụng pháp luật có những nét khác biệt với văn bản quy
phạm pháp luật; thậm chí trong một số loại văn bản áp dụng pháp
luật còn có nét đặc thù, khác biột so với cả những vãn bản áp dụng
pháp luật khác. Ví dụ: Trong phần số, kí hiệu của vãn bản áp đụng
pháp luật, không có năm ban hành hoặc trong bản án không có
trích yếu, tên bản án được trình bày ờ phần số, kí hiệu (Bản án số
15/HS-ST, ngày 05 tháng 5 năm 2007), dưới Quốc hiệu là ngữ
“Nhân danh nước Cộng hoà xã hội chù nghĩa Việt Nam”...
Trong nhiều trường hợp cụ thể, thể thức văn bản áp dụng pháp
luật đã được cơ quan có thẩm quyền hướng dân dưới dạng mẫu vân bản.
Trong những trường hợp cần nhanh chóng ban hành văn bán khi
số lượng công việc phải giải quyết là rất lớn (như xử phạt vi phạm
hành chính) thì việc dùng mẫu văn bản in sẵn để “điền vào chỗ

trống” sẽ phát huy tác dụng giúp cơ quan có thẩm quyền bảo đim
tính kịp thời của văn bản. Nhưng trong nhũng trường hợp có đ ều
kiện thuận lợi thì nên soạn thảo văn bản (trẽn cơ sờ mẫu của cấp có
thẩm quyền), chế bản và in ấn theo quy định cùa pháp luật đẻ đim
bảo tính mĩ quan, nghiêm túc trong hoạt động của Nhà nước.

(1 ).Xem: Điéu 24, 27 Luật tổ chức viện kiếm sát nhân dàn.

150


Do được nhiểu cư quan khác nhau quy định nên mẫu vãn bản
áp dụng pháp luật đã có sự không thống nhất và trong một số mẫu
vài bản có những điểm bất hợp lí. Vì vậy, khi sử dụng mẫu văn bản
để xác lập từng văn bản áp dụng pháp luật cụ thể, người soạn thảo
cầi dựa vào những quy tắc cùa việc lập và sử dụng mẫu văn bản để
tạc ra sự phù hợp với mỗi cơ quan và với từng công việc cụ thể.
Trước hết, cần xác định mẫu vãn bản được cấp có thẩm quyền
lậỊ ra chi có giá trị gợi ý, hướng dẫn đối với người soạn thảo vãn
bải, mỏi để mục trong mẫu chỉ gợi ý cho người sử dựng vế hướng
viết mà không thể sao chụp nguyên mẫu; người soạn thảo cần linh
độ.ig, sáiitỉ tạo trong việc soạn thảo văn bản mà không bị rập
khión, máy móc, lệ thuộc hoàn toàn vào mẫu.
Bén cạnh đó, cũng cần lưu ý khi thiết lập các đề mục trong
likh thức vãn bản, không chi quan tâm tới việc bố trí chúng ở
nhõng vị trí thuận tiện cho việc quản lí, theo dõi v.v. mà còn phái
trình bày theo hướng ngắn gọn nhưng đầy đủ để vừa khai thác ý
ngiĩa khoa học vừa bảo đảm sự hợp lí của chúng. Vì mỗi đề mục
trong văn bản chi có một sỏ ý nghĩa nhất định, như: phần trích
yếu có giá trị giới hạn chù đề và có tác dụng khi tra cứu vãn

bản... nên những để mục có ý nghĩa khoa học cần được đưa vào
văn bản và xác lập theo hướng có ý nghĩa, tác 'dụng cao nhất;
ngược lại, không nên đưa vào mẫu vãn bàn những nội dung khòng
có ý Ii”lũa rỏ nét hoặc trùng lập với những đề mục khác. Ví dụ:
Do I'ó tác dụng cá biệt hoá văn bản nên số và kí hiệu là đề mục
phái có (rong quyết định xử phạt vi phạm hành chính của chù tịch
uý ban nhân dân nhưng nếu kí hiệu là QĐ-XP thì sẽ có tác dụng
cá biệt hoá cao hơn so với kí hiệu là QĐ-UB.
151


] .4.1. v é lên gọi và trích yếu của văn bản áp dụng pháp hiật

Tên gọi và trích yếu của văn bản áp dụng pháp luật có thể
được xác lập bằng ba cách: Một là, ghép tên loại văn bản với từng
loại chủ để vãn bản; hai là, dùng tên loại vãn bản làm tên của dự
thảo, sử dụng trích yếu xác định chủ đề văn bản; ba là, sử dụng
tên loại vãn bản chung cho mọi văn bản áp dụng pháp luật cụ thể.
Ví dụ: Cùng là quyết định của chủ tịch uỷ ban nhân dân được ban
hành để bổ nhiệm trưởng phòng tổ chức, nếu theo cách thức thứ
nhất thì phần này là: “Quyết định bổ nhiệm”; nếu theo cách thức
thứ hai thì phần này là: “Quyết định của chủ tịch uỷ ban nhân
dân/Về việc bổ nhiệm trưởng phòng tổ chức”; cách thức thứ ba là:
“Quyết định/về việc bổ nhiệm trưởng phòng tổ chức”.
Tuy nhiên, khi lựa chọn cách thức trình bày tên gọi và trích
yếu của vãn bản áp dụng pháp luật cũng cần lưu ý tới nét đạc thù
của một sô' loại văn bản, đã mang tính phổ biến và ổn định trong
hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Bản án chi có tên gọi mà không có
trích yếu; lệnh được ghép với tên chủ đề (lệnh truy nã, lệnh bắt
người, lộnh tạm giữ, lệnh tạm giam, lộnh khám nhà, lệnh khám

người); chỉ thị luôn có phần trích yếu...
Để khai thác giá trị cá biệt hoá vãn bản, tiện lợi cho việc tra
cứu văn bản về sau, phần trích yếu của văn bản áp dụng pháp luật
nên được xác lập theo hướng cụ thể (không chi xác định “vầ việc
gì” như văn bản quy phạm pháp luật mà còn xác định “đối với
ai”). Ví dụ: “Về việc bổ nhiệm trưởng phòng tổ chức”, “Về việc
điều động công tác đối với ông Nguyễn Văn A”.
1.4.2. Xác lập cơ sỏ cùa vân bàn áp dụng pháp luật
1.4.2.1. Xác lập cơ sở pháp lí của văn bản áp dụng pháp luật
Do pháp luật không quy định cụ thể nên để viộc viện dẫn cơ
152


>ó pháp lí của các ván bàn áp dụng pháp luật được đúng dắn, cẩn
dựa trẽn những nguyên tấc lí luận nhất định.
Thứ nhất, cơ sỏ pháp lí của dự thảo là vãn bản quy phạm pháp
luật và những văn bản áp dạng pháp luật trực tiếp liên quan tới
chủ đề dự thảo.
Cần xuất phát từ ý nghĩa, mục đích của việc viện dẫn vãn bản
đe xác định những vãn bản quy phạm pháp luật hay vãn bản áp
dụna pháp luật nào là CO' sở pháp lí của dự thảo.
Các vãn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lí của dự thảo văn
bán áp dụng pháp luật gồm: Văn bản quy định về thẩm quyền giải
quyết và hướng giải quyết đôi với công việc là chủ đề của dự thảo.
Thẩm quyền áp dụng pháp luật được quy định trong rất nhiều
vãn bản quy phạm pháp luật khác nhau, như: Pháp lệnh xử lí vi
puạm hành chính quy định vé thẩm quyển xử phạt; Luật đất đai
quy định về thẩm quyền gĩao đất, thu hồi đất... nên cấn xuất phát
từ chú đẽ dự thảo để xác định vãn bản quy phạm pháp luật nào
cần được viện dẫn nhằm chứng minh sự đúng đắn về thẩm quyển

của việc ban hành vãn bản.
Bên cạnh đó, cũng cần viện dẫn vãn bản quy phạm pháp luật
quy định về hướng phán quyết đối với hành vi dược đề cập trong
dụ thào để minh chứng vé sự họp pháp về nội dung cùa dự thảo.
Nếu nhũng quy định về thẩm quyền, về huớng giải quyết công việc
cùng nằm trong một văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ cần viện
díin vãn bản đó là đù, tránh dưa vào dự thào những vản bản không
cân thiết. Tuy nhiên, do trên thực tiễn đang phổ biến tình trạng
trong một sô văn bản quv phạm pháp iuật chì có quy định chung
chung về những ván để lớn còn nhũng quy định cụ thể được xác lập
trong các vãn bản hướng dẫn thi hành nên trong dự thảo vừa phái
153


viện dẫn văn bản quy định về thẩm quyền, vừa phải viện dẫn vãn
bản quy định cụ thể về hướng phán quyết đối với các hành vi được
đề cập trong dự thảo. Ví dụ: Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính
quy định về thẩm quyền, thù tục xử lí còn nghị định của Chính
phủ quy định về hành vi vi phạm, mức phạt và các biện pháp
cưỡng chế khác tương ứng với mỗi hành vi đều là những văn bản
cần được viện dẫn trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Ngoài ra, trong một số trường hợp, có những văn bản áp dụng
pháp luật ban hành trước đó được pháp luật quy định là điều kiện
bắt buộc phải có của văn bản đang được soạn thảo, như: Quyết
định khởi tố bị can chỉ được ban hành sau khi đã có quyếi định
khởi tố vụ án hình sự;<0 quyết định cưỡng chế thi hành quyế: định
xử phạt vi phạm hành chính chỉ được ban hành sau khi đã có
quyết định xử phạt vi phạm hành chính(2)... Trong những trường
hợp đó, ngoài vãn bản quy phạm pháp luật ra, trong dự thảo còn
phải viện dẫn những văn bản áp dụng pháp luật này để minh

chứng sự đúng đắn về thủ tục giải quyết cỏng việc phát sinh.
Trong trường hợp chỉ có một văn bản quy phạm pháp luật
hoặc một văn bản áp dụng pháp luật là cơ sờ pháp lí của dự thảo
thì vấn đề lựa chọn không được đặt ra. Tuy nhiên, khi cùng lúc có
nhiều văn bản pháp luật liên quan tới dự thảo thì nên lựa chọn
những văn bản thực sự có ý nghĩa đối với dự thảo.
Nếu liên quan tới dự thảo là những văn bản quy phạm pháp
luật có cùng hiệu lực pháp luật (nhưng khác nhau về chủ đầ nên
không loại trừ nhau) và cùng có quy định về vấn đề liên quan tới
dự thảo (trong đó có văn bản quy định gián tiếp, có ván bản quy
(1 ).Xem: Các điểu 104, 1 2 6 B ộ lu ạ t tố tụng hình sự.
(2).Xem: Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính.

154


định trực tiếp) thì lựa chọn vãn bản quy định trực tiếp vé vấn đề
dược đé cặp trong dụ tháo. Vi dụ: Luật tổ chức hội đổng nhãn dân,
uỷ ban nhân dãn và Luật đất đai đểu quy định về thẩm quyền của
uỷ ban nhân dãn nhưng trong quyết định thu hổi đất chỉ nên viện
dán Luật đăt đai vì đạo luật này trực tiếp quy định về thẩm quyển
thu hổi đất của uỷ ban nhân dân.
Nếu có nhiều văn bản quy phạm pháp luật độc lập với nhau,
mỗi văn bàn liên quan tới một nội dang cần được minh chứng về
sự đúng đắn thì cần viện dẫn tất cả những vãn bản đó. Tuy nhiên,
đế bảo đảm únh cò đọng, hợp lí cùa việc viện dẫn thì chỉ nên đặt
phán ngôn ngữ viện dẫn vãn bản quy định về thấm quyển ở đầu
ván bán còn những vãn bản khác được bố trí vào cùng vị trí với
nội dung có liên quan cần đuợc minh chứng. Vi dụ: Trong trường
hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính dược ban hành để xứ

phạt một cá nhân về hai hành vi vi phạm (được quy định trong hai
nghị định khác nhau) thì chỉ có Pháp lệnh xử lí vi phạm hành
chính được trình bày dưới dạng câu bắt đấu bẳng từ “Cân cứ” và
dặi ử đầu cúa dự thảo còn các nghị định được đặt trong phần nội
dung cúa Điều 1. Khi đó, Điều 1 được viết:
“Xử phạt vi phạm hành chính đới với... như sau:
- Phạt hai triệu đổng về hành vi... theo quy định tại điểm...
khoản... Điều... Nghị định sô'...;
- Phạt Hãm triệu đồng vể hành vi... theo quy định tại điểm...
khoản... Điều... Nghị định số...;
Tổng cộng: Bảy triệu đổng”.
Nếu đó là những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp
luật khác nhau, trong đó văn bản có hiệu lực thấp giữ vai trò giải
thích, hướng dẫn thi hành đôi với vãn bàn có hiệu lực cao hơn thì
155


chỉ viện dẫn văn bản đuợc giải thích mà không viện dẫn vãi bàn
giải thích, như: Trong bản án hình sự, chỉ viện dẫn Bộ luật hình sự
mà không viện dẫn nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự. Tuy nhiên,
nếu vãn bản có hiệu lực thấp giữ vai trò chi tiết hoá một :ỉố nội
dung của văn bản có hiệu lực cao hơn thì có thể viện dẫn cả hai
vãn bản đó vì mỗi vãn bản này đều không quy định đầy đủ về
những vấn đề cần được minh chứng trong dự thảo như trong
trường hợp xử phạt vi phạm hành chính ờ ví dụ trên.
Trong trường hơp có nhiều văn bản áp dụng pháp luậl cùng
liên quan tới dự thảo thì cũng chỉ viện dẫn những văn bản trục tiếp
có ý nghĩa đối với dự thảo, tránh liệt kê toàn bộ những vản bản có
trong các hoạt động trước đó. Ví dụ: Trong quá trình tiến hành

hoạt động tố tụng hình sự, có nhiều văn bản áp dụng pháp luật
được ban hành, như: quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tô'
bị can, quyết định khởi tố bổ sung dối với bị can, quyết định trả
lại hổ sơ để điều tra bổ sung..., nếu những văn bản đó đều liên
quan tới bị can được đình chỉ điều tra thì trong dự thảo quyết định
đình chỉ điều tra chỉ nên viện dẫn quyết định khởi tố vụ án và
quyết định khởi tô' bị can về hành vi được đình chỉ.
Thông thường, cơ sờ pháp lí của những văn bản áp dụng pháp
luật có nội dung trình bày theo “cơ cấu điểu khoản” đuợc thể hiện
dưới dạng mẫu câu bắt đầu bằng từ “Căn cứ”; của những vỉrn bản
áp dung pháp luật có nội dung trình bày theo “cơ cấu văn nghị
luân” được thể hiện bầng các câu do người soạn thảo lựa chọn m?t
không theo mẫu câu cố định. Thứ hai, cơ sở pháp lí cùa văn bản áp
dụng pháp luật chi là vãn bản đang có hiệu lực pháp luật vào thời
điểm vãn bản đó được ban hành, trừ trường hợp đặc biệt.
156


Vì vãn bán áp dụng pháp luật được ban hành để cá biệt liơá
các quy phạm pháp luật theo thú tục pháp luật quy định nén
những vãn bàn pháp luật được viện dẩn không thế là vãn bản đã
hốt hiệu lực pháp luật vào thời điểm văn bản đó được ban liành.
Nếu tại thời điểm soạn thảo văn bán được viện dẫn đang có hiệu
lực pháp luật nhung trước khi dự iháo được thông qua, vãn bản được
viện dẫn đã hết hiệu lực pháp luật vì bị huỷ bỏ và đình chỉ việc
siái quyết thì cần chấm dứt việc soạn thảo văn bản. Ví dụ: Trong
dự tháo quyết định cưỡng chẽ thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính viện dẫn Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng
khi dự thào chưa được thông qua thì quyết định xử phạt đã bị cấp
có thẩm quyển siái quyết khiếu nại huỷ bỏ, khi đó, phải chấm dứt

việc soạn thảo văn bản cưỡníí chế.
Trong trườne hợp đã có vãn bản quy phạm pháp luật mới được
ban hành, đã tuyên bố thay thế, bãi bỏ văn bân dược viện dẫn
trong dự thảo nhưns vãn bản mới chưa có hiệu lực ngay thì cần
Khẩn trương thông qua dự thảo trước khi văn bản mới có hiệu lực
pháp hậu hoặc viết lại dự tháo để viện dẫn vãn bản mới đã có hiệu
lực pháp luật vào thời điểm thóns qua dự thảo.
Tuy nhiên, trong các trường hợp đặc biệt, như: Trong việc xử
li về hình sự hoặc aiái quyết khiếu nại theo thú tục hành chính, cơ
quan có thẩm quyền phải xem xét lại hành vi được thực hiện trong
quá khứ Ihì vãn bản quy phạm pháp luật được viện dẫn có thế là
Vãn bán đã liốl liiệu lực vào thời diểm giải quyết vụ việc (nhưng là
vãn bàn quy phạm pháp luật được áp dụng để giải quyêì vụ việc).
ĐiiHi đó. xuât phát từ quy định: "Văn bán quy phạm pháp luật
đ:í.fc áp dụng dổi với hành 17 xảy ra tại thời điểm mà văn bủn đó
157


đang có hiệu lực".{"
1.4.2.2. Xác lập cơ sở thực tiễn của văn bản áp dụng pháp luật

Cơ sờ thực tiễn của vãn bản áp dụng pháp luật là những hành
vi hoặc vãn bản pháp lí thể hiện những hoạt động trực tiếp liên
quan đến việc giải quyết công việc phát sinh, như: biên bản vi
phạm, đơn khiếu nại, công vãn hoặc hành vi của cấp dưới dề xuất
hướng giải quvết vụ việc...
Tuy nhiên, do có nhiều hành vi hoặc văn bản pháp lí có liên
quan tới dự thảo văn bản áp dụng pháp luật nén cũng cần lựí. chọn
những hành vi hoặc vãn bản điển hình, có ý nghĩa minh chứng sự
đúng đắn về thủ tục trong quá trình giải quyết vụ việc phát sinh

hoặc thể hiện tính kịp thời của văn bản được ban hành. Ví dụ:
Trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính, phần cơ sở thực tiễn
thường là biên bản vi phạm hành chính, nếu vụ việc phức tạp, có
nhiều vãn bản trong hồ sơ là cơ sờ của quyết định thì có thể viện
dẫn số hổ sơ để tạo thành phần cơ sờ thực tiễn của quyết định.
Thông thường, cơ sở thực tiễn của những văn bản áp dụng
pháp luật có nội dung trình bày theo “cơ cấu điều khoản” được thể
hiện dưới dạng mẫu câu bắt đầu bằng các từ “Xét”, “Để"; của
những văn bản áp dụng pháp luật có nội dung trình bày theo “cơ
cấu vãn nghị luận” được thể hiện bảng các câu do người soạn thảo
lựa chọn mà không theo mẫu câu cố định.
1.5. Soạn thảo nội dung của vân bản áp dụng pháp luật
ì .5.1. Xác lập đối tượng tác động của vân bán áp dụng pháp luật
Với các mệnh lệnh cá biệt, vãn bản áp dụng pháp luật có đối
tượng tác động là những cá nhân, tổ chức xác định, có quyền và
(l).X em : Khoán 1 Điéit 83 Luát ban hành van bân quy phạm pháp luật năm 2 0 0 ỉ.

158


nchĩa vụ cụ thế được xác lập trong vãn bán. Do mỗi vãn bản áp
dụng pháp luật thường được ban hành đế áp dụng với đối tượng
riêne biệt nén khõng có sự đan xen quyển và nshla vụ giữa các
đổi tượng khác nhau, do đó việc xác định đối tượng thi hành văn
bán áp dụng pliáp luật Là việc khá thuận lợi. Tuy nhiên, để không
bị lần lộn với những cá nhân, tổ chức khác, đối tượng tác động
cùa vãn bản áp dụng pháp luật cần được xác định cụ thể theo
hướng cá biệt hóa, với những dấu hiệu riêng biệt, đậc thù. Đồng
thời, cũng cần bảo đảm sự ngắn gọn, cô đọng nhưng đầy đủ của
phần nsôn ngữ xác lập đối tượng tác độne cùa vãn bản bằng cách

chỉ ghi nhận những dấu hiệu thực sự cần thiết, điển hình.
1.5.1.1.
luật là tổ chức

Xác lập đối tượne. tác động của vãn bản áp dụng pháp

Tên iỊỌÌ cúa tổ chức được hình thành bẳng nhiều cách khác
nhau: Do pháp luật quy định (các cơ quan nhà nước); do vãn bản
ihành. lập quy định (đơn vị kinh tế, đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước); do Nhà nước cấp phép hoạt động (doanh nghiệp nhà nước);
do Nhà nước phê chuẩn điều lệ (các tổ chức xã hội). Trong tất cả
những trường hợp đó, tên gọi của các tổ chức luôn là dấu hiệu
quan trọng để phân biệt tổ chức này vói tổ chức khác nên cũng
luôn là dáu hiệu quan trọng để nguời soạn thảo văn bản áp dụng
pháp luật cá biệt hoá đối tượng tác động, xác định rõ vãn bản đó
dược áp dụne đôi với tổ chức nào.
Nêu ngoài tên uọi chính thức, tổ chức còn có tên giao dịch hoặc
tên viẽl tắt thì trong vãn bản, có thể đề cập tất cả các tên gọi đó
nhưng cần bảo đảm sự thống nhất cách sử dụng trong cả văn bản.
Đối với những tổ chức có tên gọi hoàn toàn khác biệt với những
tò chức khác (các tổ chức trong hệ thống chính trị) thì có thể chỉ
159


ncu tên tổ chức là đã đủ cá biệt hóa chúng trong ngữ cành xác định.
Ví dụ: Trong chi thị của u ỳ ban nhân dân thành phố Hà Nội chỉ
cần viết: “Sở tư pháp có nhiệm vụ tổ chức đợt tập huấn về công tác
rà soát vãn bản. . mà khổng cần gọi tên đầy đủ là “Sờ tư pháp Hà
Nội” càng không cần đưa vào đó những dấu hiệu khác, như: “đơn
vị trực thuộc u ỷ ban nhân dân thành phố”, “có trụ sờ tại..

Tuy nhiên, trong những trường hợp tên tổ chức chưa đủ để
tách biệt với một số tổ chức khác (trùng tên gọi) thì cần phối hợp
với địa chỉ để cá biệt hóa chúng. Địa chỉ của tổ chức có thể được
xác lập ờ những cấp độ khác nhau như: tên đơn vị hành chứih cấp
tỉnh, cấp huyện hoặc cấp xã; thậm chí có thể là sô' nhà, tên đưcmg
phố (nếu ở thành thị), tên thôn, xóm (nếu ờ nỏng thôn). Đó là nơi
tổ chức đóng trụ sờ chính hoặc là nơi có văn phòng đại điện của tổ
chức (nếu vãn bản chỉ liên quan tới bộ phận này).
Ngoài ra, người soạn thảo còn có thể xác định một sô' dấu hiệu
khác gắn liền vối tổ chức để vừa cá biệt hoá đối tượng tác động
của văn bản vừa để khai thác các giá trị khác của những dấu hiệu
đó, như: cơ quan chủ quản (có giá trị khi khiếu nại, kiến nghị), số
tài khoản của tổ chức (có giá trị khi cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt, khi thực hiện các hoạt động có liên quan tới vấn đề
tài chính). Ví dụ: “Công ti... thuộc Bộ...”, “Cõng ti..., có trụ sở
tại..., tài khoản số ...”.
1.5.1.2.
Xác lập đối tượng tác động cùa vãn bản áp dụng pháp
luật là cá nhân
Để cá biệt hóa những dấu hiệu nhân thân của cá nhân, trước
hết ghi họ tên theo chứng minh nhân dân hoặc các giấy tò có giá
trị pháp lí khác. Nếu là người nước ngoài, ghi theo hộ chiếu được
cơ quan có thẩm quyển cấp. Trường hợp một người có nhi<ỉu tên
160


Uiác Iihau (tên khai sinh, tên thường gọi, biệt đanh) thì trong vãn
l ân áp dụng pháp luật, sử dụng tên chính còn các tên khác có thể
toi như những dấu hiệu có tác dụng cá biệt hoá đối tượng tác
cọng của vãn bản áp dựng pháp luật.

Đồng thời, để cá biệt hoá đối tượng tác động của văn bản áp
cụng pháp luật, có thể sử dụng một số dấu hiệu nhân thân của cá
1nán, Ihỏng thường là: ngày tháng nãm sinh; nơi dăng kí khai sinh
còn gọi là nơi sinh); nơi đăng kí hộ khẩu thường trú, tạm trú;
chức vụ và nơi công tác... Trong bản án và những vãn bản áp
cụng pháp luật quan trọng khác còn có thể khai thác một số dấu
Liệu nhân thân, như: giới tính, dân tộc, quốc tịch, trình độ văn
hoá, cha mẹ, vợ con... của đối tượng tác động để cá biệt hóa đối
uợng đổng thời để góp phần tạo nên sự đánh giá đúng đắn, toàn
ciện vé những vấn đề có liên quan tới đối tượng, như: thái độ
chính trị, trình độ nhận thức chủ quan, hoàn cảnh sống v.v. của
đôi tượng, giúp cho việc giải quyết công việc phát sinh được đúng
đắn, tránh dược sụ phiến diện, lệch lạc.
Để bảo đảm tính nghiêm túc cùa văn bản, tên của cá nhân là đối
tượiig tác động của văn bản áp dụng pháp luật thường được đặt sau
inột sô từ, như: ông, bà; một sô thuật ngữ pháp lí, như: bị can, bị cáo,
nguyên đơn, bị dơn... Ví dụ: “Xử phạt vi phạm hành chính đối với
õng Nguyễn Vãn A. . “Phạt bị cáo Trần Vãn B.
ỉ .5.2. Xác lập các mệnh lệii/i cụ thể trong văn bản áp dụng
pháp luật
Trẽn cơ sờ các quy định của pháp luật hiện hành, người soạn
tháo cần đưa ra những phán quyết phù hợp với mỗi trường hợp cụ
the để áp dụng đối với từng đối tượng lác động.
Tuy nhiên, ngoài việc căn cú vào pháp luật, người soạn thảo
161


còn phải xem xét những sự kiện pháp lí phát sinh trên thực tiễn để
xác định việc có ban hành vãn bản áp dụng pháp luật hay xhông
và nội dung của vãn bản được ban hành. Chỉ khi nào đã có sự kiện

pháp lí liên quan, trực tiếp làm phát sinh quyền và nghĩa \TỊ cùa
đối tượng tác động thì mới ban hành vãn bản để ấp dụng phế.p luật
với đối tượng đó.
1.5.2.1. Xác lập hành vi
Khi soạn thảo vãn bản áp dụng pháp luật, người soạn thảo
không nên tuỳ tiện xác lập hành vi mới mà cần lựa chọn trong pháp
luật các quy định vể hành vi tương ứng với hành vi xảy ra trên thực
tiễn để mô tả hành vi của đối tượng tác động.
Nếu trong pháp luật đã có quy định về hành vi hoàri toàn
giống với hành vi được thực hiện trên thực tế thì để bảo d.ìm sự
chính xác của văn bản, người soạn thảo nên xác lập hành vi theo
hướng “sao chép nguyên văn” từ văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, do trong pháp luật có nhiều cách viết khác nhau
để xác lập hành vi và không phải hành vi nào được mô tả trong
pháp luật cũng trùng khớp với hành vi xảy ra trên thực tế nên
người soạn thảo phải có sự linh hoạt trong việc sử dụng ngôn
ngữ khi mô tả hành vi mà không nên hiểu rập khuôn, máy móc
là phải trích nguyên văn nội dung của một quy phạm pháp luật.
Nhờ đó, vừa có thể mô tả đúng hành vi đã được thực hiện trên
thực tiễn, vừa tạo ra sự phù hợp với hành vi được mô tả trorig các
quy phạm pháp luật.
Trước hết là trường hợp hành vi được mô tả trong pháp luật
mang tính khái quát cao trong khi hành vi được thực hiện trẽn
thực tiễn có những dấu hiệu của hành vi được quy định nhưng
không hoàn toàn giống với hành vi này. Khi đó, nên sử dụng cách
162


xac lặp hành vi trons vãn bàn quy phạm pháp luật dé mô tả hành
vi đã đươc thục hiện trên thực tế. Vi dụ: Trong pháp luật có quy

định về hành vi vi phạm hành chính là “gây mất trật tự công
cộns”. trong khi trên thực tế hành vi gây mất trật tự công cộng rất
đa dạng, nhu: đánh nhau, cãi nhau, hò hét ở nơi công cộng... Khi
soạn ih à o q u y ết định x ử phạt vi phạm hành chính, không nên sử

dụns những cấu trúc khác, nhu: “đánh nhau ó' nơi xét xử”, “hò hét
ở nơi công cộníỉ”... mà nên mô tả hành vi là “gây mất trật tự công
cộng" như trong văn bản quy phạm pháp luật.

Bên cạnh đó là trường hợp nhiều hành vi được mô tả chung
troníỉ một cấu trúc ngón ngữ tại một điểu, khoản nhất định cùa
văn bản quy phạm pháp luật, trong khi trên thực tiễn thì hành vi
được thực hiện chỉ là một trong những hành vi được mô tả. Khi
dó, người soạn thảo cần dựa vào cấu trúc ngôn ngữ có trong ván
bản quy phạm pháp luật để mô tà hành vi trong văn bản áp dụng
pháp luật bàng cách lược bỏ phần ngôn ngữ mô tả những hành vi
không liên quan ra khỏi cấu trúc ngôn ngữ đã được sử dụng. Ví
dụ: Trong pháp luật quy định về tội “Tàne trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý”(" nhưng trên thực tế
bị cáo chi có hành vi vận chuyển trái phép thuốc phiện thì hành vi
đó đuợc mô tả là "vàn chuyển trái phép chất ma tuý".
Tuy nhién, để bào đảm sự chính xác của việc xác lập hành vi
thì việc bóc tách, thay thế từ ngữ đã được sử dụng trong các quy
phạm pháp luật phải vừa phản ánh đúng tinh thán của vãn bản quy
phạm pháp luật vừa phải bảo đảm tính hạp lí về cấu trúc ngôn
ngữ, phản ánh đúng hành vi được thực hiện trên thực tế.

í 1KXem: Điếu i ()4 Bộ luài hình sư.

163



×