Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Bài giảng Môn pháp luật Bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.3 MB, 81 trang )

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM – PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
I. Khái niệm chung về bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm 
1/ Những vấn đề chung về bảo hiểm.
­ Bảo hiểm là gì ? Theo cách hiểu thông thường bảo hiểm là sự bảo vệ hay bảo đảm an toàn  
cho con người và cho xã hội trước hiểm hoạ, biến cố bất ngờ gây ra; 
­ Vì sao phải có bảo hiểm? “Rủi ro là cơ sở của hoạt động bảo hiểm, là nguồn gốc phát sinh 
các hoạt động bảo hiểm”.
­Tại sao trong xã hội hiện đại, bảo hiểm càng được mọi người quan tâm và loại hình bảo  
hiểm càng phát triển ? 
Trong cuộc sống mỗi con người, gia đình và xã hội từ  xưa đến nay cũng luôn phải đối mặt  
với yếu tố không thuận lợi, ngoài ý muốn đó là hiểm hoạ, rủi ro. Nguyên nhân gây ra những rủi ro 
là yếu tố tự nhiên, kỹ thuật và yếu tố xã hội khác. 
Suốt trong lịch sử của mình, loài người đã phải chịu đựng và chứng kiến biết bao hiểm hoạ,  
nào là động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán, sóng thần, dịch bệnh, chiến tranh, tai nạn giao thông, hoả 
hoạn, phóng xạ, ô nhiễm... Rủi ro, hiểm hoạ xảy ra thường bất ngờ không biết trước về thời gian, 
địa điểm, quy mô, mức độ thiệt hại. 
Trong xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển nhưng không thể loại trừ yếu tố bất lợi  
có tính khách quan đó. Dù muốn hay không, nhiều hiểm hoạ rủi ro đã, đang và sẽ còn xuất hiện chi 
phối đến cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, DN và toàn xã hội. Chính sự tồn tại của rủi ro là  
nguồn gốc phát sinh tồn tại của bảo hiểm). 
Đứng trước thực trạng đó, con người luôn có những hành động tích cực, chủ động bằng tất 
cả  khả  năng của mình để  ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục nhằm giảm tới mức thấp nhất những  
thiệt hại về người và của để sớm phục hồi lại quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống. 
  Các biện pháp phổ biến được con người sử dụng là:
­Biện pháp phòng ngừa: là biện pháp do con người sử  dụng do nhận thức được quy luật  
của tự nhiên như  đắp đê chống lũ, trồng rừng phòng hộ, xây dựng các trạm phòng cháy, xây dựng  
hệ thống dự báo thời tiết, hệ thống biển báo an toàn giao thông … 
­Biện pháp cứu trợ: biện pháp này được thực hiện khi đã có rủi ro xảy ra để  khắc phục 
hậu quả của rủi ro. Biện pháp này có thể do chính quyền nhà nước thực hiện hoặc do các tổ chức,  
cá nhân thực hiện trên tinh thần nhân đạo và mang tính tự  nguyện nhằm giúp đỡ  các tổ  chức, cá 


nhân gặp rủi ro khắc phục các hậu quả.

1


 ­Biện pháp dự trữ ­ bảo hiểm:  đây là biện pháp được con người áp dụng từ xa xưa khi con  
người chưa biết đến bảo hiểm nhưng họ đã có ý thức được việc làm cần thiết để bảo đảm cho sự 
sinh tồn như: dự trữ lương thực, vật nuôi trong ngày săn bắn được nhiều để  dùng cho những ngày 
mưa rét không đi săn bắn và hái lượm được. Đó là là những dấu hiệu đầu tiên về  hoạt động bảo  
hiểm mang tính chất tự bảo hiểm. 
Bảo hiểm thực chất là việc con người phải dành ra một phần sản phẩm hay thu nhập trong  
kết quả lao động hàng năm của mình để lập ra quỹ dự trữ đủ lớn về vật tư  hoặc bằng tiền (quỹ  
đó gọi là quỹ dự trữ bảo hiểm ) nhằm :
1/­Hỗ trợ tài chính cho việc đề phòng và hạn chế tổn thất khi hiểm hoạ chưa hoặc đang xảy  
ra. 
2/­Bù đắp và bồi thường kịp thời những thiệt hại và tổn thất về  người và tài sản, sau khi  
xảy ra hiểm hoạ. 
Có 3 loại quỹ được thành lập và chi dùng cho mục đích nêu trên là :
­Quỹ  dự  trữ  nhà nước được lập ra từ  ngân sách nhà nước (quỹ  dự  phòng trong ngân sách, 
quỹ dự trữ quốc gia, quỹ dự trữ tài chính ). Quỹ này thuộc sở  hữu nhà nước do nhà nước quản lý, 
nó được sử dụng để bù đắp những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra trên diện rộng, quy  
mô lớn,  quỹ  này không được sử  dựng khi rủi ro thiệt hại mang tính cá biệt. Do đó nó không đáp  
ứng đầy đủ các nhu cầu của từng tổ chức, gia đình, cá nhân. 
­Quỹ dự phòng riêng của từng tổ chức, cá nhân, gia đình: (Quỹ dự trữ phân tán) Quỹ này do 
các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân tự lập ra bằng thu nhập của mình, họ tự quản lý, sử dụng nên, 
đáp ứng kịp thời, nhanh chóng chủ động đối với những tổn thất vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do quy mô 
quỹ  không lớn, không thể  bù đắp cho những tổn thất lớn, không phát huy được tính cộng đồng  
tương trợ, nó chỉ đóng khung trong từng đơn vị, không cơ  động, có thể  dẫn đến tình trạng ứ đọng  
vốn, lãng phí vốn, hiệu quả kinh tế không cao. 
­Quỹ  bảo hiểm tập trung mang tính cộng đồng : Quỹ  này được lập bằng tiền do đông đảo 

những tổ  chức, cá nhân có cùng khả  năng gặp những biến cố  nào đó đóng góp, tạo lập quỹ  theo  
một chế độ  thống nhất và bình đẳng. Nó được sử  dụng để  phòng ngừa và bù đắp những tổn thất  
cho người  tham gia lập quỹ khi có sự kiện bảo hiểm xuất hiện. Chủ thể đứng ra tổ chức lập, quản  
quỹ bảo hiểm có thể là cơ quan nhà nước hay một tổ chức, doanh nghiệp  họ thực hiện công việc  
này có thể không vì mục tiêu lợi nhuận hoặc hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng chúng giống  
nhau ở chỗ: 

2


Phương thức tạo lập và sử dụng quỹ này trên nguyên tắc “ lấy số đông bù cho số ít hay cộng  
đồng hoá trách nhiệm, hay phân tán chia nhỏ rủi ro cho nhiều người cùng gánh chịu ” nên nó mang 
tính kinh tế, tính xã hội cao. 
Đối với mỗi cá nhân hàng năm chỉ  phải chi ra một lượng tiền nhỏ để  đóng phí bảo hiểm,  
không ảnh hưởng đến đời sống của mình. Đối với các DN thì phí bảo hiểm là một chi phí xã hội  
cần thiết nó được hạch toán vào giá thành sản phẩm. 
Hình thức dự trữ bảo hiểm này sẽ đáp ứng một cách đầy đủ, linh hoạt nhất đối với mọi nhu 
cầu đa dạng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Nó có khả  năng thanh toán nhanh, bù đắp  
lớn giúp cho người tham gia bảo hiểm khắc phục nhanh chóng những thiệt hại, đảm bảo cho quá  
trình sản xuất và đời sống phát triển bình thường
 Dưới góc độ kinh tế tài chính thì bảo hiểm đó là sự bảo đảm về mặt tài chính khi gặp phải  
những thiệt hại, mất mát  do biến cố rủi ro gây ra cho các chủ thể tham gia lập quỹ baỏ hiểm. 
 Cùng với sự phát triển của xã hội loài người thì nhu cầu bảo đảm ổn định sản xuất và đời 
sống ngày càng cao ­ các loại bảo hiểm khác nhau đã ra đời để đáp ứng nhu cầu đó.  
Người ta ví “không có bảo hiểm như  đi trên cầu thang không có tay vịn”. Bảo hiểm là một  
yếu tố, một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức và không chỉ đơn thuần 
làm lá chắn bảo vệ cho đối tượng tham gia mà rộng hơn nó đảm bảo cho sự ổn định và phát triển 
cả nền kinh tế cho cả xã hội. 
Khi nền kinh tế  càng phát triển, nhu cầu bảo hiểm ngày càng đòi hỏi đa dạng (do rủi ro  
khách quan là không thể loại trừ, chỉ có thể hạn chế ở mức độ nào đó, thậm chí có nhiều hiểm hoạ 

rủi ro mới xuất hiện... người dân có thu nhập ngày càng cao, nhu cầu cần được bảo vệ  một cách  
chủ  động càng lớn... từ  nhu cầu đó, nhiều hình thức bảo hiểm khác nhau ra đời­ trong đó có loại 
hình  bảo hiểm mang tính kinh doanh. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm không ngừng phát triển và  
trở  thành một ngành, lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, thu lợi nhuận cao cho các chủ  thể  kinh doanh.  
Hai mục đích đó vừa là tiền đề, vừa là điều kiện để hoạt động bảo hiểm tồn tại và phát triển. 
Do tính chất đa dạng của các loại rủi ro xâm hại đến lợi ích của nhiều chủ thể đòi hỏi phải  
có nhiều loại hình bảo hiểm:
­  Căn cứ  vào đối tượng bảo hiểm có bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người, bảo hiểm  
TNDS; 
­ Căn cứ vào tính chất pháp lý trong bảo hiểm có bảo hiểm bắt buộc bảo hiểm tự nguyện; 
* Căn cứ vào tính chất, phương thức và mục đích sử dụng các loại quỹ bảo hiểm tập trung  
mang tính cộng đồng, người ta chia bảo hiểm thành hai loại bảo hiểm mang tính kinh doanh và bảo  
hiểm phi kinh doanh: 

3


 Bảo hiểm không mang tính kinh doanh là loại hình bảo hiểm do nhà nước thực hiện nhằm  
thực hiện chính sách kinh tế xã hội. Nó đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước, mục đích của hoạt động 
bảo hiểm này không đặt ra mục tiêu kinh doanh lấy lợi nhuận. Loại hình bảo hiểm phi kinh doanh  
ở nước ta hiện nay là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi … 
 Bảo hiểm có tính kinh doanh là hoạt động bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện  
thông qua việc lập quỹ bảo hiểm từ nguồn thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tham gia, sau 
đó quỹ này được sử dụng để bồi thường, chi trả cho các trường hợp thuộc diện được bảo hiểm khi 
có sự kiện bảo hiểm. 
Nếu so sánh giữa bảo hiểm không mang tính kinh doanh mà điển hình là bảo hiểm xã hội với 
loại hình kinh doanh bảo hiểm thì giữa chúng có những điểm giống nhau đó là: chúng đều có mục  
đích giúp ổn định kinh tế, đảm bảo đời sống, khắc phục khó khăn do nguyên nhân khách quan gây  
ra. Người tham gia đều có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm. Bên cạnh đó, chúng có điểm khác nhau 
cơ bản sau: 

Nội dung  Bảo hiểm xã hội (một loại hình bảo 

Kinh doanh bảo hiểm

ph hiểm không mang tính kinh doanh)
ân 
bi
ệt
Bản chất

Là một chính sách thuộc lĩnh vực đảm    Là một dịch vụ  tài chính xuất phát từ 
bảo xã hội của một nhà nước 

nhu cầu được bảo vệ, ngoài sự đảm bảo 

chung của xã hội 
Đối tượng  Là người lao động, người làm công, ăn  Con người, tài sản, trách nhiệm dân sự 
bảo hiểm
Phạm vi

lương
Trong giới hạn một quốc gia

bảo hiểm
Nguồn 

hiểm ). 
Chủ   yếu   huy   động   sự   đóng   góp   của  Được tạo lập từ  sự  đóng góp phí của tổ 

hình thành 


người   lao   động,người   sử   dụng   lao  chức,   cá   nhân   có   nhu   cầu   được   bảo 

quỹ

động  và  có  thể   một  phần  trợ  cấp từ  hiểm. 

bảo hiểm
Mục đích

ngân sách. 
Để  trợ  cấp cho người lao động khi họ  Chi  bồi   thường   cho  những  tổ   chức,   cá 

sử dụng 

tạm   thời   hay   vĩnh   viễn   mất   sức   lao  nhân tham gia gặp rủi ro thuộc phạm vi  

quỹ

động. 

Mục tiêu

Không   vì   lợi   nhuận   mà   vì   quyền   lợi  Nhằm mục tiêu kinh doanh lấy lợi nhuận 

hoạt động

của   người   Lao  động   và   của   cả   cộng 

Vượt ra ngoài phạm vi quốc gia(Tái bảo 


trách nhiệm bảo hiểm. 

4


chủ thể  

đồng. 
 Do cơ quan nhà nước quản lý theo quy   Doanh nghiệp bảo hiểm  

QL  quỹ 

chế chung thống nhất. 

BH
Luật điều 

Bộ   luật   lao   động   và   VBPL   về   bảo  Luật kinh doanh bảo hiểm

chỉnh

hiểm xã hội khác
2/ Khái niệm chung về kinh doanh bảo hiểm 
Tại Điều 3, Luật kinh doanh BH năm 2000: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh  

nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của  
người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm  
trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho ng ươì được bảo hiểm khi xảy ra sự  
kiện bảo hiểm”. 

Một số khái niệm được sử dụng trong định nghĩa trên được pháp luật giải thích như sau: 
­ Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo  
hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể là đồng thời là người được bảo hiểm hoặc  
người thụ hưởng. 
­ Người được bảo hiểm là tổ  chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được  
bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng. 
­ Người thụ hưởng bảo hiểm là tổ  chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để  nhận 
tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
­Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định mà 
khi có sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng  
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm. 
­ Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên bảo hiểm phải đóng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo 
hiểm theo thời hạn bảo hiểm và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 
Theo nghĩa rộng kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm tất cả những hoạt động của các chủ thể 
kinh doanh trên thị  trường bảo hiểm có mục đích sinh lời gồm: H oạt động kinh doanh bảo hiểm,  
hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm, hoạt động môi giới bảo hiểm và hoạt động đại lý bảo hiểm.
 *Đặc điểm của kinh doanh bảo hiểm:
­  Chủ  thể  thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh  
nghiệp bảo hiểm đứng ra lập quỹ  bảo hiểm từ  nguồn thu phí bảo hiểm của người tham gia bảo  
hiểm, quản lý sử  dụng quỹ  bảo hiểm để  chi trả  hoặc bồi thường bảo hiểm cho người được bảo 
hiểm hoặc người thụ  hưởng khi có sự  kiện bảo hiểm. Mặc dù kinh doanh bảo hiểm là một quan  
hệ được thiết lập trên cơ sở hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm. Tuy  

5


nhiên để thiết lập được quan hệ hợp đồng bảo hiểm ngoài việc các bên trực tiếp thiết lập quan hệ 
còn có các chủ thể khác tham gia để giúp cho các bên thiết lập được quan hệ bảo hiểm gốc là đại  
lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Trong kinh doanh bảo hiểm ngoài mối quan hệ giữa  
doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm còn có các quan hệ bảo hiểm phái sinh là quan hệ 

kinh doanh tái bảo hiểm. 
­ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn nhằm mục đích thu lợi nhuận. Thu nhập được tạo ra  
từ phần chênh lệch giữa số phí thu được với các nghĩa vụ  trả  tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho  
người được bảo hiểm và số lãi thu được từ  hoạt động đầu tư  tài chính từ  nguồn phí thu được còn 
nhàn rỗi.
­ Đối tượng kinh doanh bảo hiểm là sản phẩm đặc biệt một lời cam kết gắn liền với yếu tố 
rủi ro. Xét về  tính chất kinh doanh thì kinh doanh bảo hiểm thuộc loại hình kinh doanh dịch vụ 
“Dịch vụ  tài chính”.  Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình­ là sự  bảo đảm về  mặt tài chính  
trước rủi ro cho người được bảo hiểm và kèm theo các dịch vụ  có liên quan. Người tham gia bảo 
hiểm nộp phí cho nhà bảo hiểm để đổi lấy lời hứa hay cam kết là sẽ  trả  tiền bảo hiểm khi có sự 
kiện bảo hiểm xảy ra. 
­ Chu trình kinh doanh bảo hiểm là một chu trình đảo ngược­ sản phẩm bảo hiểm được bán  
ra trước ­doanh thu phát sinh, sau đó mới phát sinh chi phí ­ Đặc điểm này tạo ra tính nhàn rỗi của  
nguồn vốn bảo hiểm trong những thời gian nhất định, Chủ  thể  nhận bảo hiểm có thể  sử  dụng  
chúng để đầu tư sinh lời nhằm tăng khả năng tài chính cho chi trả bồi thường và tăng thu nhập cho  
doanh nghiệp. Bởi vậy, đầu tư  tài chính là một hoạt động không thể  tách rời với hoat động bảo 
hiểm. Điều này nó làm cho bảo hiểm có tính phức tạp và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của  
doanh nghiệp bảo hiểm đòi hỏi phải được quản lý chặt chẽ nhằm bảo đảm lợi ích cho người tham  
gia.
­ Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn: Trong thơì gian bảo  
hiểm, không có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì  DN bảo hiểm không phải trả tiền hay bồi thường bảo  
hiểm. Nếu có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì DNBH phải trả tiền hoặc bồi thường bảo hiểm. 
Do tính bất ngờ của rủi ro bảo hiểm cả không gian, thời gian và quy mô nên DNBH phải xây 
dựng các quỹ  dự  phòng để  thực hiện cam kết của mình trước bên tham gia bảo hiểm; Quỹ  này 
được sử dụng để tham gia đầu tư tuy nhiên bảo đảm tính thanh khoản cao; 
Số tiền bồi thường bảo hiểm trong một hợp đồng nếu có thường rất lớn, lớn hơn nhiều lần  
số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng. (Do lợi ích các bên có xung đột trực diện thường xảy  
ra tranh chấp trong thực hiện hợp đồng). Vì thế có thể dẫn đến các trường hợp trục lợi bảo hiểm.  
DN bảo hiểm muốn bảo đảm và ổn định nguồn tài chính cho việc bù đắp tổn thất trong hoạt động  


6


bảo hiểm thì phải thực hiện tốt nguyên tắc lấy số  đông bù cho số  ít; Trong trường hợp có hợp  
đồng có giá trị lớn hoặc đối tượng bảo hiểm có nguy cơ dẫn đến rủi ro cao thì DN bảo hiểm phải  
thực các biện pháp phân tán rủi ro như đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm; mặt khác để giảm bớt chi phí 
bồi thường các DNBH phải tăng cường các biện pháp đề  phòng, ngăn ngừa và hạn chế  tổn thất 
bảo hiểm. 
­ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bằng luật kinh doanh bảo hiểm và các  
văn bản pháp luật khác có liên quan; 
­ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động kinh doanh có điều kiện đặt dưới sự quản lý  
nhà nước của Bộ Tài chính.
II. Khái niệm  chung về pháp luật kinh doanh bảo hiểm. 
2.1. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đóng vai trò  quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã  
hội. 
­ Bảo hiểm đóng vai trò là công cụ góp phần ổn định các hoạt động kinh tế xã hội đời sống 
của dân cư, thúc đẩy quá trình tích tụ vốn trong xã hội.
Để tránh thất thoát cho tài sản các pháp nhân, thể nhân có thể tham gia bảo hiểm cho tài sản 
của mình và nếu gặp rủi ro thì thiệt hạn sẽ được bù đắp bằng tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo 
hiểm chi trả. Đồng thời, cũng chính nhờ tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho các pháp  
nhân, thể  nhân có thể  duy trì được hoạt động bình thường,  ổn định đời sống khi gặp rủi ro. Mặt  
khác an toàn về  tính mạng, sức khoẻ là vấn đề  được cá nhân, cộng đồng và Nhà nước quan tâm.  
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đóng vai trò tích cực trong việc bù đắp vật chất trong các tổ chức,  
cá nhân tham gia bảo hiểm, nó trở thành một trong những phương tiện bảo vệ con người. 
Ngoài ra, việc tham gia bảo hiểm có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy người tham gia  
bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng tránh rủi ro và giảm bớt các hậu quả  của rủi ro. Bởi vì, 
phòng tránh và giảm bớt hậu quả của rủi ro là nghĩa vụ  của người tham gia bảo hiểm được pháp  
luật ghi nhận và thường được các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm ghi thành các điều khoản hợp  
đồng. Do mối quan hệ  ràng buộc như  vậy giữa người tham gia bảo hiểm với doanh nghiệp bảo  

hiểm nên hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vai trò tích cực trong việc bảo đảm an toàn cho đời 
sống cộng đồng và cho nền kinh tế. 
Trong điều kiện nền kinh tế  thị  trường, bảo hiểm càng chứng minh có vai trò là công cụ 
động viên, tập trung vốn cho nền kinh tế. Bởi vì, nhiều tổ chức, cá nhân đơn lẻ đóng phí bảo hiểm  
tạo nên quỹ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm và trong thời gian chưa sử dụng, quỹ bảo hiểm  
được doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để tham gia các hình thức đầu tư. 

7


Thứ  hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động đặc thù phức tạp ­ kinh doanh trên  
những rủi ro, có xung đột lợi ích trực tiếp, dễ bị lợi dụng, khó quản lý giám sát, cần có pháp luật  
điều chỉnh để bảo vệ  lợi ích của các chủ  tthể  tham gia trong những điều kiện khả  thi.  Ngoài ra,  
trong một số trường hợp bảo hiểm liên quan đến chủ thể thứ ba.
 

Ví dụ: Theo chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự  của chủ phương tiện tham gia giao thông  

cơ giới đối với người thứ  ba thì người mua phí bảo hiểm là chủ  phương tiện tham gia giao thông 
cơ giới còn người được hưởng tiền bảo hiểm là người thứ  ba bị  thiệt hại. Do đó việc ký kết hợp 
đồng bảo hiểm giữa chủ phương tiện và doanh nghiệp bảo hiểm là nhằm bảo vệ lợi ích cho người 
thứ ba. 
Thứ  ba, pháp luật là công cụ  bảo đảm cho các hoạt động của các chủ  thể  tham gia bảo  
hiểm thương mại phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội 
Do bản chất và chức năng của nó mà pháp luật đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động  
kinh doanh bảo hiểm. Nếu thiếu sự điều chỉnh của pháp luật thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm 
không thể  tiến hành thuật lợi và nghĩa vụ  của các bên tham ra quan hệ  bảo hiểm sẽ không được  
bảo đảm thực hiện trong những trật tự phù hợp với lợi ích của Nhà nước và cộng đồng. 
2.2. Khái niệm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Dưới góc độ luật thực định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm là tập hợp các qui phạm pháp 

luật điều chỉnh các quan hệ  xã hội phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Các qui phạm 
pháp luật này có thể phân chia làm hai nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Các qui phạm pháp luật qui định về  tổ  chức và hoạt động của các chủ  thể 
thực hiện hoạt động kinh doanh trong thị  trường bảo hiểm như: doanh nghiệp bảo hiểm, doanh  
nghiệp môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm… Loại qui phạm pháp luật này chứa ở các loại nguồn 
như: Luật kinh doanh bảo hiểm, các Luật về doanh nghiệp, thương mại, đầu tư
Nhóm thứ hai: Các qui phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thu, nộp phí bảo hiểm và trả tiền 
bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Các qui phạm pháp luật loại  
này chứa chủ yếu ở Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành. 
Nếu phân chia theo các quy định trong luật thực định thì pháp luật kinh doanh bảo hiểm được  
chia thành các bộ phận sau: 
* Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các chủ thể kinh doanh bảo hiểm 
­

Doanh nghiệp bảo hiểm 

­

Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 

­

Đại lý bảo hiểm 

* Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm; Bao gồm tất cả quy định chung về hợp đồng bảo hiểm 

8


* Pháp luật về chế độ bảo hiểm cụ thể 

­

PL về bảo hiểm con người 

­

Pl về bảo hiểm tài sản 

­

PL về bảo hiểm trách nhiệm dân sự 

2.3. Các nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm.
Tại điều 6 Luật kinh doanh bảo hiểm và tại Điều 3 Nghị định 45/2007/NĐ­ CP ngày 27 tháng 
03 năm 2007  có quy định các nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh bảo hiểm gồm: 
Thứ nhất, Tổ chức, cá nhân muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm,  
hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam phải được Bộ  Tài chính cấp giấy phép thành lập và  
hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm là ngành lĩnh vực kinh doanh có điều kiện nên phải được cơ  quan có  
thẩm quyền cấp phép ....
Thứ hai, tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm  
và chỉ  được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam. 
Không một tổ  chức, cá nhân nào được phép can thiệp trái pháp luật đến quyền lựa chọn doanh  
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm của bên mua bảo hiểm.
Việc đặt ra nguyên tắc này nhằm bảo vệ  lợi ích quốc gia, tạo điều kiện cho sự  phát triển 
lành mạnh và lâu dài của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự  quản lý chặt chẽ 
của Nhà nước và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và tập quán quốc tế. Tuy nhiên  
do thực trạng phát triển của thị trường bảo hiểm ở Việt Nam chưa đáp ứng được hết nhu cầu bảo  
hiểm của xã hội, pháp luật quy định:  Tổ  chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm có thể  tham gia bảo 
hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm không có trụ  sở ở Việt Nam trong những trường hợp: Các doanh 

nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam chưa cung cấp được loại sản phẩm bảo hiểm mà tổ chức,  
cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm hoặc theo quy định của các điều ước quốc tế mà Chính phủ 
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hợp đồng bảo hiểm được giao kết giữa các tổ  chức, cá nhân  
Việt Nam với doanh nghiệp bảo hiểm không có trụ sở ở Việt Nam trái với các quy định trên đều bị 
coi là vô hiệu.
Thứ  ba, Doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì khả  năng tài chính phù hợp với quy mô kinh  
doanh của mình để bảo vệ quyền lợi của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. 
Với tính chất là hoạt động kinh doanh rủi ro và mang tính xã hội hoá cao, với vai trò quan  
trọng của kinh doanh bảo hiểm đối với nền kinh tế  và sự   ổn định của đời sống xã hội việc bảo  
đảm khả  năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm để  bảo đảm quyền lợi cho các tổ  chức, cá 
nhân tham gia bảo hiểm là rất quan trọng, bởi nó không chỉ tạo uy tín tạo ra khả năng kinh doanh có  

9


hiệu quả  cho doanh nghiệp bảo hiểm mà nó còn có ý nghĩa kinh tế  xã hội lớn. Với việc quy định  
nguyên tắc chung cơ  bản này trong Luật kinh doanh bảo hiểm, để  trên cơ  sở  đó các cơ  quan nhà 
nước có thẩm quyền sẽ  ban hành các quy định cụ  thể, chi tiết về  chế  độ  tài chính đối với doanh 
nghiệp bảo hiểm. 
Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các quy định như: 
­Phải ký quỹ  tại một ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam. Số tiền ký quỹ  là một 
phần của vốn điều lệ  và nó là một trong các điều kiện để  khai trương hoạt động. Các doanh  
nghiệp bảo hiểm được hưởng lãi tiền gửi kỳ hạn 1 năm trên số tiền ký quỹ, tiền ký quỹ  chỉ  được 
sử dụng khi có ý kiến của Bộ Tài chính bằng văn bản nhằm đáp ứng khả năng thanh toán bị  thiếu  
hụt tạm thời. Doanh nghiệp bảo hiểm được rút toàn bộ tiền ký quỹ khi chấm dứt hoạt động. 
­ Phải thường xuyên trích lập và duy trì đủ  khoản dự  phòng nghiệp vụ  để  thực hiện các  
trách nhiệm phát sinh từ  hợp đồng bảo hiểm. Dự  phòng nghiệp vụ  là khoản dự  trữ  liên quan đến  
từng nghiệp vụ  bảo hiểm được trích lập và hoạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích 
thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ  hợp đồng đã được ký kết. Dự 
phòng nghiệp vụ phải được lập riêng cho từng nghiệp vụ gồm: 

Dự phòng chi cho các trách nhiệm chưa hoàn thành; 
Dự phòng bồi thường cho các kiếu nại chưa giải quyết; 
Dự phòng bồi thường cho các dao động lớn về tổn thất. 
­ Phải duy trì khả năng thanh toán tối thiểu tương ứng với qui mô hoạt động kinh doanh và  
không thấp hơn giới hạn khả  năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động. Một doanh nghiệp  
bảo hiểm được coi là đủ  khả  năng thanh toán khi tổng các nguồn vốn sau hoặc = mức khả  năng 
thanh toán: Vốn điều lệ đã đóng; quỹ dự trữ bắt buộc; lãi các năm trước chưa sử dụng. 
Trong trường hợp tái bảo hiểm ở nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm phải tái bảo hiểm một phần  
rủi ro của hợp đồng bảo hiểm đã ký cho doanh nghiệp tái bảo hiểm do chính phủ  chỉ  định. Xuất  
phát từ  sự  cần thiết hạn chế  tình trạng chảy máu ngoại tệ  thông qua việc tái bảo hiểm cho các  
công ty nước ngoài, tạo điều kiện duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp bảo hiểm gốc  
và doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm. Thông qua công cụ  tái bảo hiểm bắt buộc, Nhà nước có thể 
kiểm soát tình hình hoạt động và tình trạng tài chính cũng như  khả  năng thanh toán của các doanh  
nghiệp bảo hiểm việt nam, bảo vệ quyền của người tham gia bảo hiểm. 
CHƯƠNG II
PL TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHỦ THỂ KINH DOANH BẢO HIỂM.

10


Các chủ  thể  thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm;  
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Đại lý bảo hiểm. 
1. Doanh nghiệp bảo hiểm 
1.1.. Khái niệm. 
 Theo pháp luật hiện hành thì khái niệm “Doanh nghiệp bảo hiểm” được hiểu như sau:
  Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ  chức và hoạt động theo quy  
định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan để  kinh doanh  
bảo hiểm, tái bảo hiểm1. 
Với tư  cách là doanh nghiệp, nó có đầy đủ  các đặc điểm của doanh nghiệp nói chung. Tuy  
nhiên doanh nghiệp bảo hiểm còn có đặc điểm đặc thù giúp chúng ta nhận biết nó với các loại  

doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. 
Thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu thường xuyên và  
mang tính nghề nghiệp là kinh doanh bảo hiểm, một lĩnh vực, ngành nghề đặc biệt. Tính chất đặc  
biệt của kinh doanh bảo hiểm thể hiện  ở chỗ: Nó là loại dịch vụ tài chính đặc biệt,  là hoạt động 
kinh doanh trên những rủi ro. Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình, nó là sự bảo đảm về 
mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm kèm theo là các dịch vụ có liên quan. Rủi ro là  
cơ sở của hoạt động bảo hiểm, là nguồn gốc phát sinh các hoạt động bảo hiểm. Để  bảo vệ mình, 
người tham gia bảo hiểm nộp phí cho doanh nghiệp bảo hiểm,  để  đổi lấy lời hứa của doanh  
nghiệp bảo hiểm là sẽ trả tiền bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra. Như vậy ở đây chỉ có cam kết từ hai  
phía doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, trong đó người tham gia bảo hiểm phải  
cam kết nộp phí, còn doanh nghiệp bảo hiểm lúc đó trở  thành con nợ  của những người tham gia  
bảo hiểm, cam kết sẽ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. 
Chu trình kinh doanh bảo hiểm là chu trình đảo ngược, tức là sản phẩm được bán ra trước, 
doanh thu được thực hiện, sau đó mới phát sinh chi phí. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhận phí bảo  
hiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ  sau với bên được bảo 
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thực tế. Đặc tính này tạo ra tính nhàn rỗi của nguồn vốn bảo  
hiểm trong những thời gian nhất định, nó cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm có thể  sử  dụng 
chúng để đầu tư sinh lời nhằm tăng khả năng tài chính cho bồi thường và trả tiền bảo hiểm và tăng  
thu nhập cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong thời gian bảo hiểm nếu không có rủi ro xảy ra, thì  
doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường hay trả  tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. 
Ngược lại, xảy ra rủi ro, đối tượng bảo hiểm bị  thiệt hại thì bên mua bảo hiểm sẽ  được bồi  
thường hay được trả tiền bảo hiểm. Như vậy quan hệ giữa người mua bảo hiểm và doanh nghiệp 
1

khoản 5 điều 3 luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000.

11


bảo hiểm trên thị  trường bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Đặc  

điểm này đã tạo ra tiền đề khách quan cho tính thương mại của hoạt động bảo hiểm. Nghĩa là, khi 
không xảy ra rủi ro bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi hoàn và phí bảo hiểm sẽ 
tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp bảo hiểm. Khác với khả  năng bồi hoàn của các khâu tài chính  
khác, bồi hoàn trong kinh doanh bảo hiểm có tính bất ngờ cả về thời gian, không gian cũng như quy  
mô. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp bảo hiểm phải xây dựng các quỹ  dự 
phòng để  bảo đảm các cam kết của mình trước những người tham gia bảo hiểm khi có các sự  cố 
bảo hiểm xảy ra. Các quỹ  này là nguồn quan trọng để  tham gia đầu tư  nhằm tăng khả  năng tài  
chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng phải đảm bảo nguyên tắc tính an toàn, tính sinh lời, và  
tính thanh khoản của các khoản vốn đầu tư. Thông thường thì tính bồi thường tổn thất thực tế cho 
người được bảo hiểm trong một hợp đồng bảo hiểm thường rất lớn, lớn gấp nhiều lần so với số 
phí bảo hiểm đã đóng. Vì thế, để  đảm bảo và  ổn định nguồn tài chính cho việc bù đắp tổn thất, 
trong hoạt động bảo hiểm phải áp dụng nguyên tắc lấy số  đông bù số  ít, tức là phải cung cấp  
nhiều sản phẩm bảo hiểm cho nhiều loại khách hàng, trên nhiều vùng thị  trường khác nhau… để 
lấy phí bảo hiểm đóng góp từ nhiều người nhằm bù đắp cho một số ít người gặp rủi ro. Trên thực  
tế, đối với những hợp đồng có giá trị  lớn hoặc trường hợp có khả  năng doanh nghiệp bảo hiểm  
phải bồi thường cho nhiều người được bảo hiểm trong cùng một sự cố, để  giảm bớt trách nhiệm  
tài chính đối với rủi ro bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm thường phải thực hiện nghiệp vụ tái bảo 
hiểm hoặc đồng bảo hiểm. Mặt khác, để  giảm bớt chi phí bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm  
phải tăng cường giám sát các biện pháp phòng ngừa hạn chế tổn thất bảo hiểm.   
Thứ hai, Doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức thành lập và hoạt động theo các qui định của 
Luật kinh doanh bảo hiểm và các qui định khác của pháp luật. Xuất phát từ  tính chất đặc thù của 
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được coi là một tổ chức kinh doanh ngành  
nghề đặc biệt, nên pháp luật phải có những qui định riêng áp dụng cho doanh nghiệp bảo hiểm, đó  
là Luật kinh doanh bảo hiểm. Trong việc tổ chức thành lập và hoạt động của mình doanh nghiệp  
bảo hiểm phải tuân theo Luật kinh doanh bảo hiểm. 
Tuy nhiên, bên cạnh việc áp dụng các qui  định trong Luật kinh doanh bảo hiểm,  doanh  
nghiệp bảo hiểm còn phải tuân thủ  theo các qui định khác của pháp luật trong hệ  thống pháp luật 
Việt Nam ­ nếu như  vấn đề  nào đó Luật kinh doanh bảo hiểm không quy định, không điều chỉnh  
trực tiếp …Chẳng hạn doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước thì việc tổ  chức và hoạt động của doanh 
nghiệp phải tuân theo các qui định trong Luật kinh doanh bảo hiểm đồng thời còn phải tuân thủ các  

qui định dành riêng cho doanh nghiệp nhà nước trong các văn bản như Luật doanh nghiệp nhà nước 


12


Thứ  ba,  Doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự  quản lý trực tiếp của Bộ  Tài Chính. Để  quản lý 
hoạt động kinh doanh bảo hiểm hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giao cho một cơ quan quản 
lý nhà nước nhất định. Một số nước ở Châu á như Singapor, Philipin, cơ quan quản lý nhà nước về 
hoạt động kinh doanh bảo hiểm có tên gọi là Uỷ ban giám sát bảo hiểm. Các nước khác như  Anh, 
Nhật Bản, cơ quan này là một phòng trực thuộc vụ quản lý các ngân hàng. 
ở  Việt Nam, công tác quản lý nhà nước về  hoạt động bảo hiểm được Chính phủ  giao cho  
Bộ Tài chính thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác bảo hiểm. Trước đây do tính độc quyền trong 
kinh doanh bảo hiểm, lúc đó Bộ tài chính đã giao cho Bảo Việt thực hiện hai chức năng quản lý và  
trực tiếp kinh doanh bảo hiểm. Sau khi đất nước ta chuyển đổi sang kinh tế  thị  trường thì để  đáp 
ứng yêu cầu quản lý trong cơ chế kinh tế này, ngày 15 tháng 5 năm 1992 Bộ trưởng Bộ tài chính đã 
ra quyết định số 223TC/ QĐ­ BTC thành lập phòng quản lý bảo hiểm trực thuộc vụ tài chính ngân  
hàng và tổ chức tài chính, Như vậy, bằng qui định trên Bộ Tài Chính đã tách chức năng quản lý và 
chức năng kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt. Từ thời điểm đó cho đến nay Bộ  Tài chính là cơ 
quan của Chính phủ trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo  
hiểm. Điều này đã được Luật kinh doanh bảo hiểm qui định cụ thể: “Bộ Tài chính chịu trách nhiệm 
trước Chính Phủ thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm “(Khoản 2, Điều 121)
Đây là đặc điểm giúp ta phân biệt doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp khác trong nền  
kinh tế. Bởi vì, trong khi các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực ngành nghề  khác chịu sự 
quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước khác như các tổ chức tín dụng chịu sự quản lý nhà nước 
trực tiếp của Ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán chịu sự  quản lý nhà 
nước của Uỷ ban chứng khoán nhà nước …
1.2. Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm.
Trước đây, trong cơ  chế  kế  hoạch hoá tập trung lĩnh vực bảo hiểm rủi ro là lĩnh vực độc 
quyền của nhà nước (gọi tên là bảo hiểm nhà nước). ở  nước ta chỉ duy nhất có Tổng công ty bảo  

hiểm Việt Nam (bảo Việt). Cơ quan “Bảo Việt” thực hiện đồng thời cả hai chức năng quản lý nhà  
nước và kinh doanh bảo hiểm rủi ro. Chuyển sang cơ chế kinh tế mới – c ơ chế kinh t ế thị tr ường,  
Nhà nước không còn giữ  độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm rủi ro mà cho phép các thành phần 
kinh kế được tham gia kinh doanh bảo hiểm­. Nhà nước có phân định rạch ròi giữa chức năng quản  
lý và chức năng kinh doanh trong bảo hiểm rủi ro ­ Thị trường bảo hiểm đã hình thành và phát triển  
cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội. Nhiều loại hình doanh nghiệp bảo hiểm ra đời, sản phẩm  
bảo hiểm phát triển rất đa dạng để  đáp  ứng nhu cầu của xã hội. Vì vậy, việc phân loại các loại 
hình doanh nghiệp bảo hiểm là rất cần thiết. Có nhiều tiêu chí để  phân loại doanh nghiệp bảo 
hiểm, mỗi cách phân loại có ý nghĩa và mục đích riêng. 

13


* Nếu căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ trong doanh nghiệp bảo hiểm thì có các loại  
hình doanh nghiệp bảo hiểm sau: 
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước là một tổ chức kinh doanh bảo hiểm do nhà nước đầu tư 
vốn, thành lập và tổ  chức quản lý, thực hiện kinh doanh bảo hiểm và thực hiện những nhiệm vụ 
nhà nước giao. Bên cạnh việc áp dụng các qui định của Luật kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp  
bảo hiểm nhà nước còn phải tuân thủ các qui định trong các văn bản pháp luật dành riêng cho doanh 
nghiệp nhà nước. Trong nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta những  
doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước nói riêng đóng vai trò rất  
quan trọng trong nền kinh tế, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện khuyến 
khích phát triển để nó trở thành thành phần kinh tế chủ đạo trong những ngành, lĩnh vực then chốt  
của nền kinh tế. 
­ Công ty cổ phần bảo hiểm: là loại doanh nghiệp bảo hiểm trong đó các thành viên cùng góp 
vốn để kinh doanh bảo hiểm, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp  
và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình góp vào 
công ty.Thực chất thì công ty cổ  phần bảo hiểm là những công ty cổ  phần kinh doanh trong lĩnh  
vực bảo hiểm. Việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ  phần bảo hiểm luôn chịu sự  điều chỉnh  
của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật doanh nghiệp. 

­ Tổ chức bảo hiểm tương hỗ; Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân 
được thành lập để  kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ  lẫn nhau giữa các thành viên. 
Thành viên tổ  chức bảo hiểm tương hỗ  vừa là chủ  sở  hữu vừa là bên mua bảo hiểm”. Theo quy  
định của pháp luật hiện hành,Thành viên tổ  chức bảo hiểm tương hỗ  là Tổ  chức, công dân Việt 
Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự  đầy đủ, hoạt động trong cùng một lĩnh vực,  
ngành nghề, có nhu cầu bảo hiểm đều có quyền tham gia thành lập tổ chức bảo hiểm tương hỗ với  
tư  cách là thành viên sáng lập. Chỉ các tổ  chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với tổ  chức  
bảo hiểm tương hỗ mới có thể  trở  thành thành viên của tổ  chức bảo hiểm tương hỗ. Việc thành 
lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ do Chính phủ quy định.
Trên thế  giới, phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm được tổ  chức dưới hình thức công ty 
bảo hiểm tương hỗ. Đây là loại hình doanh nghiệp được thành lập nhằm tương trợ, giúp đỡ  lẫn 
nhau giữa các thành viên, mục đích kinh doanh chỉ là thứ yếu. ở Việt Nam, thị trường bảo hiểm mới  
ở giai đoạn đầu của sự  phát triển thì đây là một mô hình mới, chưa hề  có một tổ  chức bảo hiểm  
tương hỗ nào tồn tại trên thực tế. Việc qui định loại hình doanh nghiệp bảo hiểm này ở  Việt Nam  
hiện nay là cần thiết, phù hợp với tính chất và đặc thù của nền kinh tế  Việt Nam. Bởi vì đối với  
một số lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản tại Việt Nam là những lĩnh  

14


vực mà ta có thế  mạnh mà các doanh nghiệp bảo hiểm hiện chưa phục vụ được hoặc hoạt động  
không có hiệu quả. nếu chúng ta có doanh nghiệp bảo hiểm tương hỗ  trong những lĩnh vực như 
vậy có nhiều lợi thế. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản qui phạm về tổ chức bảo  
hiểm tương hỗ là hết sức cần thiết, tạo điều kiện để loại hình doanh nghiệp này phát triển. 
 Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài (gồm doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh; 
Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài). Là doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập 
có một phần vốn hoặc 100% vốn điều lệ  của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài để  kinh doanh 
bảo hiểm tại Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư  nước ngoài tại Việt Nam là pháp  
nhân Việt Nam hoạt động theo pháp luật Việt Nam. 
­Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh: Là doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập trên cơ  sở 

góp vốn của bên Việt Nam và bên nước ngoài. (Tỷ  lệ  góp vốn của bên Việt Nam trong doanh  
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh không được thấp hơn 30% vốn điều  
lệ.)
  Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư  nước ngoài:  Là doanh nghiệp bảo hiểm do tổ 
chức bảo hiểm nước ngoài đầu tư 100% vốn, thành lập tại Việt Nam. Doanh nghiệp này hoàn toàn  
do chủ đầu tư là bên nước ngoài sở hữu và kiểm soát, không có sự tham gia của bên Việt Nam.
 Theo pháp luật hiện hành, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư  nước ngoài không bị  hạn 
chế về nội dung, phạm vi hoạt động khi bán sản phẩm bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu  
tư  nước ngoài, tổ  chức và cá nhân nước ngoài; các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; các sản phẩm  
phục vụ cho những chương trình phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư  nghiệp và bảo hiểm rủi 
ro tài chính, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc mở rộng nội dung, phạm vi hoạt  
động sẽ  được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ  Tài chính, phù hợp với nhu cầu phát triển thị 
trường và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Cụ thể: Trong năm hoạt động 
đầu tiên, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép mở một chi nhánh ngoài 
trụ  sở chính để  tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sau 3 năm kể  từ  khi hoạt động, doanh 
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được phép mở thêm 
2 chi nhánh để tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm. Sau 5 năm kể từ khi 
hoạt động, việc mở thêm chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 
có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo nhu cầu phát triển thị  trường và điều ước quốc tế 
mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. 
* Căn cứ vào nghiệp vụ bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện thì các doanh  
nghiệp bảo hiểm được chia thành hai loại là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ  và doanh nghiệp  
bảo hiểm phi nhân thọ. 

15


­ Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ  bảo hiểm nhân 
thọ. Bảo hiểm nhân thọ là chế độ  bảo hiểm cho tuổi thọ con người. Mặc dù đối tượng bảo hiểm  
nhân thọ là con người, nhưng so với các loại hình bảo hiểm con người khác nó có một số dâú hiệu  

đặc trưng sau: bảo hiểm nhân thọ thời hạn hợp đồng dài và luôn có tính đền bù. Bảo hiểm nhân thọ 
là sự kết hợp giữa hình thức bảo hiểm và hình thức tiết kiệm vừa là hình thức đầu tư. 
Do thời hạn bảo hiểm dài, mức phí bảo hiểm thường lớn, pháp luật có quy định cho phù hợp  
với tính chất và đặc điểm của loại hình nghiệp vụ bảo hiểm này, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các  
bên tham gia quan hệ bảo hiểm. Chẳng hạn các quy định về  đóng phí bảo hiểm của bên mua bảo  
hiểm, hoặc pháp luật quy định về  vấn đề  đầu tư  vốn của loại hình doanh nghiệp bảo hiểm nhân  
thọ có sự khác biệt với hoạt động đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ để bảo vệ 
sự an toàn trong thanh toán, tính hiệu quả trong hoạt động đầu tư cho doanh nghiệp bảo hiểm, bảo  
vệ quyền, lợi ích cho người tham gia bảo hiểm và cho cả doanh nghiệp bảo hiểm... 
­ Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm phi  
nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ  là loại nghiệp vụ  bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự  và các  
nghiềp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. 
Do sự khác nhau về tính chất, đặc điểm của mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm trên mà Điều 60  
khoản 2 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định “ Doanh nghiệp bảo hiểm không được phép đồng thời  
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ  và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ  trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm  
nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo  
hiểm nhân thọ”. Vì thế trong các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ta hiện nay có hai loại hình doanh  
nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ  và doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.  
Chúng khác nhau không chỉ về tên gọi, nghiệp vụ kinh doanh mà trong những chế độ cụ  thể, pháp  
luật có những quy định cho chúng khác nhau, đặc biệt là trong chế độ tài chính đối với hai loại hình  
doanh nghiệp bảo hiểm này .
1.3 Quy chế cấp giấy phép thành lập hoạt động, kiểm soát đặc biệt, giải thể, phá sản doanh  
nghiệp bảo hiểm, 
Pháp luật hiện hành có quy định về điều kiện và thủ tục để được cấp giấy phép thành lập và  
hoạt động đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong đó có một số điều kiện quan trọng như điều 
kiện về vốn điều kiện về nhân sự như: 
­ Không thuộc các đối tượng bị  cấm theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật Doanh 
nghiệp;

16



­ Phải có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định của Chính 
phủ  (kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300 tỷ  đồng Việt Nam; Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:  
600 tỷ đồng Việt Nam); 
­ Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ  về  bảo  
hiểm…cụ thể: Chủ tịch Hội đồng quản trị của doanh nghiệp bảo hiểm phải là người có uy tín, đạo 
đức nghề nghiệp và kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tổng giám đốc (Giám đốc)  
của doanh nghiệp bảo hiểm phải là người có uy tín, đạo đức nghề  nghiệp, có thực tiễn quản lý 
kinh doanh hay quản lý nhà nước về bảo hiểm ít nhất 3 năm và phải thường trú tại Việt Nam trong 
thời gian đương nhiệm…
­ Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều 64 của Luật này;
­  Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật này và các quy định 
khác của pháp luật;
*  Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đầu tư  thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn  
đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh giữa doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với 
doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện sau:
­   Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cơ  quan có thẩm quyền của nước ngoài cho  
phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành tại Việt Nam; 
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động hợp pháp ít nhất 10 năm theo quy định 
của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính tính tới thời điểm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép; 
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có tổng tài sản tối thiểu tương đương 2 tỷ  đô la Mỹ 
vào năm trước năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép;
­ Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không vi phạm nghiêm trọng các quy định về  hoạt 
động kinh doanh bảo hiểm và các quy định pháp luật khác của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở 
chính trong vòng 3 năm liền kề năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép.
* Về  Hồ  sơ  xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động thực hiện theo quy định tại Luật 
Doanh nghiệp, Điều 64 của Luật Kinh doanh bảo hiểm  cụ thể hoá trong 7 NĐ 45/2007/NĐ­ CP bao  
gồm:
a) Đơn xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động theo mẫu do Bộ Tài chính quy định;

b) Dự  thảo điều lệ  doanh nghiệp phù hợp với quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh  
doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành. Dự thảo Điều lệ doanh nghiệp phải có đầy đủ 
chữ ký của người đại diện theo pháp luật, của các cổ  đông sáng lập hoặc người đại diện theo uỷ 
quyền của cổ đông sáng lập;
c) Danh sách cổ đông sáng lập và các giấy tờ kèm theo 

17


d) Xác nhận của ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam về mức vốn điều lệ  gửi tại 
tài khoản phong toả mở tại ngân hàng đó;
đ) Phương án hoạt động 5 năm đầu phù hợp với lĩnh vực kinh doanh xin   cấp Giấy phép,  
trong đó nêu rõ phương thức trích lập dự phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo hiểm, đầu tư vốn,  
hiệu quả  kinh doanh, khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và lợi ích kinh tế  của việc 
thành lập doanh nghiệp kèm theo các quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm soát nội bộ, quy trình 
quản lý rủi ro;
Các quy định về phương thức trích lập dự phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo hiểm, khả 
năng thanh toán của doanh nghiệp không áp dụng đối với doanh nghiệp môi giới bảo hiểm;
e) Danh sách, lý lịch, các văn bằng có xác nhận của công chứng chứng minh năng lực, trình 
độ chuyên môn, nghiệp vụ của người quản trị, người điều hành doanh nghiệp;
g) Mức vốn góp và phương thức góp vốn, danh sách những tổ chức, cá nhân chiếm 10% số 
vốn điều lệ trở lên; tình hình tài chính và những thông tin khác có liên quan đến các tổ chức, cá nhân  
đó;
h) Quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm của loại sản phẩm bảo hiểm dự kiến  
tiến hành. Quy định này không áp dụng đối với doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
Hồ  sơ  xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh,  
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh theo quy định tại khoản 1 Điều 109 của Luật Kinh 
doanh bảo hiểm bao gồm:
­  Các tài liệu theo quy định tại các điểm a, b, d, đ, e và h khoản 1 Điều này;
­  Điều lệ, Giấy phép thành lập và hoạt động của các bên tham gia liên doanh;

­  Hợp đồng liên doanh;
­  Bảng tổng kết tài sản, báo cáo tài chính hàng năm có xác nhận của tổ chức kiểm toán độc  
lập về tình hình hoạt động của các bên tham gia liên doanh trong 3 năm gần nhất;
­ Văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính:
+  Cho phép  doanh  nghiệp  bảo  hiểm,  doanh nghiệp  môi  giới  bảo  hiểm  thành  lập doanh 
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh tại Việt Nam. Trường hợp quy định  
của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ  sở chính không yêu cầu phải có văn bản chấp thuận thì phải  
có bằng chứng xác nhận việc này;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang hoạt động kinh  
doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành hoạt động ở Việt Nam;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang trong tình trạng 
tài chính lành mạnh và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quản lý tại nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở 

18


chính;
Hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp 
môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của Luật Kinh  
doanh bảo hiểm bao gồm:
­ Các tài liệu theo quy định tại các điểm a, b, d, đ, e và h khoản 1 Điều này;
­ Điều lệ, Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi 
giới bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính;
­ Giấy uỷ quyền cho Tổng giám đốc (Giám đốc) tại Việt Nam;
­  Bảng tổng kết tài sản, báo cáo tài chính hàng năm có xác nhận của tổ  chức kiểm toán độc 
lập về  tình hình hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước 
ngoài nơi đóng trụ sở chính trong 3 năm gần nhất;
­ Văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính:
+  Cho phép doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thành lập doanh nghiệp  
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Việt Nam. Trường hợp quy định của nước nơi 

doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đóng trụ sở chính không yêu cầu phải có  
văn bản chấp thuận thì phải có bằng chứng xác nhận việc này;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang hoạt động kinh  
doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành hoạt động ở Việt Nam;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang trong tình trạng tài 
chính lành mạnh và đáp  ứng đầy đủ  các yêu cầu quản lý tại nước nơi doanh nghiệp bảo hiểm,  
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đóng trụ sở chính.
Hồ sơ xin cấp Giấy phép của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được 
lập thành 3 (ba) bộ trong đó có 1 (một) bộ là bản chính, 2 (hai) bộ là bản sao. Hồ sơ đề  nghị  cấp 
Giấy phép của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài 
được lập thành 3 (ba) bộ, mỗi bộ  gồm 1 (một) bản bằng tiếng Việt và 1 (một) bản bằng tiếng  
nước ngoài thông dụng. Các bản sao tiếng Việt và các bản dịch từ  tiếng nước ngoài ra tiếng Việt  
phải được cơ  quan công chứng Việt Nam xác nhận theo quy định của pháp luật về  công chứng.  
Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của hồ sơ xin cấp Giấy phép.
Pháp luật quy định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và thu hồi giấy phép thành lập  
và hoạt động cho các doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể: Bộ Tài chính cấp giấy phép thành lập và hoạt 
động cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ 
xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động, Bộ  Tài chính phải cấp hoặc từ  chối cấp giấy phép.  

19


Trong trường hợp từ chối cấp giấy phép, Bộ Tài chính phải có văn bản giải thích lý do. Giấy phép  
thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 
Pháp luật còn quy định: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ  ngày được cấp Giấy phép thành lập 
và hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải đăng báo hàng ngày  
của báo trung ương và báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính trong 5 số báo liên tiếp về 
những nội dung chủ  yếu như  sau:  Tên, địa chỉ  trụ  sở  chính, Chi nhánh, Văn phòng đại diện của  
doanh nghiệp bảo hiểm;  Nội dung, phạm vi và thời hạn hoạt động;  Mức vốn điều lệ  và số  vốn  
điều lệ  đã góp;  Họ, tên của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;  Số  Giấy phép và  

ngày cấp Giấy phép thành lập và hoạt động;  Các nghiệp vụ  bảo hiểm, nghiệp vụ  môi giới bảo  
hiểm được phép kinh doanh.
Trong thời hạn 12 tháng, kể  từ  ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, doanh 
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải hoàn tất các thủ  tục cần thiết theo quy  
định của pháp luật để chính thức hoạt động kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm. Nếu quá thời  
hạn này mà doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm không bắt đầu hoạt động thì 
bị thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản khi thay đổi một 
trong những nội dung sau đây: Tên doanh nghiệp; Vốn điều lệ; Mở hoặc chấm dứt hoạt động của 
chi nhánh, văn phòng đại diện; Địa điểm đặt trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện; Nội dung,  
phạm vi và thời hạn hoạt động; Chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp chiếm 10% số  vốn điều 
lệ trở lên; Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc); Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất,  
giải thể, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp…
 Doanh nghiệp bảo hiểm có thể bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động khi xảy ra một  
trong những trường hợp như: Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động có thông tin cố ý làm  
sai sự thật; Sau 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động mà không bắt đầu  
hoạt động; Giải thể, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, phá sản, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp; 
Hoạt động sai mục đích hoặc không đúng với nội dung quy định trong giấy phép thành lập và hoạt 
động; Không bảo đảm các yêu cầu về  tài chính để  thực hiện các cam kết với bên mua bảo hiểm;  
doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư  nước ngoài có thể  bị  thu hồi giấy phép thành lập và hoạt  
động khi doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ  sở chính bị  thu hồi giấy phép thành lập  
và hoạt động.
Trong trường hợp Bộ Tài chính cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động, chấp thuận  
cho doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi một trong những nội dung quy định, Bộ  Tài chính thông báo  
ngay bằng văn bản kèm theo bản sao giấy phép thành lập và hoạt động, quyết định thu hồi giấy  

20


phép thành lập và hoạt động hoặc quyết định chấp thuận việc sửa đổi, bổ sung giấy phép thành lập  

và hoạt động cho cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính, chi nhánh, 
văn phòng đại diện.
 Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động  
kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm được coi là có đủ  khả  năng thanh toán khi đã trích  
lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quy định và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên 
khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định của Chính phủ. Trong trường hợp có nguy cơ mất khả 
năng thanh toán (khi biên khả  năng thanh toán của doanh nghiệp đó thấp hơn biên khả  năng thanh 
toán tối thiểu theo quy định) thì doanh nghiệp bảo hiểm   phải chủ  động thực hiện ngay các biện  
pháp tự khôi phục khả năng thanh toỏn  đồng thời phải báo cáo nguy cơ mất khả năng thanh toán cho  
Bộ Tài chính trong đó nói rõ về  thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ  mất khả  năng 
thanh toán và các biện pháp khắc phục.…Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi 
phục được khả năng thanh toán theo phương án đã được chấp thuận,  thì Bộ Tài chính có quyền yêu 
cầu doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện khôi phục khả năng thanh toán, gồm những biện pháp nh ư:  
Bổ  sung nguồn vốn chủ  sở hữu; Tái bảo hiểm; thu hẹp nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động; 
đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động;  Củng cố tổ  chức bộ máy và thay đổi người quản trị, 
điều hành của doanh nghiệp;  Yêu cầu chuyển giao hợp đồng bảo hiểm;  Các biện pháp khác.
Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục được khả  năng thanh toán theo 
yêu cầu của Bộ Tài chính  thì Bộ Tài chính ra quyết định thành lập Ban kiểm soát khả năng thanh  
toán để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm.
 Ban kiểm soát khả năng thanh toán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
­  Chỉ đạo và giám sát việc triển khai thực hiện các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán 
theo phương án đã được chấp thuận; 
­ Thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan về việc áp dụng các biện pháp khôi phục 
khả năng thanh toán để phối hợp thực hiện;
­ Hạn chế phạm vi và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm;
­  Đình chỉ những hoạt động có thể dẫn đến việc doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng 
thanh toán;
­ Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hoặc 
một số nghiệp vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác;
­ Tạm đình chỉ quyền quản trị, điều hành và yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thay thế thành 

viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) nếu xét 
thấy cần thiết;

21


­ Yêu cầu Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) miễn nhiệm, đình chỉ công tác đối 
với những người có hành vi vi phạm pháp luật, không chấp hành phương án khôi phục khả năng 
thanh toán đã được chấp thuận; 
­ Kiến nghị với Bộ Tài chính tiếp tục hoặc chấm dứt các biện pháp khôi phục khả năng 
thanh toán;
­ Báo cáo Bộ Tài chính về việc áp dụng và kết quả của việc áp dụng các biện pháp khôi 
phục khả năng thanh toán.
Ban kiểm soát khả năng thanh toán phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình theo quy 
định của pháp luật trong quá trình áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán của doanh 
nghiệp bảo hiểm.  Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu, quyết định của 
Ban kiểm soát khả năng thanh toán.
Việc áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán chấm dứt trong các trường hợp :  
Hết hạn áp dụng biện pháp khôi phục khả năng thanh toán;  Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm 
trở lại bình thường;  Doanh nghiệp bảo hiểm đã được hợp nhất, sáp nhập trước khi hết thời hạn áp 
dụng biện pháp khôi phục khả năng thanh toán,;  Doanh nghiệp bảo hiểm lâm vào tình trạng phá 
sản.
Việc chấm dứt áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán được thực hiện theo 
quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Quyết định này được thông báo cho các cơ quan có liên 
quan.
 Doanh nghiệp bảo hiểm giải thể trong các trường hợp sau đây: Tự nguyện xin giải thể nếu 
có khả năng thanh toán các khoản nợ;  Khi hết thời hạn hoạt động quy định trong giấy phép thành 
lập và hoạt động mà không có quyết định gia hạn;  Bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động 
theo quy định;  Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.  Việc giải thể doanh nghiệp bảo 
hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản.

 Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến  
hạn, sau khi áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán mà vẫn mất khả năng thanh toán  
thì việc phá sản doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện theo quy định của pháp luật về  phá sản  
doanh nghiệp.
1.4 Tổ chức và điều hành của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
Tổ chức hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bao gồm: 
­  Trụ sở chính; 

22


­ Chi nhánh, sở  giao dịch, hội sở, công ty thành viên hạch toán phụ  thuộc (được gọi là Chi 
nhánh) trực thuộc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, có nhiệm vụ  thực  
hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền;
­ Văn phòng đại diện là đơn vị  phụ  thuộc của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi  
giới bảo hiểm, có nhiệm vụ đại diện theo uỷ quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các lợi  
ích đó;
­ Địa điểm kinh doanh, phòng giao dịch (được gọi là địa điểm kinh doanh) là nơi hoạt động  
kinh doanh cụ  thể, trực thuộc Chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo 
hiểm. 
 Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm muốn mở Chi nhánh, Văn phòng  
đại diện phải đáp ứng các điều kiện sau:
­ Vốn điều lệ thực có phải đảm bảo theo quy định của Bộ Tài chính;
­ Bộ máy quản trị, điều hành và hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả; 
­ Không vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật trong 3 năm liên tục ngay trước 
năm nộp hồ sơ. Doanh nghiệp bảo hiểm không vi phạm quy định về khả năng thanh toán;
­ Có Quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện;
­ Người điều hành Chi nhánh, Văn phòng đại diện có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn 
về  hoạt động kinh doanh bảo hiểm và không thuộc các đối tượng bị  cấm theo quy định của pháp  
luật;

­ Có hồ sơ xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện theo quy định 
 Hồ sơ xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện bao gồm:
­  Đơn xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện có chữ ký của người đại diện có thẩm quyền của 
doanh nghiệp, trong đó trình bày tóm tắt sự cần thiết, tên gọi, địa điểm, nội dung, phạm vi hoạt động  
của Chi nhánh, Văn phòng đại diện;
­ Phương án hoạt động 3 năm đầu của Chi nhánh, Văn phòng đại diện trong đó nêu rõ nhu  
cầu khách hàng; dự báo thị trường; nội dung, phạm vi hoạt động, các sản phẩm bảo hiểm dự kiến  
kinh doanh; dự  kiến kết quả  kinh doanh; tổ  chức bộ máy, nhân sự; địa điểm đặt Chi nhánh, Văn  
phòng đại diện và cơ sở vật chất kỹ thuật;
­ Giấy tờ hợp lệ chứng minh doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đáp  
ứng các điều kiện quy định. 
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ  hồ sơ hợp lệ, Bộ Tài chính phải trả 
lời bằng văn bản về  việc chấp thuận hoặc từ  chối chấp thuận. Trong trường hợp từ  chối chấp  
thuận, Bộ Tài chính phải có văn bản giải thích lý do.

23


 Người quản trị, điều hành doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: 
Chủ  tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh  
nghiệp môi giới bảo hiểm phải là người có trình độ chuyên môn, năng lực quản trị, điều hành doanh  
nghiệp theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tổng giám đốc (Giám đốc) doanh nghiệp bảo hiểm, doanh  
nghiệp môi giới bảo hiểm phải cư trú tại Việt Nam trong thời gian đương nhiệm.  Việc bổ  nhiệm, 
thay đổi Chủ  tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) của doanh nghiệp bảo hiểm,  
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải có sự chấp thuận của Bộ Tài chính.
Chuyên gia tính toán (Appointed Actuary):  Chuyên gia tính toán có nhiệm vụ  tổ  chức thực  
hiện công tác đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Chuyên gia tính toán 
có quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ và không được đồng thời kiêm nhiệm các chức vụ sau:  
Tổng giám đốc;  Kế toán trưởng; Thành viên Hội đồng quản trị.
Bộ Tài chính quy định tiêu chuẩn và việc sử dụng chuyên gia tính toán của doanh nghiệp bảo  

hiểm nhân thọ. 
Kiểm tra, kiểm soát nội bộ :  Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: 
­  Phải xây dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện các quy chế  phân công trách nhiệm 
trong nội bộ  doanh nghiệp; quy trình nghiên cứu phát triển sản phẩm, khai thác, thẩm định, bồi 
thường, tái bảo hiểm và các quy trình nghiệp vụ khác theo quy định pháp luật.
­ Phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ bảo đảm doanh nghiệp hoạt động an toàn và 
đúng pháp luật.
­ Phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành pháp luật, các quy trình nghiệp vụ  và quy định 
nội bộ; trực tiếp kiểm tra, kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ  trên tất cả  các lĩnh vực tại trụ  sở 
chính, Chi nhánh, Văn phòng đại diện và các địa điểm kinh doanh nhằm đánh giá chính xác kết quả 
hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
  Kết quả  kiểm tra, kiểm soát nội bộ  phải được lập thành văn bản và lưu giữ  tại doanh 
nghiệp.
1.4. Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
 Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm:
Thứ nhất, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm.
Trong kinh doanh bảo hiểm, Doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ  động bán bảo hiểm  
dưới các hỡnh thức sau:  Trực tiếp;  Thụng qua đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm; Thông qua 
đấu thầu;  Các hỡnh thức khỏc phự hợp với quy định của pháp luật. 
Doanh nghiệp bảo hiểm được mời chào khách hàng tham gia bảo hiểm theo nội dung, phạm  
vi hoạt động quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động của mình. Không được ép buộc các 

24


tổ chức, cá nhân mua bảo hiểm dưới mọi hình thức. Không được phép đồng thời kinh doanh bảo 
hiểm nhân thọ  và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ  trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ  kinh 
doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ.
­ Tuân thủ  các quy định về  quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm trong các chế  độ  bảo  
hiểm theo quy định. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm không 

theo quy tắc, điều khoản, biểu phí đã được Bộ Tài chính ban hành ( đối với loại hình bảo hiểm bắt  
buộc) hoặc phê chuẩn (đối với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm  
tai nạn con người) hoặc đã đăng ký với Bộ  Tài chính (đối với các sản phẩm bảo hiểm khác) thì 
doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm và bên mua bảo  
hiểm không có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm. 
Quy tắc, điều khoản, biểu phí do doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng phải đảm bảo:
­ Tuân thủ  pháp luật; phù hợp với thông lệ, chuẩn mực đạo đức, văn hoá và phong tục, tập 
quán của Việt Nam;
­  Ngôn ngữ  sử  dụng trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm phải chính xác, cách diễn đạt đơn 
giản, dễ hiểu. Đối với thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung, thì phải định nghĩa rõ trong 
quy tắc, điều khoản bảo hiểm;
­ Thể hiện rõ ràng, minh bạch quyền lợi có thể được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, phạm vi  
và các rủi ro được bảo hiểm, quyền lợi và nghĩa vụ  của bên mua bảo hiểm và người được bảo 
hiểm, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, phương 
thức trả tiền bảo hiểm, các quy định giải quyết tranh chấp; 
­ Phí bảo hiểm phải được xây dựng dựa trên số liệu thống kê, đảm bảo khả  năng thanh toán  
của doanh nghiệp bảo hiểm và phải tương ứng với điều kiện và trách nhiệm bảo hiểm.   
­ Các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ  được chi trả  hoa hồng bảo hiểm từ  phần phí bảo hiểm  
thực tế thu được theo tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm do Bộ Tài chính quy định cho từng nghiệp vụ bảo  
hiểm. Đối tượng được hưởng hoa hồng bảo hiểm bao gồm: Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Đại 
lý bảo hiểm. Không được chi trả  hoa hồng bảo hiểm cho các đối tượng sau: Tổ  chức, cá nhân  
không được phép hoạt động đại lý bảo hiểm, hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam;Tổ chức,  
cá nhân trực tiếp mua bảo hiểm, trừ trường hợp đại lý bảo hiểm mua bảo hiểm nhân thọ cho chính  
mình; Cán bộ, nhân viên của chính doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong kinh doanh tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền chuyển nhượng một phần 
trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhưng không được  
nhượng toàn bộ  trách nhiệm bảo hiểm đã nhận trong một hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp  
bảo hiểm khác để hưởng hoa hồng tái bảo hiểm.

25



×