Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.4 KB, 2 trang )
Quốc hiệu Việt Nam - chín mốc lịch sử đấu tranh dựng nước
Ngày 2-9-1945, sau 80 năm đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Từ thời đại đồ đồng, người Việt có khoảng 15 bộ lạc và hàng chục bộ lạc Âu Việt khác
sống chủ yếu ở phía bắc nước ta. Trong số bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh
nhất. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả bộ lạc Lạc Việt, dựng lên nhà
nước Văn Lang, sử sách ghi là thời Hùng Vương, con cháu nhiều đời sau vẫn nối truyền
danh hiệu đó. Thời gian tồn tại nước Văn Lang khoảng từ thiên niên kỷ thứ I trước công
nguyên đến thế kỷ thứ III trước công nguyên.
NHÀ NƯỚC ÂU LẠC
Năm 211 trước công nguyên (TCN), Tần Thủy Hoàng cho quân xâm chiếm đất đai của toàn bộ các nhóm
dân tộc người Việt. Thục Phán, thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt được tôn làm người lãnh đạo cuộc
chiến chống quân Tần. Năm 208 TCN, Thục Phán xưng hiệu là An Dương Vương, liên kết các bộ lạc Lạc
Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.
Năm 179 TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt, đưa quân đánh chiếm Âu Lạc, cuộc kháng chiến của An
Dương Vương thất bại. Suốt bảy thế kỷ sau đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương bắc thay nhau đô
hộ, chia Âu Lạc thành nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ, nhưng vẫn không xóa nổi cái tên Âu Lạc
trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của người Việt.
NƯỚC VẠN XUÂN
Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Tháng 2 năm 544,
Lý Bí lên ngôi hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Chính quyền họ Lý tồn tại
không lâu lại rơi vào vòng đô hộ của giặc phương bắc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân được khôi phục
sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt năm 938.
NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT
Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân và vùng cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế,
lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng và đổi quốc hiệu thành Đại Cồ Việt, và được duy trì đến thời nhà Lý (1010-
1053).
NƯỚC ĐẠI VIỆT (LẦN 1)
Năm 1054, từ việc trên bầu trời nước Việt xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, vua Lý Thái
Tông liền đổi tên nước thành Đại Việt và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên cho đến hết thời nhà Trần.