Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33
̣
, Sô ́1 (2017) 5065
TRAO ĐỔI
Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tếxã hội
đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc
Đỗ Đức Minh*
Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 01 năm 2017
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 02 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2017
Tóm tắt: Vùng Tây Bắc có vị thế địa chính trị vô cùng quan trọng, liên quan mật thiết đến sự
tồn vong và hưng thịnh của đất nước. Nghiên cứu những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố
kinh tế xã hội đến việc phát sinh và phát triển của các loại tội phạm xuyên quốc gia ở vùng
Tây Bắc góp phần nhận diện, làm rõ những đặc điểm, yêu cầu, thuận lợi và thách thức trong
công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và
cả nước nói chung.
Từ khóa: Tây Bắc, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia.
cắt phức tạp. Từ Đông sang Tây được đánh
dấu bởi dãy núi cao và đồ sộ nhất là Hoàng
Liên Sơn (dài 180km, rộng 30km) với nhiều
đỉnh núi cao mây mù từ 28003000m. Phía tây
là dãy núi sông Mã dài 500 km và có những
đỉnh cao trên 1800m. Giữa hai dãy núi đồ sộ
này là vùng đồi núi thấp tương đối rộng lớn
thuộc lưu vực sông Đà (còn gọi là địa
máng sông Đà) với nhiều cao nguyên đá vôi có
độ cao trung bình chạy suốt từ Phong
Thổ đến Thanh Hóa và có thể chia nhỏ thành
các cao nguyên như Tà Phình, Mộc Châu, Nà
Sản. Xen giữa các dãy núi Hoàng Liên và dải
cao nguyên phía Tây là một số đồng bằng nhỏ
và thung lũng (vùng bồn địa, lòng chảo) như
Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh (thung
lũng lớn nhất nhưng chiếm phần nhỏ trong
toàn bộ diện tích vùng). Địa hình Tây Bắc
được đặc trưng bởi tính phức tạp và chia cắt
mạnh đã tạo nên những vùng cảnh quan khá
đa dạng: Vùng cao núi đồi cao và dốc lớn,
nhiều ngọn núi cheo leo hiểm trở xen kẽ các
1. Một số vấn đề về điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội vùng Tây Bắc
1.1. Điều kiện tự nhiên
(1). Vùng Tây Bắc có kiến tạo địa chất đa
dạng phức tạp và có địa hình cao nhất, bị chia
cắt nhất, hiểm trở và trọng yếu nhất Việt
Nam. Là miền đất của những núi cao và cao
nguyên (đá vôi xen lẫn núi đất), nơi đây đặc
trưng có nhiều dãy núi cao trải dài hình rẻ
quạt hướng tây bắcđông nam (khu vực Lào
Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình)
hoặc có những dãy núi cao chạy theo hình
cánh cung (khu Việt Bắc). Nhiều khối liền
mạch núi sông và dãy núi cao kéo dài từ
Vân Nam (Trung Quốc) và thoải dần song
song với thung lũng sông Hồng. Các dạng địa
hình phổ biến ở đây là các dãy núi cao, thung
lũng sâu hay hẻm vực làm cho địa hình chia
ĐT.: 84983682040
Email:
50
51
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
thung lũng sâu và hẹp tạo thành một phức hợp
của những bồn địa lớn, nhỏ nằm xen kẹp giữa
các dãy núi cao bao bọc xung quanh; xen kẽ là
các thung lũng có địa hình tương đối bằng
phẳng (Mường So, Tam Đường, Bình
Lư, Than Uyên), Pu Sam Cáp [1, tr.76].
Tên hình:???
(2). Tây Bắc cũng là địa bàn có diện tích
rừng tự nhiên khá lớn với hệ thống các rừng
rậm, rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng phục sở hữu nguồn tài nguyên
phong phú, có giá trị đối với sự nghiệp xây
dựng, phát triển của đất nước và bảo vệ bền
vững môi trường sinh thái. Đây là một vùng
sinh thái đặc biệt, tính đa dạng sinh học cao và
có tính đặc hữu; hệ thống vật rừng điển hình
và phong phú về loài, nhiều loại cây gỗ, cây
dược liệu quý hiếm có giá trị kinh tế, giá trị
khoa học cao. Tài nguyên rừng của Tây Bắc
không chỉ cung cấp nguyên liệu giấy, chất
đốt, phát triển vùng dược liệu, phát triển công
nghệ sinh học (bảo tồn nguồn gen ) mà còn có
vai trò quan trọng với du lịch sinh thái và vùng
nguyên liệu gỗ, sản phẩm đặc sản của cả
vùng Bắc Bộ; vai trò quyết định đối với bảo
vệ môi trường sinh thái đầu nguồn và nguồn
nước của đồng bằng. Tây Bắc cũng là vùng
trung chuyển của tất cả các con sông có dòng
chảy lưu lượng lớn ở phía Bắc bắt nguồn từ
các đỉnh núi cao ở khu vực Trung Quốc chảy
về Việt Nam cùng với hàng nghìn sông, suối
lớn nhỏ ghềnh thác dày đặc nên tiềm năng
điện rất lớn. Tài nguyên nước dồi dào, không
chỉ đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh tế và dân
sinh của toàn vùng mà còn chi phối sự phát
triển tự nhiên của các vùng đồng bằng Bắc
Bộ và Trung Bộ [2]. Tài nguyên đất đai,
khoáng sản giàu và phong phú: đất đai tương
đối rộng, thổ nhưỡng đa dạng, chứa đựng
một số loại khoáng sản quan trọng như sắt
(apatít), bôxít, chì, kẽm, đa kim, đất hiếm, đá
quý, than đá...với trữ lượng khá lớn1.
1
Ngoài ra, dưới lòng đất khu vực này cũng có nhiều tài
nguyên chưa được phát hiện, nhất là ở vùng sâu, vùng
xa, vùng hiểm trở đi lại khó khăn.
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
(3). Là địa bàn vùng núi cao, địa hình chia
cắt nhiều tầng trên một nền địa chất phức tạp
và sự phân hoá khí hậu sâu sắc nên thiên nhiên
Tây Bắc khá đa dạng với nhiều tiểu vùng với
các đặc trưng về địa hình, thổ nhưỡng, khí
hậu, thủy văn (Tây Bắc Bộ, Tây Thanh Hóa,
Nghệ An)... Khí hậu vùng Tây Bắc mang tính
lục địa rõ rệt và khá phức tạp, được chia làm
hai mùa theo độ ẩm là: Mùa khô hạn kéo dài
cộng với lượng gió Tây khô nóng gây khó
khăn cho cây trồng và vật nuôi. Mùa mưa
thường có gió lốc, mưa đá và lũ ống, lũ quét
vào đầu mùa gây ra sự tàn phá bất thường đối
với đất đai, sản xuất và đời sống; từ tháng
12 đến tháng 1 thường xuyên có sương muối
và băng giá. Khu vực này cũng chịu tác động
của những biến cố khí hậu ở miền núi mang
tính chất cực đoan, trong năm xuất hiện
những hiện tượng, như: lạnh có tuyết, sương
mù vào mùa Đông (Sa Pa, Mẫu Sơn) và hiện
tượng “phơn” mùa hạ làm nhiệt độ có khi lên
trên 40oC. Biên độ nhiệt độ trong ngày khá
lớn, nhiều nơi khí hậu mang nhiều sắc thái ôn
đới; bị phân hóa mạnh theo không gian dưới
tác động của các hệ thống hoàn lưu gió mùa,
nhiễu động nhiệt đới và sự tương tác của địa
hình. Sự phân hóa đó được thể hiện bởi sự
khác biệt giữa phía tây và đông dãy Hoàng
Liên Sơn và Trường Sơn Bắc. Các hiện tượng
mưa lớn tập trung khi kết hợp với một số
điều kiện thì xuất hiện lũ, lũ quét. Mùa khô
thường xảy ra hạn hoặc hạn hán kéo dài ngoài
sức chịu đựng của cây cối [3].
1.2. Tình hình kinh tế xã hội
(1). Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc
theo phạm vi chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Tây
Bắc gồm vùng diện tích của 12 tỉnh miền núi
và trung du miền núi, gồm: Hà Giang, Lào
Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La,
Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn,
Phú Thọ, Tuyên Quang và 22 huyện/thị phía
tây của hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An2 (gồm
2
Các huyện phía tây Thanh Hóa là: Quan Hóa, Mường
Lát, Thường Xuân, Như Thanh, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy,
52
144 huyện/thị, 2564 xã/phường với tổng diện
tích 107,761 km2 chiếm 32,16% diện tích phần
đất liền với dân số trên 15 triệu người chiếm
17% dân số cả nước (trong đó chủ yếu là dân
số ở nông thôn chiếm 83,7%). Đây là vùng
rộng lớn, đất rộng người thưa nhưng có vị trí
địa chính trị hết sức quan trọng, đóng vai trò
“phên dậu” đối với an ninh quốc gia. Trong
lịch sử, Tây Bắc được xem là vùng đất có tầm
chiến lược đặc biệt quan trọng “địa đầu” biên
cương của Tổ quốc, che chắn cho trấn như
“giậu” như “phên” án ngữ cho châu làm “then”
làm “chốt” và nơi đây cũng được coi là vùng
đất “Tam Mãnh” qua Lào vào Vân Nam và
Hưng Hóa [4].
Hiện nay Tây Bắc có vị trí địa lý đặc biệt
quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc
phòng và trong quan hệ giao lưu quốc tế; là
địa bàn chiến lược, vùng biên cương trọng yếu
của đất nước với gần 2600 km đường biên
giới quốc gia tiếp giáp với Trung Quốc và Lào
với nhiều cửa khẩu thông thương giữa Việt
Nam với các nước trong khu vực và nhiều lối
mở tiểu ngạch buôn bán giao thương nhỏ trên
tuyến đường mòn xuyên biên giới3. Khu vực
Quan Sơn, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh, Thạch
Thành. Các huyện phía Tây Nghệ An gồm: Quỳ Châu,
Nghĩa Đàn, Thị xã Thái Hòa, Tương Dương, Tân Kỳ,
Thanh Chương, Quỳ Hợp, Kỳ Sơn, Con Cuông, Anh
Sơn, Quế Phong.
3
Đường biên giới ViệtTrung dài 1375/1494km gồm 6/7
tỉnh giáp biên của Việt Nam [Hà Giang (274 km), Lai
Châu (273 km), Lào Cai (203,5 km), Điện Biên (38,5km),
Lạng Sơn (253 km), Cao Bằng (333.403 km)] với tỉnh
Vân Nam, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của
Trung Quốc. Đường biên giới ViệtLào dài
1221/2340km trải dài suốt 4/10 tỉnh của Việt Nam [Điện
Biên (360km), Sơn La (250 km), Thanh Hóa (192 km),
Nghệ An (419,5km), tiếp giáp với 5 tỉnh Phông Sa Lỳ,
Luông Pha Băng, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm
Xay của Lào. Khu vực Tây Bắc có nhiều cửa ngõ thông
thương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực như:
1/ Cửa khẩu quốc tế có, Đường bộ: Tà Lùng, Móng Cái,
Hữu Nghị, Lào Cai, Thanh Thủy, Tây Trang, Na Mèo,
Nậm Cắn. Đường sắt: Đồng Đăng, Lào Cai. 2/ Cửa
khẩu quốc gia: Hoành Mô, Bình Nghi, Chi Ma, Lý Vạn,
Hạ Lang, Pò Peo, Trà Lĩnh, Sóc Giang, Săm Pun, Phó
53
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
biên giới ViệtTrung có cấu trúc địa hình
tương đối phức tạp, độ chia cắt lớn, thấp dần
từ Tây sang Đông dẫn đến hệ thống sông suối
nơi đây phần lớn có xu hướng chảy từ Tây
Bắc xuống Đông Nam, ít có giá trị đối với
giao thông đường thủy. Tùy theo mùa và từng
đoạn, mực nước biến đổi thất thường (có khi
xuống thấp hoặc dâng cao), chảy mạnh gây
bồi lở và đổi dòng dẫn đến biến đổi địa hình
lòng sông và ảnh hưởng đến việc lưu thông
qua lại [5]. Phần lớn tuyến biên giới ViệtLào
đều đi qua đỉnh hoặc triền núi và qua rừng
rậm nhiệt đới với độ cao trung bình hoặc cao
(nơi thấp nhất khoảng 300m, cao nhất khoảng
2700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung
bình khoảng 500m, có nơi trên 1000m so với
mực nước biển). Dãy núi cao Pu Xam Sẩu từ
A Pa Chải trải dài hình thành một đường biên
giới tự nhiên giữa hai nước; một số đèo đã trở
thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên
các đoạn biên giới khác, hầu hết là núi non
hiểm trở, giao thông đi lại rất khó khăn [6].
(2). Khu vực Tây Bắc còn là nơi tập trung
đông các tộc người các dân tộc: trên địa bàn
khu vực hiện có 31 dân tộc thiểu số cư trú đan
xen với nhau và đồng bào dân tộc thiểu số
chiếm khoảng 70% số dân của cả vùng. Mật
độ dân số thấp so với cả nước: bình quân 155
người/km2 (mật độ dân số bình quân cả nước
là 274 người/km2); riêng các tỉnh có chung
đường biên giới với Trung Quốc thuộc nhóm
dưới 100 người/km2. Do tác động của quá
trình tộc người (di cư từ bên ngoài tới hoặc
các cuộc xung đột tộc người liên quan đến nơi
cư trú) cũng như tập quán mưu sinh của các
tộc người đã hình thành nên hiện tượng cư trú
cài răng lược giữa đồng bào các dân tộc với
mức độ phân bố cư dân không đều giữa các
vùng cảnh quan, đặc biệt ở vùng rẻo cao, rẻo
giữa (phân bố dân cư theo độ cao). Trong các
dân tộc thiếu số, một số dân tộc đã đạt đến
một giai đoạn phát triển cao (Tày, Nùng,
Dao..) với sự xuất hiện các tầng lớp xã hội
Bảng, Xín Mần, Mường Khương, Ma Lù Thàng, Huổi
Pôc, A Pa Chải, U Ma Tu Khoàng, Chiềng Khương
Sông Mã, Nà Cài, Lóng Sập (Pa Háng).
khác nhau, nhiều dân tộc còn chia thành đẳng
cấp...Mặc dù cũng có điểm khác biệt về tín
ngưỡng và tôn giáo, song hầu hết các tộc
người thiểu số sống ở vùng Tây Bắc đều theo
tín ngưỡng đa thần và quan niệm về vũ trụ
xung quanh con người được tạo bởi nhiều
tầng thế giới; trong đó một bộ phận (khoảng
trên 100.000 người) theo các tôn giáo [7]. Các
thiết chế xã hội truyền thống của các tộc
người cư trú rất phong phú và phụ thuộc vào
hoàn cảnh lịch sử của họ, tạo nên những nét
riêng biệt của mỗi tộc người ở đây. Quan hệ
dân tộc mang tính tộc người giữ vai trò chủ
đạo, thông qua quan hệ hôn nhân nội tộc, họ
hàng thân thích, láng giềng đồng tộc để thực
hiện các nghi lễ tộc người (ma chay, cưới xin,
lễ tết). Trong đó, xu hướng chủ đạo là sự cố
kết đồng tộc, hòa hợp dân tộc và đồng hóa tự
nhiên. Quan hệ thân tộc gồm các mối quan hệ
gia đình, quan hệ họ hàng được xem là sự
khởi nguồn cho các mối quan hệ khác trong xã
hội và được người dân Tây Bắc đặc biệt coi
trọng. Mặc dù đều có đặc điểm chung của
khu vực miền núi phía Bắc nhưng do những
đặc thù về môi trường cư trú và lịch sử tộc
người nên mỗi vùng và mỗi tộc người đều có
những đặc điểm kinh tếxã hội theo vùng
cảnh quan, hình thành nên những truyền thống
và đặc thù văn hoá của các tộc người (n hiều
dân tộc còn lưu giữ nguyên vẹn bản sắc văn
hóa truyền thống của mình). Ngoài ra, sự khác
biệt về điều kiện sinh sống, phương thức lao
động sản xuất cũng gây ra khác biệt văn hóa
lớn mặc dù văn hóa chủ thể và đặc trưng
chung.
Trên vùng Tây Bắc, đồng bào các dân tộc
anh em cùng sinh sống gắn bó lâu đời, có
truyền thống yêu nước, đoàn kết, kiên cường
chống ngoại xâm; có ý thức trong lao động,
sản xuất, vươn lên thoát khỏi đói nghèo và
quyết tâm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; sáng
tạo và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Văn hóa
các tộc người vùng Tây Bắc khá phong phú,
đa dạng và giàu bản sắc, gắn liền với quá
trình tụ cư lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn
và thời điểm khác nhau, được thể hiện trên
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
các khía cạnh về nhà cửa, trang phục, ẩm
thực, quan hệ gia đình và cộng đồng, các hình
thức tổ chức xã hội, phong tục tập quán, lễ
hội, trang phục, nhạc cụ, các điệu dân ca, dân
vũ...Mỗi nhóm dân tộc đều có nền văn hoá
riêng biệt, giàu có và độc đáo và hợp thành
một không gian văn hóa rộng lớn với nguồn
tài nguyên văn hóa nhân văn to lớn và phong
phú, đặc biệt là kho tàng tri thức bản địa và
tiềm năng văn hóa phi vật thể đặc sắc của
đồng bào các dân tộc.
Sản xuất nông nghiệp mang tính tự cung
tự cấp và tương đối khép kín là hoạt động
kinh tế chủ yếu của hầu hết đồng bào các dân
tộc thiểu số ở Tây Bắc với nghề trồng lúa
nương ( ? ? ? ? đao canh hỏa chủng) và ruộng
nước (? ? ? ? đao canh thủy nậu), ngoài ra họ
còn trồng rau màu hoặc săn bắn, đánh cá, hái
lượm và sống bán du mục, thực hiện nhiều
hình thức chiếm đoạt các nguồn lợi tự nhiên
sẵn có trong rừng quanh khu vực cư trú. Mặc
dù nông cụ sản xuất thô sơ nhưng họ đã sớm
canh tác lúa trên ruộng ngập nước và tiến
hành tưới tiêu, một số dân tộc biết các kỹ
thuật canh tác tiến bộ và khá thành thục
(Mường, Thái, Dao..). Ngoài ra, họ còn chăn
nuôi gia súc, gia cầm hoặc thủy sản theo hộ
gia đình, làm một số nghề thủ công gia đình
(như dệt vải, đan lát, làm mộc, làm rèn, chế
tác kim loại làm trang sức, làm giấy dó, ép
dầu); một bộ phận đồng bào cư trú suốt dọc
tuyến biên giới buôn bán tiểu ngạch. Tập
quán trồng trọt ở mỗi tộc người tại các vùng
thung lũng, vùng rẻo giữa và vùng cao vẫn có
những nét riêng biệt bởi những cách làm ăn
này đã tồn tại qua hàng nghìn năm canh tác
của họ. Trao đổi hàng hoá là nhu cầu thiết
yếu đã có từ lâu đời của các dân tộc thiểu số:
họ thường cùng nhau họp chợ tại trung tâm
xã, huyện hoặc ngay ven đường cái. Do các
tộc người đều cư trú ở vùng sâu vùng xa nên
họ chỉ họp chợ 5 ngày (hoặc 1 tuần)/1 lần
(chợ phiên), là một nét đặc trưng văn hóa vùng
cao[3].
Ngoài ra, Tây Bắc còn được đặc trưng bởi
một địa bàn dân cư và khu vực hành chính đặc
54
biệt của vùng biên giới ViệtTrung và Việt
Lào. Đây cũng là địa bàn cư trú chủ yếu của
người dân tộc thiểu số thuộc các nhóm ngôn
ngữ TàyThái, TạngMiến, H’MôngDao và
Hán. Một trong những đặc điểm nổi bật của
dân cư vùng biên giới4 là sự cư trú xen kẽ cài
răng lược của nhiều tộc người cùng cộng cư
trong quá trình lịch sử lâu dài; có mối quan hệ
gần gũi về thân tộc, kinh tế, văn hóa, ngôn
ngữ, phong tục tập quán lâu đời. Các làng bản
cư trú sát biên giới và tạo thành các quần thể
dân cư đông đúc (nhất là dọc các triền núi
hoặc các con sông lớn) có chung nguồn gốc,
tương đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán
và đặc biệt là cư trú trong một khu vực địa lý
cận kề, người dân sống thưa thớt tại các làng
bản rất xa nhau ở khu vực biên giới, đời sống
vật chất và tinh thần còn nhiều thiếu thốn và
lạc hậu. Đặc biệt, nhiều dân tộc sinh sống
trên đất nước ta có nguồn gốc từ Trung Quốc
tới cư trú ở Việt Nam vào những thời kỳ lịch
sử khác nhau nên phần lớn các dân tộc thiểu
số của cả hai nước đều có những mối quan
hệ khá sâu sắc về lịch sử, văn hóa (kể cả
nguồn gốc tộc người)5. Với nhiều tộc người,
quan hệ tộc người xuyên biên giới đã trở nên
một hiện tượng dân tộc học lịch sử rõ rệt và
có sức sống lâu bền cho đến hôm nay.
4
5
Theo Quy chế quản lý biên giới Việt Nam
Trung Quốc, Việt NamLào thì: Vùng biên giới
là chỉ khu vực hành chính cấp huyện của hai Bên
(Việt Nam và Trung Quốc) tiếp giáp đường biên
giới. Khu vực biên giới là khu vực bao gồm các
xã hoặc đơn vị hành chính tương đương của
Việt Nam và các bản hoặc đơn vị hành chính
tương đương của Lào tiếp giáp với đường biên
giới quốc gia giữa hai nước. Cư dân biên giới là
chỉ dân cư thường trú của mỗi nước thuộc xã
(trấn) tiếp giáp đường biên giới.
Có khoảng trên 20 dân tộc thuộc các nhóm ngôn
ngữ TàyThái, H’MôngDao, TạngMiến sinh
sống tại các tỉnh biên giới phía Bắc có quan hệ
lịch sử với đồng tộc ở bên kia đường biên.
Người H’Mông là một nhóm dân tộc có địa bàn
cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước
lân cận thuộc tiểu vùng Đông Nam
Á là Lào, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar[7].
55
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
Do đặc điểm văn hóa, điều kiện lịch sử,
phần lớn các tộc người cư trú xen kẽ dọc các
tuyến biên giới ViệtTrung đều có mối quan
hệ thân tộc khá mật thiết, gần gũi và gắn bó
với đồng tộc của họ ở bên kia biên giới6. Do
khoảng cách địa lý tại khu vực biên giới chỉ
cách nhau một cây cầu, một con suối hay lối
mòn nên họ dễ dàng qua lại thăm thân, cùng
tham dự các nghi lễ tộc người hoặc mua bán,
trao đổi hàng hóa với nhau từ đó mạng lưới xã
hội luôn được mở rộng [8, 9899]. Trong đó,
những hoạt động thăm thân diễn ra thường
xuyên và là tập quán quen thuộc của đồng bào
các dân tộc vùng biên (phổ biến nhất là đi dự
các đám cưới, đám tang, các nghi lễ cúng của
gia đình và dòng họ). Văn hóa vùng biên gần
như đã vượt qua giới hạn của nhà nước, của
biên giới về lãnh thổ, địa lý, không chỉ kết nối
con người và các thiết chế trong nội bộ một
đất nước mà còn gắn kết với những đất nước
khác. Vì vậy, hiện tượng hôn nhân xuyên biên
giới (HNXBG) xảy ra khá phổ biến ở khu vực
biên giới Tây Bắc, nhất là ở các vùng biên
giới có dân số đông, cư trú liền sát với đường
biên giới [9, tr.49].
(3) Tóm lại: Tây Băc n
́ ổi tiếng với đặc
trưng về địa hình, khí hậu, địa chất, hệ sinh
thái, tai nguyên thiên nhiên đa d
̀
ạng và phong
phu; ti
́ ềm năng đất đai, rừng, nguồn nước, hệ
sinh thái của Tây Bắc được xếp vào tốp đứng
đầu trong 8 vùng kinh tế của cả nước). Đây là
vùng có đặc trưng sắc thái văn hóa của các tộc
người riêng biệt và đặc hữu, sở hữu nguồn tài
nguyên văn hóa to lớn, quý báu và kinh tế xã
hội rất đặc thù đồng thời là vùng đất lịch sử
thiêng liêng, giàu truyền thống yêu nước và
giá trị văn hóa lịch sử. Không chỉ là nơi có
tiềm năng lớn phát triển ngành công nghiệp
khai thác và chế biến khoáng sản, kinh tế
nông lâm ngư, dịch vụ thương mại và
6
Các quan hệ thân tộc ở đây chủ yếu là quan hệ gia
đình, dòng họ theo quan hệ phụ hệ tính theo dòng cha ở
nhiều dân tộc thiểu số thuộc các nhóm ngôn ngữ Tày
Thái, H’MôngDao và Tạng Miến. Ở các tộc người này,
các mối quan hệ trong quan hệ gia đình, dòng họ còn khá
chặt chẽ.
kinh tế; Tây Bắc còn được thiên nhiên ban
tặng một vung
̀ cảnh quan kỳ vĩ, hiểm trở với
nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng và điểm
nhấn du lịch lý tưởng đối với du khách. Vị trí
biên cương với nhiều của ngõ giao lưu quốc
tế là điều kiện và cơ hội lớn để Tây Bắc đẩy
mạnh thương mại quốc tế, tiến tới xây dựng
khu vực này thành địa bàn trung chuyển chính
trên tuyến đường xuyên Á phía Bắc, nối liền
vùng Tây Bắc Việt Nam với khu vực Bắc
LàoTây Nam Trung Quốc, Đông
Bắc Myanma và trực tiếp giao lưu với các
lục địa rộng lớn phía tây nam Trung Quốc. Là
vùng đất địa đầu có vị trí chiến lược về quốc
phòng, an ninh chính trị và trật tự, tôn giáo tín
ngưỡng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc
gia với tiềm năng, ưu thế to lớn đê phat triên
̉
́
̉
triển kinh tế xã hội cũng như phát triển mọi
nganh nghê, linh v
̀
̀ ̃
ực7 và sở hữu nguồn tiềm
năng có sức hấp dẫn, thu hút rất lớn đối với
du lịch, Tây Bắc đang là điểm đến làm ăn của
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Bên cạnh những thuận lợi như trên, điều
kiện tự nhiên của Tây Bắc cũng có nhiều khó
khăn, cản trở và tác động bất lợi đến đời sống
kinh tế xã hội của người dân. Do địa hình
phức tạp, bị chia cắt sâu và mạnh nên hình
thành nhiều tiểu vùng khí hậu sinh thái đặc
thù thích hợp với nhiều loại cây trồng và cho
phép phát triển một nền sản xuất nônglâm
nghiệp phong phú, phù hợp với cây trồng và
vật nuôi vùng nhiệt đới và ôn đới, các loại
rau, củ, quả vùng cao. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của điều kiện địa lý tự nhiên (địa hình
sự đa dạng, đất đai chủ yếu là đồi núi cao
dốc, diện tích canh tác nhỏ hẹp và chiếm tỷ lệ
rất thấp, khí hậu vùng núi cao thay đổi thường
xuyên và chịu tác động trực tiếp của gió mùa,
7
Tiềm năng, lợi thế của Tây Bắc gồm các thế mạnh
trong sản xuất nông, lâm nghiệp; định hướng phát triển
các loại hình dịch vụ, đầu tư chiều sâu để khai thác và
chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, phát
triển thủy lợi vừa và nhỏ gắn với thủy điện theo quy
hoạch, các ngành công nghiệp chế biến và bảo quản
nông lâm sản, kinh tế cửa khẩu.
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
bão, lũ...) nên sản xuất khu vực này kém phát
triển, ảnh hưởng không nhỏ đến sinh kế của
người dân và phát triển kinh tế của
vùng...Đặc điểm địa hình nơi đây cũng tạo ra
sự manh mún đất trong sản xuất nông nghiệp
và nảy sinh một số hiện tượng tai biến như:
động đất, nứt đất, rửa trôi, xói mòn sạt lở đất
và lũ quét trong mùa mưa, có ảnh hưởng lớn
đến việc giao lưu phát triển kinh tế xã hội
và đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao
thông. Với điều kiện khí hậu cộng với điều
kiện địa hình như trên, Tây Bắc được xem là
vùng có điều kiện cực khó khăn về giao thông,
canh tác nông nghiệp (chăn nuôi và trồng trọt
một số loại cây lương thực quan trọng), lâm
nghiệm vào loại nhất cả nước (an ninh lương
thực luôn trong tình trạng báo động). Sự phân
bố dân cư thưa cũng làm cho hiệu quả các
chính sách xóa đói giảm nghèo, chương trình
30a và các chương trình mục tiêu quốc gia nói
chung. Sự chia cắt của địa hình không chỉ làm
cho khu vực này thiếu đất và không gian để
canh tác mà còn biến nơi đây thành các tiểu
vùng tương đối độc lập nhau, do đó giao lưu
kinh tế, văn hóa liên tiểu vùng và xuyên vùng
không phát triển dẫn đến hoạt động kinh tế,
văn hóa xã hội của toàn vùng được xếp vào
loại thấp nhất cả nước. Đồng thời, những
khó khăn về phong tục, cách thức làm ăn
truyền thống, ngôn ngữ, tập quán văn hoá đa
dạng...cũng là rào cản không nhỏ với sự phát
triển của Tây Bắc. Là khu vực miền núi có
những đặc trưng riêng không thấy ở nơi nào
khác trên đất nước nhưng Tây Bắc cũng là địa
bàn nghèo, xa xôi, địa hình hiểm trở, nhiều
điểm đến khó tiếp cận, một số địa phương
còn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển
kinh tếxã hội [2].
1.3. Tây Bắc trong tiến trình đổi mới đất
nước
(1). Những thành tựu chủ yếu
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong những năm qua, các tỉnh vùng
Tây Bắc đã có bước chuyển biến về mọi mặt.
56
Kinh tế nông lâm và thủy sản phát triển ổn
định, trở thành điểm nhấn trong bức tranh kinh
tế của Tây Bắc. Nhờ đó, đã ổn định đời sống,
an ninh trật tự của vùng với 83% cư dân nông
thôn, hơn 80% lao động trong lĩnh vực nông
lâm ngư nghiệp. Cùng với việc khai thác tối
đa tiềm năng đất trồng cây lương thực kết
hợp với việc sử dụng giống mới, đẩy mạnh
thâm canh, tăng năng suất, nên an ninh lương
thực trong toàn vùng cơ bản đã được đảm
bảo. Các vùng chuyên canh tập trung gắn với
chế biến và tiêu thụ sản phẩm tiếp tục phát
triển và mang lại hiệu quả khá cao. Nông
lâm ngư nghiệp của vùng đã bắt đầu phát
triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Mặc dù
thu hút đầu tư nước ngoài còn khiêm tốn,
nhưng đã từng bước hình thành nên các khu
công nghiệp ở các địa phương trong vùng, sản
xuất công nghiệp từ các địa phương đang có
lợi thế và đi vào chính quy tập trung. Công
nghiệp khai khoáng và chế biến cũng phát
triển khá mạnh; công nghiệp chế biến nông,
lâm, thủy sản gắn với phát triển vùng nguyên
liệu phát triển nhanh, đang tạo vị thế mới cho
đầu tư, kinh doanh nông, lâm nghiệp. Lĩnh
vực thương mại, dịch vụ của khu vực Tây
Bắc đã có những nét chấm phá, những khởi
sắc gắn với kinh tế biên mậu, kinh tế cửa
khẩu phát triển rất nhanh (nhất là các cửa
khẩu của Lạng Sơn, Lào Cai); du lịch đã có
những bước đột phá. Tăng trưởng kinh tế
hàng năm toàn vùng luôn ở mức 10% trở lên.
Kết cấu hạ tầng kinh tếxã hội của vùng
được đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng,
trong đó tập trung cao cho các dự án giao
thông, thủy lợi, thủy điện trọng điểm. Nhiều
tuyến đường huyết mạch và nhiều công trình
trọng điểm và đang đầu tư hoàn thiện. Hạ
tầng nông thôn đã có bước phát triển, nhất là
về giao thông, điện, nước sạch, xóa nhà
tạm...Phong trào kiên cố hoá đường liên xã,
liên thôn, đã làm cho mạng lưới giao thông
được cải thiện rõ rệt (gần 3.700km quốc lộ,
đường liên huyện, đường đến trung tâm xã
được mở rộng, nâng cấp). Nhiều công trình
kết cấu hạ tầng và phúc lợi công cộng, giúp
57
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
hộ nông dân tiếp cận với các dịch vụ xã hội
cần thiết nhất là các vùng nghèo, vùng sâu,
vùng biên giới được xây dựng hoàn thiện.
Phong trào xây dựng nông thôn mới được đẩy
mạnh và rộng khắp trong nhân dân, kể cả
đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa. Các
chương trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển
nông thôn khác cũng được triển khai mạnh
mẽ; diện mạo đô thị, nông thôn miền núi có
nhiều khởi sắc. Công tác chăm sóc sức khỏe
đối với các dân tộc ít người ở Tây Bắc đã có
nhiều bước tiến đáng kể về mạng
lưới y tế, sức khoẻ sinh sản cho phụ
nữ, chăm sóc sức khoẻ trẻ em... Việc
phát triển giáo dục cho vùng đồng bào dân tộc
ít người đã đạt được nhiều thành tựu về quy
mô, mạng lưới trường học đã phủ kín đến
thôn bản. Chất lượng giáo dục có nhiều
chuyền biến tích cực, góp phần cải thiện đáng
kể trong việc nâng cao dân trí cho đồng bào
các dân tộc thiểu số. Quy mô nhân lực của
vùng có xu hướng gia tăng cả về số lượng và
tỷ trọng trong cơ cấu lực lượng lao động cả
nước, nguồn nhân lực đã qua đào tạo cũng
tăng dần. Bình quân trong khu vực Tây Bắc
các xã đã đạt 7,5% tiêu chí nông thôn mới,
tăng 3,8 tiêu chí so với năm 2010. Số xã đạt 19
tiêu chí là 27 xã, chiếm 1,2% tổng số xã trong
vùng, trong đó có 13 xã được công nhận.
Trong số các tỉnh vùng Tây Bắc, Phú Thọ và
Hòa Bình là hai tỉnh có mức đạt tiêu chí bình
quân cao nhất, lần lượt đạt 9,72 và 9,38 tiêu
chí. Về lĩnh vực xã hội, xóa đói giảm nghèo
các tỉnh vùng Tây Bắc đã đạt được tốc độ
giảm nghèo tương đối cao. Đời sống vật chất,
tinh thần của người dân trong vùng Tây Bắc
đã được cải thiện hơn: thu nhập bình quân
đầu người của cả vùng đã tăng 35%, tỷ lệ hộ
nghèo giảm 8% so với trước [2]. Thực hiện
chủ trương phát triển mọi mặt đời sống
người dân, xây dựng nếp sống văn hóa mới,
với sự vào cuộc của các cấp/ngành, nhiều hủ
tục lạc hậu đã từng bước bị đẩy lùi ra khỏi
đời sống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn
miền núi; nhiêu net đep văn hoa mang ban săc
̀ ́ ̣
́
̉
́
cua
̉ vung
̀ nuí Tây Băc
́ vân
̃ được tiêp
́ nôí và
phat huy.
́
Mặc dù có xuất phát điểm thấp, khó
khăn hơn nhiều vùng trong cả nước nhưng
vùng Tây Bắc đã có những chuyển biến quan
trọng, bức tranh kinh tế xã hội của các tỉnh
trong vùng đã có những khởi sắc và thành tựu
tích cực và sinh động. Một cuộc sống mới,
tiến bộ, phát triển đang dần hiện hữu ở từng
bản làng vùng cao nơi đây.
(2). Những tồn tại, hạn chế
Sau 30 năm đổi mới, mặc dù đã có những
bước tiến đáng kể về kinh tếxã hội nhưng
các tỉnh vùng Tây Bắc vẫn còn nhiều khó
khăn, yếu kém, đang đối diện với nhiều thách
thức trong thực tiễn phát triển bền vững, như:
kinh tế phát triển chậm, hiệu quả kinh tế còn
thấp và thiếu ổn định; cơ cấu kinh tế chưa có
bước chuyển dịch mang tính đột phá quan
trọng cho sự phát triển nhanh và bền vững của
toàn vùng. Kinh tế khu vực phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng và thế mạnh hiện
có, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, tính
liên kết (trong và ngoài vùng) còn yếu, hiệu
quả chưa cao, các tiềm năng và lợi thế lớn
chậm được khai thác[10]. Nhìn chung, trình độ
phát triển kinh tế Tây Bắc chưa cao, giao
thông khó khăn, hạ tầng còn nhiều hạn chế,
đời sống nhân dân còn khó khăn, mức sống
của người dân vẫn còn khoảng cách lớn với
mức trung bình cả nước (bằng ½ thu nhập
trung bình của người dân cả nước), tỷ lệ hộ
nghèo còn cao (29,5%, cao gấp 2 lần bình quân
cả nước theo tiêu chí mới). Vùng Tây Bắc đến
nay vẫn chưa có khả năng tự cân đối ngân
sách, là vùng nghèo nhất và trình độ phát triển
kém nhất cả nước (vùng Tây Bắc đang thuộc
lõi nghèo của cả nước). Kinh tế ở miền núi,
các dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình
trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn
biến phức tạp. Các chương trình, dự án giảm
nghèo triển khai thực hiện chưa đồng bộ,
thiếu vốn đầu tư, chính sách còn chồng chéo,
bất cập, người nghèo còn tập trung chủ yếu
tại địa bàn vùng cao, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Kết cấu hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa,
vùng căn cứ cách mạng vẫn còn khó khăn, nhiều
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
nơi môi trường sinh thái tiếp tục bị suy thoái.
Vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới có
địa hình rừng núi hiểm trở, kinh tế chậm phát
triển, khoảng cách chênh lệch về mức sống,
về trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa các
dân tộc và các vùng ngày càng gia tăng. Chất
lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp,
tình hình y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng
bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn,
thiếu thốn (tập trung vào một số lĩnh vực,
như: cơ sở hạ tầng còn yếu, nguồn nhân lực y
bác sĩ còn thiếu). “Ở bậc học phổ thông, số
lượng học sinh theo học của vùng Tây Bắc có
gia tăng qua các năm, song hầu hết tập trung
tại bậc tiểu học, số học sinh theo học trung
học cơ sở và trung học phổ thông ít. Học sinh
tiểu học chiếm hơn 50% trong số lượng học
sinh của vùng. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ
thông của các tỉnh Tây Bắc thuộc nhóm thấp
nhất trong cả nước và có xu hướng giảm. Ở
các cấp học cao hơn như đại học, cao đẳng,
trung cấp và dạy nghề, số lượng sinh viên
theo học tại vùng Tây Bắc là rất ít và hầu hết
theo học tại các trường công lập. Đây là thực
trạng chung của các vùng khó khăn và có sự
cách trở về địa lý như Tây Bắc . Nguồn nhân
lực mỏng và ít được đào tạo, còn những
khoảng cách lớn so với các vùng khác trong cả
nước (nhiều tỉnh Tây Bắc xếp vị trí cuối cùng
trong chỉ tiêu về chất lượng lao động so với
các tỉnh khác trong cả nước)[11]8. Đây là một
thách thức lớn đối với các tỉnh vùng Tây Bắc
trong vấn đề đào tạo nghề và nâng cao chất
lượng lao động trong tương lai”. Hệ thống
chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi còn yếu, trình độ và năng lực của
một bộ phận cán bộ cơ sở còn hạn chế, yếu
kém. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, mặt
trận và đoàn thể ở nhiều nơi chưa sát dân, chưa
tập hợp được đồng bào. Tình hình kinh tế xã
hội, an ninh trật tự của khu vực Tây Bắc cũng
8
Sơ bộ đến năm 2014, toàn vùng có 9.894.900 người
trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên, trong số đó có
2.374,550 người đã qua đào tạo, chiếm 24% tổng số lao
động, như vậy còn 76% lực lượng lao động chưa qua
đào tạo [13, tr.23].
58
có những yếu tố phức tạp mới nảy sinh. Một
số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân
tộc thiểu số đang bị mai một, một số tập quán
lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển
và cuộc đấu tranh xóa bỏ tập quán lạc hậu,
xây dựng văn hóa mới vẫn đang tiếp tục. Vấn
đề quản lý các mối quan hệ dân tộc xuyên
biên giới ViệtTrung, trong đó có mối quan hệ
thân tộc cũng đang đặt ra nhiều vấn đề nóng,
liên quan chặt chẽ đến sự ổn định phát triển
xã hội và an ninh biên giới; nhất là việc giải
quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn
không giá thú trong vùng. Do ảnh hưởng của
tập quán nên tình hình di cư tự do của
người H’Mông vẫn còn dai dẳng, việc di dân
theo mùa vụ sang Quảng Tây để tìm kiếm
việc làm và thu nhập của người Tày, Nùng;
quan hệ của người Hà nhì ở Bát Xát (Lào Cai)
với đồng tộc bên kia biên giới...nên số lượt
người qua lại đường biên giới với tần suất
ngày càng gia tăng. Bên cạnh những yếu tố
tích cực như tương trợ giúp nhau tìm việc làm,
thắt chặt mối quan hệ gia đình, họ hàng thì
các mối quan hệ thân tộc cũng tạo ra một
mạng lưới ngầm của các tội phạm phi truyền
thống vùng biên giới (như mua bán, bắt cóc
phụ nữ, trẻ em, lao động vượt biên trái phép,
buôn bán hàng cấm…). Nhiều vấn đề xã hội
cũng đang nảy sinh bởi các cuộc kết hôn
xuyên biên giới như việc quản lý hôn nhân,
vấn đề hỗ trợ pháp lý; vấn đề tội phạm
cưỡng ép, lừa bán người có mục đích hôn
nhân xuyên biên giới. Hiện tượng phụ nữ Việt
Nam kết hôn với đàn ông Trung Quốc hay các
trường hợp kết hôn qua lại ở các vùng biên
giới Việt Trung, ViệtLào khá phổ biến. Tuy
nhiên, hầu hết các cuộc hôn nhân “xuyên biên
giới” không đăng ký với chính quyền địa
phương, nhất là ở vùng biên giới đã dẫn đến
những khó khăn, khó kiểm soát về quản lý xã
hội và tạo ra những bất ổn định về an ninh
trật tự và phát triển xã hội vùng biên giới[9,
tr.5556]. Ngoài ra, tình trạng vượt biên trái
phép tìm việc làm, đi lại thăm thân không thực
hiện các quy định an ninh biên giới, buôn bán,
bắt cóc phụ nữ trẻ em, buôn bán ma túy, buôn
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
59
hàng trốn thuế dựa vào các mối quan hệ đồng
tộc, thân tộc, gia đình có người thân kết hôn ở
bên kia biên giới đang là những vấn đề
nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến an ninh
vùng biên giới, đặc biệt là vùng biên giới
ViệtTrung.
Đặc biệt, một trong những tệ nạn xã hội
điển hình của Tây Bắc là vấn đề trồng cây
thuốc phiện, vấn đề nghiện hút của đồng bào
thiểu số và buôn bán ma tuý đang tồn tại và có
chiều hướng gia tăng, là vấn đề nhức nhối
của khu vực9. Các tỉnh có trồng cây thuốc
phiện có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế,
xã hội và an ninh quốc phòng nhưng sản xuất
và đời sống, cơ sở hạ tầng còn rất thấp kém
và lạc hậu; ở địa bàn đặc biệt khó khăn giao
thông vận tải rất khó khăn, sản xuất nông
nghiệp mang nặng tính chất tự cấp, tự túc10.
Vì vậy, việc xóa bỏ cây thuốc phiện, thay thế
bằng các giống cây trồng, vật nuôi khác được
xem là một trong những biện pháp kiểm soát
hiệu quả nguồn cung, chống thất thoát tiền
chất để sản xuất ma túy tổng hợp; góp phần
phòng chống ma túy và ngăn chặn nguồn cung
ma túy trong nước...Tuy nhiên, với đặc thù địa
bàn cùng với những phong tục tập quán lạc
hậu chưa được xóa bỏ triệt để nên mặc dù
biết được hành vi trồng cây thuốc phiện là vi
phạm pháp luật nhưng một một bộ phận đồng
9
10
Người dân ở đây có tập quán trồng cây thuốc
phiện và hút thuốc phiện từ lâu đời nên đối tượng
nghiện truyền thống nhiều. Hiện nay các tỉnh Tây
Bắc có 29.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, ở
mức cao so với cả nước (chiếm 14,3% , cũng là
nguyên nhân làm tăng lượng cầu về ma túy, gây
mất ổn định về trật tự xã hội; có tỷ lệ người nghiện
trên 100.000 dân cao gấp 10 lần bình quân chung của
cả nước. Theo số liệu gần đây, trong 10 tỉnh có tỷ lệ
người nhiễm HIV cao nhất nước, thì có tới 5 tỉnh
thuộc địa bàn vùng dân tộc và miền núi [12].
Như: Sơn La, Hà Giang, Lai Châu, Hòa Bình, Cao
Bằng, Yên Bái (Mù Cang Chải, Trạm Tấu), Điện Biên
(Mường Ảng), Nghệ An (Tương Dương), Thanh Hóa
(Mường Lát), Lai Châu (Mường Lay, Phong Thổ,
Mường Tè), Hà Giang (Hoàng Su Phì, Sín Mần), Lào Cai
(Bát Xát, Than Uyên, Văn Bàn), Sơn La (Bắc Yên,
Mường La, Thuận Châu, Sông Mã..)... .
bào dân tộc thiểu số (H’Mông, Dao, Hà nhì...)
ở vùng cao hoặc các bản sát biên giới vẫn lén
lút tái trồng và ngày càng mở rộng diện tích
cây thuốc phiện ở các đám nương, rẫy. Chính
quyền các tỉnh miền núi, các xã biên giới đã
tăng cường vận động, đã bỏ không ít công sức
và tiền của cho các đợt ra quân tuyên truyền
bà con các dân tộc không trồng cây anh túc
(thuốc phiện), cương quyết phá, nhổ những
nương rẫy có trồng loài hoa độc này, song tình
hình vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp: diện
tích phát hiện, phá nhổ hàng năm tuy có giảm
nhưng vẫn còn nhiều, diện tích tái trồng cây
thuốc phiện năm sau vẫn cao hơn năm trước,
“cuộc chiến” phá, nhổ cây thuốc phiện vẫn
gian nan.
2. Tình hình tội phạm xuyên quốc gia và
những tác động, ảnh hưởng của yếu tố kinh
tếxã hội ở Tây Bắc
Thời gian qua, tình hình tội phạm xuyên
quốc gia (TPXQG) tại Tây Bắc diễn biến rất
phức tạp và thậm chí nóng bỏng, tiêu biểu là
những loại tội phạm như sau:
(1). Tội phạm ma túy
Nguồn ma túy (gồm heroin, thuốc phiện
và ma túy tổng hợp) chủ yếu từ nước ngoài
nhất là từ khu vực “Tam giác vàng” vào Việt
Nam bằng nhiều con đường khác nhau và khu
vực Tây Bắc được xem là “chảo lửa”, luôn là
điểm nóng về hoạt động buôn bán trái phép
chất ma túy. Đặc biệt, tuyến đường biên giới
ViệtLào nổi lên là một trong những địa bàn
nóng bỏng, phức tạp nhất về hoạt động tội
phạm ma túy. Tại khu vực này, luôn tồn tại
các đường dây lớn buôn bán ma túy xuyên
quốc qua từ Lào vào Việt Nam và tiếp tục
vận chuyển sang các nước thứ ba qua các
tuyến biên giới đường bộ, hàng không hoặc
đường biển [12]11. Các đối tượng phạm tội
11
Một số địa danh nổi tiếng là điểm nóng trên "bản đồ
ma túy" ở phía Bắc thuộc các tỉnh Sơn La, Điện Biên…
Địa bàn trọng điểm phức tạp, điểm nóng nhất về tệ nạn
và tội phạm ma túy trên tuyến, tập trung ở các khu vực,
như: Sông Mã, Mộc Châu, Vân Hồ (các xã Chiềng Xuân,
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
thường cấu kết thành những đường dây mua
bán, vận chuyển ma tuý lớn tổ chức khép kín
do các thành viên trong cùng một gia đình hoặc
dòng tộc (bố mẹ, vợ chồng, con, anh em thân
tộc...) ở hai bên biên giới thực hiện; những
đối tượng khác khi tham gia vào đường dây
đều được thử thách, kiểm tra rất kỹ. Hầu hết
các đường dây ma túy đều có sự móc nối, câu
kết chặt chẽ giữa các đối tượng người nước
ngoài (quốc tịch Lào, Thái, Mỹ, Trung
Quốc...), người dân tộc thiểu số ở khu vực
giáp biên giới và các đối tượng ở các tỉnh dưới
xuôi; có sự phân công, phân cấp rõ ràng, tạo
thành đường dây khép kín mua bán heroin từ
các tỉnh biên giới ViệtLào vào các tỉnh nội
địa. Các băng nhóm tội phạm ma túy thường
chọn địa điểm ở gần biên giới hoặc thường
xuyên qua lại khu vực để hoạt động hoặc
chọn rừng sâu hiểm trở nơi biên giới làm sào
huyệt. Các đối tượng ở bên kia biên giới lợi
dụng các mối quan hệ dân tộc, thân tộc, dòng
họ... tìm cách móc nối với các đối tượng ở nội
biên để vận chuyển ma túy vào Việt Nam tiêu
thụ. Trong số các đối tượng phạm tội ma túy
tại khu vực giáp biên giới ViệtLào, một số
đông người dân tộc thiểu số (người H’Mông,
Tày, Dao...) đóng vai trò là người môi giới,
Loóng Luông), cửa khẩu Loóng Sập, Chiềng Khương
(Sơn La); Tây Trang (Na Ư), Thanh Luông (huyện Điện
Biên Đông, Điện Biên); Mai Châu (các xã Hang Kia, Pà
Cò) Hòa Bình; Na Mèo, Mường Lát (Thanh Hóa); cửa
khẩu Thanh Thủy (Thanh Chương), Nậm Cắn ( Kỳ Sơn),
Tương Dương, Quế Phong (Nghệ An)…là nơi trung
chuyển ma túy từ Lào sang Việt Nam, nhưng địa danh
này từng được gọi là “thánh địa” “thủ phủ”, “vùng
trắng”, “rốn ma túy”, “thung lũng tử thần” của ma túy,
thuốc phiện; tồn tại nhiều đường dây ma túy lớn móc
nối với người Lào vận chuyển ma túy từ Lào vào Việt
Nam tiêu thụ. Các chất ma túy (chủ yếu là heroin và ma
túy tổng hợp) được mua bán, vận chuyển và tập kết tại
các khu vực sát biên giới thuộc các huyện biên giới các
tỉnh Phông Xa Lỳ, Luông Pha Băng, Hủa Phăn, Xiêng
Khoảng, Bô Ly Khăm Xay giáp với các tỉnh Điện Biên,
Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An; đặc biệt trong đó có 5
huyện của 2 tỉnh Hủa Phăn, Luông Pha Băng giáp với
tỉnh Sơn La là: Pắc Xèng, Viêng Thoong, Xiềng Khọ,
Mường Ét, Sốp Bâu về tình hình mua bán, vận chuyển
ma túy qua biên giới rất phức tạp nóng bỏng, khó lường.
60
cảnh giới, vận chuyển, đầu mối tập kết ma
túy tại khu vực biên giới; đưa đường dẫn lối
cho các đối tượng người Lào xâm nhập qua
biên giới hoặc đứng ra làm làm đại lý nhằm
cung cấp ma túy cho người nghiện tại địa bàn.
Các đối tượng Lào móc nối với người Việt
Nam, tổ chức thành các nhóm, tốp có trang bị
vũ khí nóng, vận chuyển ma túy từ Lào và tập
kết ở các khu vực biên giới Việt Nam.
Thủ đoạn mua bán, vận chuyển ma tuý
của các đối tượng rất tinh vi, lọc lõi, xảo
quyệt và cực kỳ manh động. Chúng triệt để
khai thác sự thông thương tại các cửa khẩu
cũng như việc qua lại thuận tiện giữa hai
nước qua các đường mòn tiểu ngạch để vận
chuyển ma túy từ Lào vào Việt Nam. Nhiều
trường hợp, các đối tượng phạm tội không đi
qua cửa khẩu chính mà lợi dụng địa hình đồi
núi hiểm trở, đặc biệt là các đường mòn tiểu
ngạch tuyến biên giới đường bộ để mua bán,
vận chuyển và tập kết ma túy tại các khu vực
sát biên giới, móc nối với các đối tượng ở nội
địa để tuồn hàng vào nội địa Việt Nam tiêu
thụ với số lượng lớn hay vận chuyển “hàng”
đến các vùng phụ cận để cất giấu, bán lẻ.
Các đối tượng phạm tội cũng tìm mọi cách để
vô hiệu hóa vai trò của lực lượng chức năng ở
cơ sở, hoặc lôi kéo cán bộ cơ sở (xã, bản)
tham gia mua bán, vận chuyển ma túy. Ma túy
là thứ hàng "siêu lợi nhuận" nên các đối tượng
cực kỳ liều lĩnh khi bị tấn công, sẵn sàng
chống trả lực lượng chức năng khi bị phát
hiện, bắt giữ, giải cứu đồng bọn hoặc tự sát
để bịt đầu mối.
(2). Tội buôn người
Những năm qua, tình hình mua bán người
qua biên giới diễn ra rất phức tạp, xảy ra ở
vùng Tây Bắc và hầu hết trên các địa phương
trong cả nước12. Ở vùng biên giới Việt
Trung, bọn tội phạm đã tổ chức nhiều đường
12
Theo thống kê, tình hình tội phạm mua bán người ở
Việt Nam chủ yếu để đưa ra nước ngoài bán chiếm
85%, trong đó sang Trung Quốc chiếm phần lớn (70%),
còn lại là sang các nước Lào, Campuchia, Malaysia, Thái
Lan.
61
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
dây mua bán người, đưa phụ nữ, trẻ em từ các
tỉnh phía Bắc lừa bán sang Trung Quốc. Ở
nhiều địa phương (Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An...)
đã hình thành các đường dây chiếm đoạt, bắt
cóc lừa bán phụ nữ, trẻ em, mua bán trẻ sơ
sinh, trẻ trong bào thai, mua bán đàn ông... để
đưa người sang Trung Quốc để bán nội tạng,
đẻ thuê hoặc cưỡng bức lao động. Do nắm
bắt được nhu cầu của một bộ phận nam giới
ở nước ngoài có nhu cầu kết hôn, một số đối
tượng tội phạm (người Việt Nam, Trung
Quốc) lợi dụng các cuộc hôn nhân xuyên biên
giới để buôn bán phụ nữ và trẻ em gái (có
hoàn cảnh kinh tế, gia đình khó khăn), thực
hiện các hành vi cưỡng ép, lừa bán các cô gái
bán dâm hoặc làm vợ bất hợp pháp[8, 99].
Một số người do khó khăn về kinh tế đã móc
nối với bên kia để đưa con, cháu, thậm chí cả
vợ sang Trung Quốc. Vì lợi nhuận bất chính
nên nhiều người sau khi sang lấy chồng ở
Trung Quốc đã trở về địa phương dụ dỗ, lợi
dụng những người quen biết, người thân trong
gia đình, dòng tộc để vận chuyển, phụ nữ và
trẻ em gái qua đường biên giới để bán cho các
gia đình Trung Quốc lấy làm vợ. Nguy hiểm
hơn, ở một số nơi miền núi, giáp biên giới,
dân cư thưa thớt, đối tượng còn đột nhập vào
nhà dân chiếm đoạt, bắt cóc trẻ em, phụ nữ
đưa sang Trung Quốc bán[14].
hàng mở tài khoản thẻ tín dụng, sau đó bàn
giao thẻ và toàn bộ thông tin tài khoản cho các
đối tượng (mỗi thẻ tín dụng được bán với giá
từ 12 triệu đồng/thẻ). Khi có nạn nhân
chuyển tiền, các đối tượng sử dụng thẻ tín
dụng mua được trực tiếp đi rút tiền. Gần đây,
các đối tượng tội phạm đã thay đổi thủ đoạn
lừa đảo bằng cách thuê một số người Việt
(chủ yếu là người dân tộc thiểu số sống ở
khu vực biên giới) mở tài khoản cá nhân để
các bị hại chuyển tiền vào rồi chiếm đoạt.
Mỗi khi có nạn nhân chuyển tiền vào tài
khoản, các đối tượng chủ mưu thuê người
Trung Quốc sang Việt Nam qua đường tiểu
ngạch, “ốp” chủ tài khoản người Việt Nam ra
ngân hàng làm thủ tục rút tiền rồi nhanh chóng
mang về nước hoặc thuê người Việt Nam làm
ăn, buôn bán tại khu vực biên giới đi nhận
tiền rồi mang sang Trung Quốc cho chúng
hoặc hẹn chủ tài khoản mang tiền đến các
khu vực giáp ranh biên giới 2 nước để giao
nhận (tiền công mà các chủ tài khoản nhận
được khoảng 1% trên tổng số tiền của các
nạn nhân chuyển vào). Ngoài ra, bọn tội phạm
còn sử dụng những thủ đoạn khác như: giả
danh các cơ quan pháp luật gọi điện thoại đe
dọa, lừa đảo người dân chuyển tiền vào tài
khoản để lừa đảo, chiếm đoạt tiền của
(3). Tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài
sản
chiếm đoạt tiền…
Thời gian qua, một số đối tượng người
nước ngoài (người Trung Quốc) thực hiện
hành vi lừa đảo với hàng loạt chiêu thức, thủ
đoạn (như: gọi điện thoại giả danh, kết bạn
qua mạng xã hội rồi lừa đảo, giả chương
trình khuyến mãi nạp thẻ,…) để chiếm đoạt
tài sản (tiền) của bị hại là người Việt Nam.
Để có tài khoản ép buộc nạn nhân chuyển
tiền vào, các đối tượng chủ mưu thường thuê
những người lao động (“cửu vạn”) ở khu vực
biên giới về các vùng quê (nơi người dân ít
giao dịch với ngân hàng) để mua thông tin thẻ
tín dụng bằng cách hướng dẫn họ tới ngân
người bị hại; hoặc tung thông tin giả
nhằm lừa gạt một số người nhẹ dạ để
(4). Tội sản xuất, buôn bán tiền giả; buôn
lậu, gian lận thương mại, sản xuất và vận
chuyển hàng giả
Tội sản xuất, buôn bán tiền giả, hàng
giả: gồm các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành các loại tiền Việt Nam giả,
ngoại tệ giả, thẻ tín dụng giả, ngân phiếu
giả, công trái giả, séc giả và các giấy tờ có giá
giả khác diễn biến rất phức tạp và có chiều
hướng gia tăng. Nguồn tiền Việt Nam giả chủ
yếu được đưa vào trong nước từ các đường
dây tiêu thụ tiền giả có nguồn gốc từ Trung
Quốc, Đài Loan và Lào, xâm nhập vào Việt
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
Nam qua các cửa khẩu biên giới (chủ yếu là
Lạng Sơn). Tội phạm là người trong nước
thường mua tiền giả ở khu vực biên giới, sau
đó đưa vào nội địa tiêu thụ; nguồn ngoại tệ
giả chủ yếu do các đối tượng người nước
ngoài mang vào Việt Nam tiêu thụ (ngoài ra,
một số đối tượng người nước ngoài còn sử
dụng séc, thẻ tín dụng giả vào Việt Nam để
rút tiền)13. Các đối tượng người Trung Quốc
thường móc nối với đối tượng người Việt
Nam ở khu vực biên giới để tạo đường dây
vận chuyển, lưu hành tiền giả, sử dụng tiền
giả đi mua bán hàng hóa hoặc đánh bạc để đổi
lấy tiền thật. Các đối tượng mua bán, vận
chuyển tiền giả cũng mua tiền giả của nhiều
đối tượng người Trung Quốc khác nhau, là
người không quen biết, không biết tên và địa
chỉ, giao dịch và nhận “hàng” qua các đối
tượng khác nhau14. Lợi dụng các đường mòn,
13
Hầu hết tiền giả được các đối tượng tiêu thụ ở vùng
sâu, vùng xa bằng hình thức mua bán nông sản. Nạn
nhân chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú
dọc biên giới, thiếu sự hiểu biết để phân biệt giữa tiền
giả và tiền thật. Tại đây, người dân do ít giao dịch và
thiếu công cụ nhận biết nên rất dễ bị lừa. Họ chỉ biết là
tiền giả sau khi đi mua hàng hóa ở khu vực trung tâm
hoặc gửi tiền ở ngân hàng. Một thủ đoạn hoạt động khá
phổ biến mà các đối tượng thường áp dụng là lợi dụng
trời tối, nơi thiếu ánh sáng, chỗ vắng người ở nông thôn,
thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa để lừa gạt tiêu thụ
tiền giả; dùng tiền giả mệnh giá cao mua hàng có giá trị
thấp để được trả lại bằng tiền thật hoăc kẹp lẫn tiền
giả vào tiền thật (một số đối tượng ở các tỉnh nội địa
lên làm ăn buôn bán ở khu vực biên giới mua hàng hóa
của đồng bào khi thanh toán đan xen giữa tiền thật và
tiền giả để che mắt bà con).
14
Để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng, các
đối tượng làm tiền giả có nhiều thủ đoạn đối phó rất
tinh vi và thường không trực tiếp thực hiện tội phạm.
Chúng mua bán, giao nhận tiền giả theo phương thức
một người với một người, chủ yếu sử dụng điện thoại
di động để liên lạc, hạn chế gặp mặt nên không biết
nhau. Những đặc điểm này càng gây khó khăn cho công
tác truy bắt đối tượng làm tiền giả, nhất là khi chúng ở
ngoài lãnh thổ Việt Nam. Được xem là "hàng hóa" siêu
lợi nhuận, giá mua tiền giả tại khu vực giáp biên giới
Trung Quốc (Lũng Vài, Lũng Nghịu) khoảng từ 15 30%
giá trị tiền thật, mua ở phía sâu trong nội địa Trung Quốc
62
lối tắt trên biên giới, bọn tội phạm thường
xuyên vận chuyển, mua bán tiền Việt Nam
giả từ Trung Quốc rồi vận chuyển về Việt
Nam (thậm chí chúng chuyển thẳng qua biên
giới ViệtLào để về Nghệ An) tiêu thụ với
rất nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm che giấu
hành vi vi phạm pháp luật. Do nhận thức
được hành vi phạm tội và sợ bị phát hiện, bắt
giữ nên các đối tượng thường lôi kéo người
thân vào đường dây tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành tiền giả. Đặc biệt, vào những thời điểm
cuối năm và Tết Nguyên đán, hoạt động của
các đối tượng sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ
các loại tiền giả (tiền Việt Nam, ngoại tệ
giả) ở khu vực Tây Bắc càng phức tạp hơn và
có chiều hướng gia tăng. Tại đây, chúng bán
lại cho một số đối tượng để “xé nhỏ”, tiêu
thụ ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền
núi dân tộc (nơi có trình độ dân trí thấp).
Tội buôn lậu, gian lận thương mại: Với
lợi thế địa lý có chung đường biên giới trên bộ
dài đến hàng ngàn km, hệ thống giao thông
đường sắt, đường bộ, đường thủy tương đối
thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa, hạ giá
thành sản phẩm, hoạt động buôn bán qua biên
giới giữa hai nước Việt Trung ngày càng
phát triển và gắn bó khăng khít. Hình thức tiểu
ngạch lại phát huy ưu điểm khi vận chuyển
những mặt hàng nhỏ, số lượng ít và bằng
đường bộ15. Trên tuyến đường bộ, đã nổi lên
tình trạng buôn lậu hàng Trung Quốc nhập
lậu, vận chuyển pháo lậu qua các đường mòn,
lối mở ở các tỉnh biên giới (Lạng Sơn, Cao
Bằng, Quảng Ninh) vận chuyển về tập kết
tại các chợ lớn ở Hà Nội để đưa đi tiêu thụ
tại các tỉnh phía Bắc và cả nước. Các đối
tượng buôn lậu, gian lận thương mại chủ yếu
vận chuyển hàng hóa (chủ yếu là hàng tiêu
từ 1015%.
15
Các đối tượng buôn lậu, gian lận thương mại chủ
yếu vận chuyển hàng hóa, nhất là hàng tiêu dùng của các
nước vào Việt Nam tiêu thụ và vận chuyển xăng dầu,
lâm thổ sản quý, hiếm từ Việt Nam ra nước ngoài; lợi
dụng những "kẽ hở" của pháp luật, những hạn chế trong
công tác quản lý, kiểm soát để trốn thuế.
63
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
dùng của các nước) vào Việt Nam tiêu thụ và
vận chuyển xăng dầu, lâm thổ sản quý hiếm
từ Việt Nam ra nước ngoài. Hàng năm, c àng
gần Tết Nguyên đán, tình hình buôn lậu, gian
lận thương mại trên tuyến biên giới các tỉnh
khu vực Tây Bắc càng gia tăng số vụ và số
lượng hàng. Các đối tượng buôn lậu thường
dùng mọi thủ đoạn xé lẻ hàng hóa, vận
chuyển qua đường mòn, lối tắt đưa hàng vào
nội địa, rồi làm giả giấy tờ, con dấu, nhãn
mác, mua hóa đơn nhằm hợp pháp hóa hàng
lậu, đưa ra thị trường tiêu thụ…Hoạt động
của tội phạm buôn lậu ngày càng tinh vi, xảo
quyệt, đặc biệt là trên các các tuyến, địa bàn
trọng điểm, nhất là tuyến biên giới, tuyến
đường bộ và trong lĩnh vực xuất nhập khẩu,
kho ngoại quan, tạm nhậptái xuất...16. Trên
tuyến đường bộ, đã nổi lên tình trạng buôn
lậu hàng Trung Quốc nhập lậu, vận chuyển
pháo lậu qua các đường mòn, lối mở ở các
tỉnh biên giới (Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng
Ninh) vận chuyển về tập kết tại các chợ lớn
ở Hà Nội để đưa đi tiêu thụ tại các tỉnh phía
Bắc và các tỉnh phía Nam (bằng đường bộ,
đường sắt, đường hàng không).
(5). Tội phạm do người Việt Nam ở nước
ngoài gây ra rồi trốn về Việt Nam hoặc tội
phạm do người Việt Nam gây ra ở trong nước
rồi trốn ra nước ngoài
Tội phạm do người Việt Nam ở nước
ngoài gây ra rồi trốn về Việt Nam hoặc do
người Việt Nam gây ra ở trong nước rồi trốn
ra nước ngoài: Trong những năm qua, xuất
hiện nhiều băng nhóm tội phạm người Việt
Nam ở nước ngoài (Trung Quốc, Lào) tổ chức
các hoạt động buôn lậu (ma túy, vũ khí...), lừa
đảo, bắt cóc tống tiền, giết người cướp tài
sản, rửa tiền, buôn bán phụ nữ, trẻ
em...Nhiều đối tượng tội phạm người Việt
16
Do nhiều quy định của pháp luật còn bất cập, dẫn
đến việc phát hiện, điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ
về hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới gặp nhiều khó khăn, nhất là chứng minh yếu tố
qua biên giới của tội buôn lậu và tội vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới.
nước ngoài câu kết với bọn tội phạm trong
nước tiến hành các hoạt động buôn lậu,
chuyển tiền bất hợp pháp, bắt cóc, đòi nợ
thuê, hình thành các đường dây buôn lậu, buôn
người...Hầu hết các băng nhóm tội phạm
người Việt ở nước ngoài đều câu kết với các
băng nhóm tội phạm ở Việt Nam và các nước
khác để tiến hành các hoạt động phạm tội
xuyên quốc gia. Đồng thời, một số đối tượng
tội phạm trong nước cũng tìm cách trốn ra
nước ngoài để trốn tránh pháp luật: một số
đối tượng phạm tội buôn bán phụ nữ, trẻ em,
đánh bạc...thường lẩn trốn tại các khu vực
giáp biên giới hoặc trốn sang Trung Quốc;
một số đối tượng phạm tội ma túy (nhất là
các đối tượng chủ mưu) thường bỏ trốn sang
Lào để tiếp tục chỉ đạo hoạt động buôn lậu
ma túy ở trong nước17.
Tóm lại: Do tác động ảnh hưởng của tình
hình TPXQG trên thế giới, khu Đông Nam Á
và tình hình kinh tếxã hội trên địa bàn, tình
hình TPXQG tại khu vực Tây Bắc trong thời
gian qua diễn biến hết sức phức tạp và có
chiều hướng gia tăng về số vụ việc, đối
tượng lẫn tính chất, thủ đoạn, phạm vi và địa
bàn hoạt động. Do đặc thù về địa lý, các tỉnh
Tây Bắc chịu tác động trực tiếp của tình hình
tệ nạn ma tuý, buôn người của các nước trong
khu vực và đang có chiều hướng gia tăng và
diễn biến phức tạp18. Đặc biệt, tình hình tội
17
Cũng có một số đối tượng bị khởi tố hoặc truy nã về
hành vi phạm tội hình sự đã qua các cửa khẩu đường bộ
hoặc các đường tiểu ngạch lẩn trốn ở khu vực giáp biên
Trung Quốc hoặc Lào, sau đó làm giấy tờ giả để trốn
sang nước khác hoặc móc nối hình thành các đường dây
đưa ma túy về Việt Nam tiêu thụ hoặc tiếp tục vận
chuyển đi nước thứ ba.
18
Do đặc thù về địa lý, các tỉnh Tây Bắc chịu tác động
trực tiếp của tình hình tệ nạn ma tuý các nước trong khu
vực, hoạt động của tội phạm ma túy diễn ra phức tạp
theo cả hai chiều: 1/ Phần lớn thuốc tân dược gây
nghiện, ma túy tổng hợp (dạng viên, dạng “đá”, ketamin)
được mua bán, vận chuyển chủ yếu từ Trung Quốc, khu
vực “Tam giác vàng” (qua Lào, Campuchia) và các nước
Tây Phi vào Việt Nam qua các tuyến biên giới đường bộ,
nhiều nhất là qua các cửa khẩu, đường tiểu ngạch thuộc
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
phạm ma túy (nhất là tội phạm ma túy có tổ
chức, sử dụng vũ khí “nóng”) trên tuyến Tây
Bắc được đánh giá là phức tạp nhất cả nước
cả về quy mô lẫn tính chất nguy hiểm và xu
hướng phức tạp gia tăng. Để đạt được lợi
nhuận bất hợp pháp, các đối tượng tội phạm
trong, ngoài biên giới đã móc nối, câu kết giữa
người nước ngoài với các đối tượng người
dân tộc thiểu số ở khu vực giáp biên giới và
đối tượng ở các tỉnh ở miền xuôi thiết lập các
đường dây TPXQG với thủ đoạn tinh vi, liều
lĩnh. TPXQG đã lợi dụng triệt để điều kiện
địa hình khu vực Tây Bắc cực kỳ phức tạp,
hiểm trở, rừng sâu, bị chia cắt bởi núi cao,
sông suối, hang động, vùng sâu, vùng xa dân
cư sống thưa thớt và hẻo lánh, giao thông hạn
chế, xa trung tâm đô thị, khí hậu khắc nghiệt
của các địa phương biên giới giữa Việt Nam
với Trung Quốc, Lào. Địa bàn Tây Bắc với
đường biên giới dài và các cửa khẩu thông
thương quốc tế, hệ thống lối mòn tiểu ngạch
biên giới và địa bàn cư trú phức tạp, giao thông
khó khăn là điều kiện thuận lợi trong phát
triển kinh tế và giao lưu văn hóa, khó khăn
trong việc tuần tra, kiểm soát điều tra truy bắt
tội phạm của các lực lượng chức năng trên
tuyến biên giới nhưng cũng là cơ hội thuận
lợi, “đất vàng” cho tội phạm hoạt động. Các
thế lực tội phạm thường lợi dụng sự quen
biết hoặc thiếu hiểu biết pháp luật, hoàn
cảnh khóa khăn, sự nhẹ dạ và lòng tham của
một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số sống
cạnh biên giới cùng với những "kẽ hở" của
pháp luật, những hạn chế trong công tác quản
lý, kiểm soát của cơ quan chức năng; triệt để
khai thác sự thông thương tại các cửa khẩu,
việc qua lại thuận tiện giữa hai nước thông
qua các đường mòn, đường tiểu ngạch để
móc nối qua lại, vận chuyển ma túy, đưa
người hàng và tiền tệ (là những đối tượng và
tang vật phạm tội) qua biên giới. Do đặc điểm
các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Sơn La, Nghệ
An, Thanh Hóa,..2/ Hêrôin, thuốc phiện được vận
chuyển từ khu vực biên giới ViệtLào qua các tỉnh vùng
Tây Bắc và các tỉnh nội địa đưa lên biên giới để sang
Trung Quốc.
64
cư trú ở hai vùng biên giới là có khá nhiều
đồng tộc của các dân tộc cư trú sát vùng biên,
bọn tội phạm đã lợi dụng những phong tục
tập quán, văn hóa tộc người và các mối quan
hệ thân tộc để tổ chức mạng lưới vận
chuyển, buôn bán ma túy, hàng hóa, đưa người
ra nước ngoài với mục đích thu lợi nhuận bất
hợp pháp. Các mắt xích của đường dây đều là
những người trong dòng tộc nên mức gắn kết
rất chặt chẽ, khó phát hiện. “Thuộc tính lịch
sử” của các “dân tộc vùng biên cương” với
tập quán sinh hoạt văn hóa lạc hậu, quan hệ
đồng tộc, dòng họ mối quan hệ xuyên biên
giới, trình độ dân trí thấp, cuộc sống khó khăn
và lạc hậu của một bộ phận đồng bào dân tộc
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa biên giới;
chính sách mở hội nhập quốc tế và tình hình
giao lưu phát triển kinh tế của khu vực biên
giới cửa khẩu cũng được tội phạm khai thác
để thực hiện các hành vi phạm tội . Tội phạm
xuyên quốc gia ở Tây Bắc thể hiện đầy đủ
và đậm nét đặc điểm “biên giới” với các
hành vi liên quan đến chất ma túy; buôn bán
người; lừa đảo, chiếm đoạt tài sản; sản xuất,
buôn bán tiền giả, buôn lậu, gian lận thương
mại, trốn thuế xuất nhập khẩu, sản xuất và
vận chuyển hàng giả....Địa bàn biên giới trở
thành những điểm “tập kết”, “giao hàng” của
những mạng lưới buôn bán ma túy, buôn
người, buôn lậu hàng hóa với nhiều thủ đoạn
với ngày càng tinh vi, lọc lõi và khó kiểm soát
để thực hiện hành vi phạm tội hoặc che giấu,
trốn tránh pháp luật, gây khó khăn công tác
truy bắt đối tượng. Sự phát sinh, phát triển
của các loại TPXQG nói chung, tội phạm ma
tuý nói riêng ở khu vực Tây Bắc đã gây tác hại
đặc biệt nghiêm trọng tới mọi mặt của đời
sống, thực sự một hiểm họa đối với sự phát
triển của vùng và đất nước; gây rối loạn thị
trường, làm thiệt hại lớn về kinh tế xã hội
và ảnh hưởng xấu đến sự ổn định an ninh,
trật tự trên địa bàn; trực tiếp xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người mà đối tượng tác động chủ yếu là một
bộ phận nhân dân ở khu vực miền núi, vùng
biên cương đời sống còn khó khăn và lạc hậu,
65
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, nghiên cứu những
tác động, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế
xã hội đến việc phát sinh và phát triển của
TPXQG vùng Tây Bắc góp phần nhận diện
đầy đủ thực trạng, đặc điểm, yêu cầu, khó
khăn và thách thức trong công tác đấu tranh
phòng chống loại tội phạm nguy hiểm này
trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và
cả nước nói chung.
Tài liệu tham khảo
[1] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Giáo
dục, 2009.
[2] Thực trạng phát triển kinh tếxã hội 14 tỉnh vùng
Tây Bắc (Báo cáo trích xuất từ Báo cáo Tổng
hợp đề tài “Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ
sở dữ liệu liên ngành phục vụ phát triển bền
vững vùng Tây Bắc, mã số KHCNTB.01C/13
18 thuộc Chương trình Tây Bắc).
[3] Nguyễn Thị Thanh Nga, Một số vấn đề cơ bản
của các dân tộc vùng Tây Bắc,
/>doi/thongtintulieu/1460ddd.html
[4] Vấn đề biên giới tiếp giáp giữa Tây Bắc Việt
Nam và Trung Quốc
/>doi/tulieu/1549ddd.html
[5] Tổng quan về biên giới trên đất liền Việt Nam
Trung Quốc
/>phong/duongbienmocgioi/234dbmg14.html
[6] Tổng quan chung về đường biên giới Việt Nam
Lào
[7] Đỗ Quang Hưng, Tôn giáo, tín ngưỡng trong các
dân tộc thiểu số dọc biên giới Việt Nam Trung
Quốc
/>nguongtongiao/1286dd.html
[8] Đặng Thị Hoa, Đậu Tuấn Nam, Quan hệ thân
tộc vùng biên giới Việt Nam Trung Quốc, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(105)/2016.
[9] Đặng Thị Hoa, Nguyễn Hà Đông, Hôn nhân
xuyên biên giới ở các tỉnh miền núi Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã gội Việt Nam,
số 8(93)/2015].
[10] Ban Chỉ đạo Tây Bắc sơ kết công tác 6 tháng
đầu năm,
/>bacsoketcongtac6thangdaunam3730
[11] Thực trạng nguồn nhân lực Tây Bắc và những
vấn đề đặt ra cho sự phát triển bền vững, Tạp
chí Lý luận chính trị số 52015.
[12] Tây Bắc: Địa bàn nóng về tội phạm ma túy
/>bannongvetoiphammatuy/20314.vgp
[13] Thực trạng phát triển kinh tếxã hội 14 tỉnh
Vùng Tây Bắc (Báo cáo trích xuất từ Báo cáo
Tổng hợp đề tài “Nghiên cứu, xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu liên ngành phục vụ phát
triển bền vững vùng Tây Bắc,
mã số KHCNTB.01C/1318 thuộc Chương
trình Tây Bắc).
[14] Tội phạm mua bán người vẫn gia tăng
/>phammuabannguoivangiatang380919/
The Influences of Socialeconomic Factors to the Occurance
and Development of Transnational Crimes in the Northwest
Do Duc Minh
VNU Inspection and Legislation Department, Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract: Northwest has the geopolitical position is extremely important, closely related to the
existence and prosperity of the country. Research the impacts, the effect of economic factors social to
the incurring and development of transnational type of crime in the Northwest region contributed
identify, clarify the characteristics, requirements, advantages and challenges in the fight against them
on strategic areas in particular Northwest and the country generally.
Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣ 33, Sô ́1 (2017) 5065
Keywords: Northwest, Drugs, Transnational Crime.
66