Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Rèn kĩ năng sử dụng từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 71 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
RÈN KĨ NĂNG SỬ DỤNG TỪ ĐỒNG NGHĨA
VÀ TRÁI NGHĨA TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU
CHO HỌC SINH LỚP 4, 5

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp

: Th.S Lê Sao Mai
: Vũ Thị Vân
: 14STH

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáo
hương dẫn: ThS. Lê Sao Mai, giảng viên khoa giáo dục Tiểu học, trường Đại
học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt
quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm, các thầy cô giáo khoa Giáo dục
Tiểu học cùng toàn thể các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng
đã trang bị những kiến thức, tận tình chỉ bảo em trong suốt những năm học qua.
Cảm ơn các bạn trong lớp 14STH đã động viên, giúp đỡ em trong quá trình


nghiên cứu đề tài này.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo và các học sinh ở trường Tiểu học Huỳnh
Ngọc Huệ đã phối hợp để giúp em có nguồn tư liệu thực tế trong quá trình
nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Sau cùng, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 01 năm 2018
Sinh viên

Vũ Thị Vân

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục của Việt Nam. Giáo
dục ở bậc học này vô cùng quan trọng cho sự hình thành các tri thức cơ bản
cũng như việc phát triển nhân cách cho học sinh. Trong hệ thống các môn học ở
cấp Tiểu học, với tư cách là một môn học độc lập, môn Tiếng Việt có nhiệm vụ
cung cấp cho học sinh những tri thức về hệ thống tiếng Việt (hệ thống âm thanh,
cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp) đống thời hình thành cho học sinh kĩ năng giao
tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra, tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư
duy, cho nên nó có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là
trang bị cho học sinh một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức
khoa học ở nhà trường.
Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học gồm có nhiều phân môn, trong đó
có phân môn Luyện từ và câu. Phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh mở
rộng, hệ thống hoá vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ

và câu, rèn cho học sinh một số kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu.
Bên cạnh đó còn bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói - viết
thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp, rèn luyện phát
triển tư duy, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp cho học sinh.
Từ đồng nghĩa và trái nghĩa xuất hiện nhiều trong vốn từ vựng tiếng Việt.
Trong nhà trường tiểu học, việc giảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa giúp học
sinh có thể nhận biết và sử sử dụng tốt tiếng Việt một cách linh hoạt, trên cơ sở
đó mở rộng và phát triển vốn từ ngữ cho học sinh. Tuy nhiên đây cũng là một
nội dung dạy học phức tạp, trừu tượng và khó nắm bắt, trong khi đó tư duy của
học sinh tiểu học còn thiên về tư duy cụ thể, chưa phát triển tư duy trừu tượng.
Điều này đòi hỏi người giáo viên cần phải tìm ra được biện pháp dạy học thích
hợp với tâm lí và nhận thức của các em.
1


Trong phân môn Luyện từ và câu, từ đồng nghĩa và trái nghĩa xuất hiện
khá nhiều. Việc dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa hiệu quả sẽ góp phần cung cấp
thông tin đa dạng về một đối tượng được nói đến. Vì vậy, việc cung cấp cho học
sinh những kiến thức và kĩ năng sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa sẽ giúp học
sinh biết cách lựa chọn từ đồng nghĩa, trái nghĩa để diễn đạt sinh động hơn trong
giao tiếp và trong học tập, làm nền tảng để giúp các em học tốt hơn ở các bậc
học tiếp theo.
uất phát từ lý luận và thực tiễn trên, với tư cách là một giáo viên tiểu
học tương lai, tôi chọn đề tài :"Rèn kĩ năng sử dụng từ đồng nghĩa và trái
nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, 5"để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ đồng nghĩa và trái nghĩa là các lớp từ vựng tiếng Việt có vị trí quan
trọng, được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu về Từ vựng học như
Đại cương ngôn ngữ học (tập 2) của Đỗ Hữu Châu; Nhập môn Ngôn ngữ học
của Mai Ngọc Chừ (chủ biên) – Nguyễn Thị Ngân Hoa– Đỗ Việt Hùng – Bùi

Minh Toán; Từ đồng nghĩa tiếng Việt của Nguyễn Đức Tồn. Các công trình
nghiên cứu không những cung cấp một hệ thống các tri thức lí luận khái quát về
từ đồng nghĩa và trái nghĩa mà còn khẳng định vai trò của các lớp từ này trong
hoạt động giao tiếp.
Vấn đề dạy học từ đồng nghĩa và trái nghĩa cũng được đề cập đến trong
khá nhiều các công trình về phương pháp dạy học. Tiêu biểu là Phương pháp
dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II của Lê Phương Nga; Từ vựng tiếng Việt ở tiểu
học của Lê Thị Thanh Nhàn; Dạy học Từ ngữ ở tiểu học của Phan Thiều – Lê
Hữu Tỉnh. Từ vựng tiếng Việt ở tiểu học là một công trình nghiên cứu chuyên
sâu về từ vựng, trong đó tác giả đã giành rất nhiều trang viết cho hiện tượng
đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm trong ngôn ngữ. Đặc biệt, từ cuốn sách này, mối
quan hệ giữa lí luận ngôn ngữ và thực tiễn dạy học các đơn vị từ vựng được thể
hiện một cách rõ nét. Những mô tả về nội dung dạy học các lớp từ trên cùng
2


những chỉ dẫn về cách thức, phương pháp tổ chức bài học thực sự có ý nghĩa với
quá trình triển khai xây dựng tư liệu dạy học mà đề tài hướng tới.
Qua khảo sát, hầu như các tác giả đi trước đã đưa ra được tiêu chí để xác
định từ đồng nghĩa và trái nghĩa, đồng thời các nhà nghiên cứu cũng đã nhấn
mạnh giá trị phong cách của các từ đồng nghĩa cũng như trái nghĩa. Tuy nhiên
chưa có công trình nào đi vào nghiên cứu cụ thề về từ đồng nghĩa và trái nghĩa
trong phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học. Trong đề tài này, trên cơ sở những
thành tựu đã đạt được của các nhà nghiên cứu, tôi sẽ ứng dụng vào để tìm hiểu
cụ thể hơn về từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong chương trình Tiếng Việt Tiểu
học ở phân môn Luyện từ và câu lớp 4, 5.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôitìm hiểu thực trạng giảng dạy từ đồng
nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, 5, từ
đóxây dựng một số bài tập nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy từ đồng nghĩa và

trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Quá trình dạy học từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ
và câucho học sinh lớp 4, 5.
5. Giả thuyết khoa học
Để việc giảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ
và câucho học sinh lớp 4, 5 đạt hiệu quả, chúng tôi xin đề xuấtmột số bài tập về
từ đồng nghĩa, trái nghĩa cho học sinh nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy từ
đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5.
Đề tài "Rèn kĩ năng sử dụng từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn
Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, 5" sẽ kiểm chứng về những đề xuất trên.

3


6. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân
môn Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5.
-Khảo sát thực trạng việc dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn
Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5.
-Đề xuất một số bài tập nhằmnâng cao hiệu quả giảng dạy từ đồng nghĩa
và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5.
Trong các nhiệm vụ trên thì nhiệm vụ đề xuất một số bài tập nhằm nâng
cao giảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu cho
học sinh lớp 4, 5 là nhiệm vụ chủ yếu.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện và khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên phạm vi nghiên
cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu thưc trạng giảng dạy từ đồng nghĩa và
trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5 trường TH

Huỳnh Ngọc Huệ, Thành phố Đà Nẵng.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Tham khảo một số tài liệu, sách báo về từ đồng nghĩa, trái nghĩa và việc
giảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câuở trường
Tiểu học nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về giảng dạy từ đồng nghĩa và
trái nghĩa cho học sinh lớp 4, 5.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng anket
Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra bằng anket và trao đổi trực tiếp
với giáo viên và học sinh lớp 4, 5 trường Tiểu học Huỳnh Ngọc Huệ, Thành phố
4


Đà Nẵng nhằm tìm hiểu các hình thức, phương pháp dạy học của giáo viên và
khả năng nắm bắt từ đồng nghĩa và trái nghĩa của học sinh.
7.2.2. Phương pháp quan sát sư phạm
Dự giờ các tiết dạy học Luyện từ và câuđể tìm hiểu thái độ, khả năng nắm
bắt về từ đồng nghĩa và trái nghĩa của các em và những khó khăn của giáo viên
khi dạy học từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
7.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Xin ý kiến của 5 giáo viêngiảng dạy phân môn Luyện từ và câu về vấn
đềgiảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa cho học sinh lớp 4, 5.
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm giáo dục
Nghiên cứu các sản phẩm hoạt động của học sinh như các bài kiểm tra
giữa kì, cuối kì, kiểm tra miệng trên lớp nhằm tìm hiểu tri thức, thái độ và khả
năng nắm bắt về từ đồng nghĩa và trái nghĩa của các em.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được triển khai phần nội dung
với 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1:Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng việc giảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong
phân môn Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5.
Chương 3: Xây dựng một sốbài tậprèn kĩ năng sử dụng từ đồng nghĩa và
trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh lớp 4, 5.

5


NỘI DUNG
Chƣơng : CƠ SỞ L LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề chung về từ đồng nghĩa và trái nghĩa
1.1.1. Khái niệm và phân loại từ đồng nghĩa
a. Khái niệm
Lâu nay tồn tại không ít những quan niệm khác nhau về từ đồng
nghĩa. Có thể kể đến các quan niệm tiêu biểu sau:
Đỗ Hữu Châu trong cuốn Giáo trình Việt ngữ (tập 2) lần đầu tiên đưa ra
khái niệm chung về từ đồng nghĩa: “Trong vốn từ hội của bất cứ một ngôn ngữ
nào cũng thường có những từ mặc dù hình thức ngữ âm hoàn toàn khác nhau
nhưng từ nghĩa (tức là nghĩa của từ) là giống nhau; do đó, trong nhiều hoàn
cảnh ngôn ngữ cụ thể có thể thay thế cho nhau được. Những từ này là những từ
đồng nghĩa”. Với cách định nghĩa này, tác giả đã nêu ra đặc điểm của những từ
đồng nghĩa: hình thức ngữ âm khác nhau, từ nghĩa giống nhau, có thể thay thế
cho nhau trong nhiều hoàn cảnh.
Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến định
nghĩa: “Từ đồng nghĩa là những từ khác nhau về âm thanh, tương đồng nhau về
nghĩa và có phân biệt về một số sắc thái phong cách, sắc thái ngữ nghĩa, khả
năng kết hợp và phạm vi sử dụng” và chỉ ra rằng: “Từ đồng nghĩa không phải là
những từ trùng nhau hoàn toàn về nghĩa. Chúng nhất định có những dị biệt nào
đó bên cạnh những tương đồng”.

Để phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh tiểu học trong Sách giáo
khoa Tiếng Việt lớp 5, tập 1, trang 8 đưa ra định nghĩa về từ đồng nghĩa “là
những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau.”. Đối với học sinh tiểu
học, định nghĩa này đơn giản hơn.
Dựa vào những quan điểm của các tác giả đi trước, có thể hiểu từ đồng
nghĩa như sau :"Từ đồng nghĩa là những từ tương đồng với nhau về nghĩa, khác
6


nhau về âm thanh và có phân biệt với nhau về một vài sắc thái ngữ nghĩa hoặc
sắc thái phong cách,... nào đó, hoặc đồng thời cả hai".
b. Phân loại
Khi phân loại từ đồng nghĩa các nhà nghiên cứu đã đưa ra những tiêu chí
khác nhau và kết quả cũng có sự khác biệt ví như: Căn cứ vào mức độ đồng
nghĩa (số lượng nét nghĩa chung nhiều hay ít), căn cứ vào mức độ đồng nhất về
nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu thái, có thể chia các từ đồng nghĩa
thành hai loại lớn: từ đồng nghĩa tuyệt đối và từ đồng nghĩa tương đối.
- Từ đồng nghĩa tuyệt đối : Đó là những từ đồng nhất về nghĩa biểu vật
(cùng chỉ một sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan), nghĩa biểu niệm
(cùng diễn đạt một nội dung khái niệm như nhau, có hầu hết các nét nghĩa trùng
nhau), nghĩa biểu thái (cùng có sắc thái biểu cảm như nhau) và có thể thay thế
được cho nhau, chỉ khác nhau ở phạm vi sử dụng, ở một số sắc thái: địa
phương/toàn dân; ngoại lai/thuần Việt...
Ví dụ:
+ Xe lửa, xe hỏa, tàu hỏa...
+ Máy bay, tàu bay, phi cơ...
Từ đồng nghĩa tuyệt đối không có nhiều trong ngôn ngữ, thường là các từ
khác về nguồn gốc, phạm vi sử dụng. Các từ này nếu không có sự phân giới
trong sử dụng thì về sau một số từ sẽ dần không còn sử dụng nữa.
- Từ đồng nghĩa tương đối : Loại này bao gồm những từ có một số nét

nghĩa trùng nhau, đồng thời có một số nét nghĩa khác; tức là giữa những từ này
vừa có mặt đồng nhất, vừa có mặt khác biệt về sự vật, hiện tượng được biểu thị
về khái niệm được diễn đạt, về sắc thái tình cảm, về phạm vi sử dụng... Những
từ đồng nghĩa tương đối có thể chia thành hai loại nhỏ:

7


+ Đồng nghĩa nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm: Trong các từ thuộc
loại này, thường có một hoặc một vài từ mang sắc thái trung tính, trung hòa
về mặt biểu cảm, còn các từ khác, đứng trước và sau nó mang sắc thái
biểu cảm tốt, tích cực hoặc sắc thái biểu cảm xấu, tiêu cực.
Ví dụ: Hi sinh, từ trần, tạ thế, qua đời, mất, chết, bỏ mạng, toi mạng, mất
mạng, bỏ xác, ngoẻo ...
+ Đồng nghĩa nhưng khác nhau về sắc thái ý nghĩa, về phạm vi sử dụng:
Đây là những từ đồng nghĩa khác nhau ở một số nét nghĩa nào đó trong
cấu trúc nghĩa biểu niệm, khác nhau ở phạm vi sử dụng. Như ta biết,
chẳng những sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan vô cùng phong
phú mà từng sự vật, hiện tượng lại có những biểu hiện muôn màu, muôn
vẻ. Có thể nói các từ đồng nghĩa thuộc loại này giúp ta biểu thị chính xác các
khía cạnh, các biểu hiện khác nhau đó của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:
Rộng, rộng rãi, thênh thang, mênh mông, bao la, bát ngát...
Chạy, phi, lồng, lao...
1.1.2. Khái niệm và phân loại từ trái nghĩa
a. Khái niệm
Cũng như quan niệm về hiện tượng đồng nghĩa, về hiện tượng trái nghĩa
cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Từ trái nghĩa là một trong những biện pháp tổ chức từ vựng theo sự đối
lập. Có thể định nghĩa từ trái nghĩa theo quan điểm của Nguyễn Thiện

Giáp: “là những từ khác nhau về ngữ âm, đối lập về ý nghĩa, biểu hiện các
khái niệm tương phản về logic, nhưng tương liên lẫn nhau”.
Theo nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng
Phiến thì lại có định nghĩa về từ trái nghĩa trong cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và
tiếng Việt như sau: “Từ trái nghĩa là những từ có ý nghĩa đối lập nhau trong
8


mối quan hệ tương liên. Chúng khác nhau về ngữ âm và phản ánh những khái
niệm tương phản về logic.”
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Giản yếu về từ vựng – ngữ nghĩa tiếng
Việt đã đưa ra nhận định “Đối lập với hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa là hiện
tượng giữa các từ (hay ngữ cố định) có nghĩa trái ngược nhau”. Cách định
nghĩa này chủ yếu dựa vào nghĩa của từ hoặc ngữ cố định để xác định từ trái
nghĩa.
Để phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh tiểu học trong Sách giáo
khoa Tiếng Việt lớp 5, tập 1, trang 38 đưa ra định nghĩa về từ trái nghĩa:“Từ trái
nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau”.
Dựa vào những quan điểm của các tác giả đi trước, có thể hiểu từ đồng
nghĩa như sau: "Từ trái nghĩa là những từ có ý nghĩa đối lập nhau trong mối
quan hệ tương liên. Chúng khác nhau về ngữ âm và phản ánh những khái niệm
tương phản về logic".
b. Phân loại
Căn cứ vào đặc trưng ngữ nghĩa của các cặp trái nghĩa, người ta chia các
từ trái nghĩa thành hai loại như sau:
- Từ trái nghĩa loại trừ lẫn nhau: Những từ này biểu thị sự vật, hiện tượng,
hoạt động, tính chất không thể cùng tồn tại.
Ví dụ:
Chính nghĩa - phi nghĩa; sống - chết; tự do - nô lệ; đi - đứng; giàu - nghèo;
vắng mặt - có mặt; mua - bán...

- Từ trái nghĩa biểu thị trạng thái, tính chất đối lập nhau, nhưng có thể có
điểm trung gian ở giữa
Ví dụ:
Vui - buồn; xa - gần; no - đói; xanh - chín; già - trẻ...
Trong đó, một số trường hợp có từ trung gian ở giữa:
9


No - lưng lửng - đói
Chín - ương ương - xanh
1.1.3. Vai trò của việc giảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong chương
trình Tiếng Việt
Hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa vừa là biểu hiện tập trung của một loại
quanhệngữnghĩa trong từ vựng, vừa phản ánh những kết quảnhận thức, chiếm
lĩnh thực tế của một dân tộc nào đó. Nó cũng đồng thời là hệ quả, là phương tiện
của những yêu cầu của sự diễn đạt, giao tiếp bằng ngôn ngữ. Hiện tượngđồng
nghĩa, trái nghĩa trong Tiếng Việt có những vẻ riêng, nó là một trong những bản
sắc giàu, đẹp, trong sáng và cũng là một trong những quy luật chi phối sự phát
triển của Tiếng Việt.
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 4, 5, việc giảng dạy từ đồng nghĩa và
trái nghĩa nhằm mục đích:
- Cung cấp cho học sinh những phương tiện ngôn ngữ để biểu thị các sự
vật, hiện tượng trong những biểu hiện phong phú, sinh động, đa dạng
của nó trong thực tế khách quan.
- Sự tồn tại của các từ đồng nghĩa, trái nghĩa còn là biểu hiện của sự phát
triển, sự phong phú của tiếng Việt.
- Từ đồng nghĩa, trái nghĩa có giá trị tu từ học rất lớn. Vì vậy trong
ngôn ngữ thơ ca, người ta sử dụng khá nhiều các từ, các cách nói đồng nghĩa,
trái nghĩa.
1.2. Một số vấn đề chung về phân môn Luyện từ và câu

1.2.1. Vị trí và nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu
Trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, Luyện từ và câu được
tách ra thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với các phân môn khác
như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn… Ngoài ra Luyện từ và câu còn được đặt
trong các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt và các môn học khác như tự
10


nhiên xã hội, âm nhạc…Như vậy nội dung dạy về Luyện từ và câu trong chương
trình môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác ở Tiểu học nói chung,
chiếm một tỉ lệ đáng kể. Điều này cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc dạy
Luyện từ và câuở Tiểu học.
Nói đến dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học người ta thường nói tới 3 nhiệm
vụ chủ yếu là giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích
cực hoá vốn từ. Phong phú hoá vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển vốn
từ nghĩa là xây dựng một vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống
trong trí nhớ học sinh, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ (nghe đọc, nói viết) được thuận lợi. Chính xác hoá vốn từ là giúp học sinh hiểu nghĩa
của từ một cách chính xác, nhất là đối với những từ ngữ mà học sinh thu nhận
được qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp học sinh nắm được nghĩa của những
từ ngữ mới. Tích cực hoá vốn từ là giúp học sinh luyện tập, sử dụng từ ngữ
trong nói - viết, nghĩa là giúp học sinh chuyển hoá những từ ngữ tiêu cực (từ
ngữ mà chủ thể hiểu nhưng không hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực (từ
ngữ được chủ thể sử dụng trong nói - viết) phát triển kỹ năng, kỹ xảo, phát triển
từ ngữ cho học sinh. Trong 3 nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ phong phú hoá
vốn từ, phát triển, mở rộng vốn từ được coi là trọng tâm. Bởi vì, đối với học sinh
tiểu học, từ ngữ được cung cấp trong phân môn Luyện từ và câu sẽ giúp các em
hiểu được các phát ngôn khi nghe - đọc.
Ngoài ra, ở một chừng mực nào đó, phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học
còn có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm có tính chất sơ giản
ban đầu về cấu tạo từ và nghĩa của từ Tiếng Việt (như các khái niệm từ đồng

nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, nghĩa của từ, ...). Những kiến thức có tính chất
lý thuyết về từ này có tác dụng làm cơ sở, làm chỗ dựa cho việc thực hành luyện
tập về từ ngữ của học sinh.

11


1.2.2. Nội dung chương trình phân môn Luyện từ và câulớp 4, 5
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 được dạy trong 62 tiết : HKI 32 tiết;
HKII 30 tiết. Bao gồm các nội dung sau:
- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ (19 tiết): Các từ ngữ được mở rộng và hệ
thống hóa theo trường nghĩa trương đương các chủ điểm: Nhân hậu - Đoàn kết;
Trung thực - Tự trọng; Ước mơ; Ý chí - Nghị lực; Đồ chơi - Trò chơi; Tài năng;
Sức khỏe; Cái đẹp; Dũng cảm; Du lịch - Thám hiểm; Lạc quan - Yêu đời.
- Tiếng, cấu tạo từ( 5 tiết): Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo
của tiếng, cấu tạo của từ: Từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy.
- Từ loại (9 tiết): Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo từ loại
tiếng Việt: Danh từ, động từ, tính từ.
- Câu (26 tiết): Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo, công dụng
và cách sử dụng các kiểu câu: Câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến, câu cảm, thêm
trạng ngữ cho câu.
- Dấu câu (3 tiết): Cung cấp kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng
các dấu câu: Dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu chấm hỏi, dấu gạch ngang.
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 5 được dạy trong 62 tiết : HKI 32 tiết;
HKII 30 tiết. Bao gồm các nội dung sau:
- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ (19 tiết): Các từ ngữ được mở rộng và hệ
thống hóa theo trường nghĩa trương đương các chủ điểm: Tổ quốc; Nhân dân;
Hòa bình; Hữu nghị - Hợp tác; Thiên nhiên; Bảo vệ môi trường; Hạnh phúc;
Công dân; Trật tự - An ninh; Truyền thống; Nam và nữ; Trẻ em; Quyền và bổn
phận.

- Cấu tạo từ( 11 tiết): Cung cấp một số kiến thức và luyện tập về: Từ đồng
nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.

12


- Từ loại (11 tiết): Ôn tập về từ loại và cung cấp một số kiến thức sơ giản
về cấu tạo từ loại tiếng Việt: Đại từ, Quan hệ từ.
- Câu (13 tiết): Ôn tập về các kiểu câu đã học, đồng thời cung cấp kiến
thức về cấu tạo, công dụng và cách sử dụng các kiểu câu: Câu ghép, Liên kết
câu.
- Dấu câu (8 tiết): Ôn tập về các dấu câu đã học: Dấu chấm, dấu hỏi, dấu
chấm than, dấu phẩy, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang.
.3. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học
1.3.1. Đặc điểm nhân cách
1.3.1.1. Tình cảm
Đối với học sinh Tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng
yếu gắn nhận thức với hoạt động của trẻ. Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ
nhận thức và thúc đẩy trẻ em hoạt động. Tình cảm học sinh Tiểu học được hình
thành trong đời sống và trong quá trình học tập của các em. Tình cảm của học
sinh Tiểu học có những đặc điểm sau:
- Đối tượng gây ra xúc cảm cho các em thường là những sự vật cụ thể
sinh động. Sự thích thú, buồn bực, sợ hãi… của các em thường xảy ra trong khi
đang trực tiếp tri giác các sự vật, hiện tượng cụ thể.
Ví dụ : các em nữ khi nhìn thấy búp bê đẹp trong tiệm thì thích thú và đòi
mẹ mua cho bằng được, nhìn thấy con vật đáng sợ thì chạy lại ôm mẹ với gương
mặt đầy lo lắng.
- Học sinh tiểu học rất dễ xúc cảm và khó kiềm chế cảm xúc của mình.
Các em dễ xúc cảm, đồng thời hay xúc động( xúc cảm mạnh). Một điểm
tốt, một lời khen của cô giáo có thể làm cho các em reo lên sung sướng. Bị một

điểm kém hơn, bị một lời chê trách của cô giáo có thể làm cho các em buồn
khóc. Bằng nghệ thuật kể chuyện truyền cảm, giáo viên có thể dễ dàng gây ra ở
13


các em sự thích thú đến reo lên hay sự thương xót không cầm được nước mắt,
hoặc sự tức tối muốn hành động ngay lập tức (dậm chân, dậm tay, nhấp
nhõm…)
Các em dễ xúc động và khó kìm hãm những xúc cảm của mình, thể hiện
nhiều lúc không trả lời được những câu hỏi của thầy cô cũng khóc, không bằng
lòng một điều gì đó cũng khóc, và cũng khóc khi bị bạn chế giễu…
Đặc điểm trên đây gắn liền với sự phát triển sinh lý thần kinh ở lứa tuổi
này. Đó là do quá trình hưng phấn còn mạnh hơn quá trình ức chế, võ nảo chua
đủ sức thường xuyên điều chỉnh họat động của bộ phận dưới võ nảo được.
- Tình cảm của học sinh tiểu học mong manh chưa bền vững, chưa sâu
sắc, dễ thay đổi, chưa ổn định.
Các em đang yêu thích một đối tượng nào đó, nhưng có đối tượng khác
hấp dẫn hơn thì dễ bị thu hút vào đấy, quên mất đối tượng cũ.
Ví dụ : Trẻ lớp ba đang chơi trò xây nhà một cách say mê, nhưng bỗng nó
nhìn thấy một con búp bê thật đẹp, nó sẽ có xu hướng rời bỏ trò chơi cũ và chơi
ttò mới cùng với con búp bê.
Đặc điểm này cũng biểu hiện ở chỗ các em dễ thay đổi bạn. Các em hay
có hiện tượng nghĩ chơi với bạn này nếu bạn này nghịch ý hoặc chơi chán và
chơi với bạn kia vì thấy bạn kia nhiệt tình và hăng hái hơn.
Sự dễ dàng chuyển hòa xúc cảm cũng là biểu hiện của đặc điểm này. Các
em có thể khóc đấy nhưng rồi lại vui cười ngay. Thường các em chưa có trạng
thái xúc cảm kéo dài như người lớn.
1.3.1.2. Ý chí
Học sinh Tiểu học chưa có khả năng đạt mục đích xa và phức tạp cho hành
động của mình. Chưa có khả năng tự lập chương trình hành động. Do ý chí chưa


14


được phát triển đầy đủ nên trẻ chưa biết theo đuổi một mục đích lâu dài được đề
ra, chưa kiên trì khắc phục khó khăn và trở ngại.
1.3.2. Đặc điểm nhận thức
1.3.2.1. Tri giác
Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể ít đi sâu vào chi tiết và
mang tính không phủ định. Khả năng phân tích một cách có tổ chức và sâu sắc
khi tri giác ở học sinh các lớp đầu Tiểu học còn ít, các em thường thâu tóm sự
vật về toàn bộ, về đại thể để tri giác.
1.3.2.2. Chú ý
Chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế so với chú ý có chủ định. Những
kích thích có cường độ mạnh vẫn là một trong những mục tiêu thu hút sự chú ý
của trẻ. Chú ý có chủ định đang phát triển mạnh so với tri thức được mở rộng
ngôn ngữ phong phú, tư duy phát triển. Sự tập trung chú ý và tính bền vững của
chú ý ở học sinh đang phát triển nhưng chưa bền vững là do quá trình ức chế
phát triển còn yếu, tính hưng phấn còn cao. Do vậy, chú ý của các em còn bị
phân tán, các em dễ quên những điều cô giáo dặn cuối buổi học, bỏ sót chữ cái
trong từ, trong câu…
1.3.2.3. Trí nhớ
Trí nhớ của học sinh Tiểu học còn mang tính trực quan – hình tượng và
được phát triển hơn trí nhớ từ ngữ logic. Các em nhớ và gìn giữ chính xác những
sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định nghĩa, khái niệm,
những lời giải thích dài dòng. Các em thường ghi nhớ một cách máy móc, ghi
nhớ theo trang. Nếu được hướng dẫn thì trẻ mới biết cách ghi nhớ tài liệu một
cách hợp lí, biết lập dàn ý để ghi nhớ, khuynh hướng nhớ từng câu, từng chữ
giảm dần, ghi nhớ ý nghĩa tăng lên.


15


1.3.2.4. Tư duy
Tư duy của học sinh Tiểu học còn mang tính cảm xúc. Trẻ dễ xúc cảm với
những điều được suy nghĩ. Giáo viên cần dạy cho các em cách suy luận có căn
cứ khách quan, phán đoán, phải có dẫn chứ thực tế, kết luận phải có tính chất
đúng đắn logic, suy nghĩ có mục đích. Sự phát triển tư duy logic là một khâu
quan trọng trong sự phát triển trí tuệ của học sinh Tiểu học. Mặt khác khi nội
dung và phương pháp dạy học được thay đổi tương ứng với nhau thì trẻ em có
thể sẽ được một số đặc điểm tư duy hoàn toàn khác.
1.3.2.5. Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh Tiểu học còn tản mạn, ít có tổ chức, xa rời thực
tế. Càng về cuối cấp thì tưởng tượng của các em càng gần hiện thực hơn, càng
phản ánh đúng đắn và đầy đủ thực tế khách quan hơn.
Vì vậy, giáo viên phải thông qua con đường học tập, vui chơi và lao động
mà phát triển óc tưởng tượng sáng tạo cho các em, cần chú ý hướng học sinh
tránh những tưởng tượng ngông cuồng, xa thực tế nhưng không làm hạn chế tính
sáng tạo của trẻ trong quá trình tưởng tượng.
Tiểu kết chƣơng
Trong chương 1, chúng tôi đã tìm hiểu một số vấn đề về từ đồng nghĩa và
trái nghĩa, vai trò của việc giảng dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong chương
trình Tiếng Việt, đồng thời hiểu tâm lý của học sinh tiểu học. Từ đó làm cơ sở
vững chắc để chúng tôi có thể thực hiện quá trình khảo sát dễ dàng và chính xác
hơn.

16


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC GIẢNG DẠY TỪ ĐỒNG

NGHĨA VÀ TRÁI NGHĨA TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ
VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4, 5.
2.1. Mục đích điều tra
Thu thập thông tin để tìm hiểu thực trạng việc dạy và học từ đồng nghĩa
và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, 5, từ đây xây
dựng một số bài tậpnhằm rèn kĩ năng sử dụng từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong
phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, 5.
2.2. Đối tƣợng điều tra
Đề tài khảo sát 160 học sinh lớp 4, 5 và 10 giáo viên đang làm công tác
chủ nhiêm và giảng dạy lớp 4, 5 tại trường Tiểu học Huỳnh Ngọc Huệ, TP Đà
Nẵng, cụ thể là:
- Khối lớp 4: 80 học sinh và 5 giáo viên.
- Khối lớp 5: 80 học sinh và 5 giáo viên.
2.3. Phƣơng pháp điều tra
- Sử dụng phương pháp điều tra bằng anket đối với giáo viên dạy phân
môn Luyện từ và câuvà học sinh khối lớp 4, 5.
- Dự giờ các tiết dạy học Luyện từ và câu ở lớp 4, 5.
- Lấy ý kiến của 5 giáo viên dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4, 5.
- Nghiên cứu các sản phẩm hoạt động của học sinh lớp 4, 5 trong phân
môn Luyện từ và câuvề từ đồng nghĩa và trái nghĩa.

17


2.4. Nội dung điều tra
2.4.1. Nội dung điều tra giáo viên
- Nhận xét, đánh giá của giáo viên về khả năng nhận biết từ đồng nghĩa và
trái nghĩa của học sinh.
- Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc dạy từ đồng nghĩa
và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh.

- Những phương pháp thường dùng khi dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa
trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh.
- Những khó khăn thường gặp của giáo viên khi dạy từ đồng nghĩa và trái
nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh.
Những nội dung điều tra được thể hiện cụ thể qua phiếu khảo sát giáo
viên ở phần phụ lục.
2.4.2. Nội dung điều tra học sinh
- Thái độ của học sinh khi học từ đồng nghĩa và trái nghĩa.
- Tìm hiểu về khả năng nhận biết và giải nghĩa từ đồng nghĩa và trái nghĩa
của học sinh.
- Tìm hiểu về khả năng vận dụng từ đồng nghĩa và trái nghĩa của học sinh.
- Tìm hiểu về quá trình học từ đồng nghĩa và trái nghĩa của học sinh.
Những nội dung điều tra được thể hiện cụ thể qua phiếu khảo sát học sinh
ở phần phụ lục.

18


2.5. Kết quả điều tra
2.5.1. Kết quả điều tra giáo viên
Được sự cho phép của nhà trường, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, xin ý
kiến của 10 giáo viên đang trực tiếp làm công tác giảng dạy phân môn Luyện từ
và câulớp 4, 5 tại trường Tiểu học Huỳnh Ngọc Huệ, Thành phố Đà Nẵng thông
qua phiếu trắc nghiệm (xem phụ lục). Kết quả thu được như sau:
Câu 1: Theo thầy (cô), việc dạy và rèn cho học sinh sử dụng từ đồng nghĩa, trái
nghĩa có ý nghĩa như thế nào?
Mức độ

Cần thiết


Bình thường

Không cần thiết

Số lượng

9/10

1/10

0/10

Tỉ lệ

90%

10%

0%

Bảng 1: Nhận xét, đánh giá của giáo viên về ý nghĩa của việc dạy và rèn cho
học sinh sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa cho học sinh.
Từ bảng trên, ta vẽ được biểu đồ như sau:
Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện sự cần thiết của việc dạy và rèn cho học sinh sử
dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa cho học sinh.
(Đơn vị %)

10%
Cần thiết
Bình thường


90%

Không cần thiết

19


Nhận xét:Như vậy, dựa vào kết quả biểu đồ 1, có thể thấy: Có 90% số
giáo viên đều đồng tình cho rằng việc dạy và rèn cho học sinh sử dụng từ đồng
nghĩa và trái nghĩa là cần thiết; 10% số giáo viên cho rằng bình thường và 0%
cho rằng không cần thiết. Kết quả cho thấy phần lớn các giáo viên đều hiểu được
tầm quan trọng của việc dạy và rèn cho học sinh sử dụng từ đồng nghĩa và trái
nghĩa trong nhà trường Tiểu học và đồng ý việc dạy và rèn cho học sinh sử dụng
từ đồng nghĩa và trái nghĩa là rất cần thiết, cần được quan tâm và chú trọng.
Câu 2: Theo thầy (cô), khả năng nhận biết từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong
phân môn Luyện từ và câucủa học sinh lớp 4, 5 được đánh giá ở mức độ nào?
Mức độ

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Số lượng

1/10


6/10

2/10

1/10

Tỉ lệ

10%

60%

20%

10%

Bảng 2: Nhận xét, đánh giá của giáo viên về khả năng nhận biết từ đồng
nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucủa học sinh lớp 4, 5
Nhận xét: Kết quả khảo sát ở bảng trên cho thấy: Có 10% số giáo viên
cho rằng khả năng nhận biết từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện
từ và câucủa học sinh lớp 4, 5 đạt mức độ giỏi; 60% giáo viên chọn mức độ khá;
20% giáo viên chọn mức độ trung bình và 10% giáo viên chọn mức độ yếu. Như
vậy, có thể thấy khả năng nhận biết từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn
Luyện từ và câucủa học sinh lớp 4, 5 phần lớn chỉ đạt ở mức độ khá, mức độ
giỏi chỉ chiếm số ít. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những học sinh chưa có khả
năng nhận biết từ đồng nghĩa và trái nghĩa.

20



Câu 3: Khi làm các bài tập về từ đồng nghĩa và trái nghĩa, học sinh thường mắc
phải những lỗi nào?
Lỗi thường gặp

Số lượng

Tỉ lệ

Chưa nhận biết được từ đồng nghĩa, trái nghĩa

5/10

50%

Tìm sai từ đồng nghĩa và trái nghĩa

4/10

40%

Hiểu sai nghĩa của từ đồng nghĩa, trái nghĩa

7/10

70%

8/10

80%


4/10

40%

Chưa biết vận dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa vào
sử dụng ngôn ngữ như đặt câu, kể chuyện,...
Lỗi khác

Bảng 3: Những lỗi học sinh thƣờng mắc phải khi làm các bài tập về từ đồng
nghĩa và trái nghĩa
Nhận xét: Theo kết quả khảo sát, học sinh thường mắc phải các lỗi cụ thể
như sau:Có 5/10 giáo viên (chiếm 50%) cho rằng học sinh mắc lỗi chưa nhận
biết được từ đồng nghĩa, trái nghĩa. Lỗi tìm sai từ đồng nghĩa và tráin ghĩa có
4/10 giáo viên (chiếm 40%). Lỗi hiểu sai nghĩa của từ đồng nghĩa, trái nghĩa có
7/10 giáo viên (chiếm 70%). Có 8/10 giáo viên (chiếm 80%) cho rằng học sinh
chưa biết vận dụng từ đồng nghĩa và trái nghĩa vào sử dụng ngôn ngữ như đặt
câu, kể chuyện,.... Ngoài ra, các thầy (cô) còn nêu thêm một số lỗi mà học sinh
mắc phải như nhầm lẫn từ đồng nghĩa với từ nhiều nghĩa, sắp xếp từ đồng nghĩa
và trái nghĩa chưa phù hợp,... Qua một số tiết dự giờ thì chúng tôi thấy được
nguyên nhân ban đầu dẫn đến kết quả trên là do thời gian thực hành còn ít khiến
học sinh nắm kiến thức chưa chắc và chưa có thời gian để luyện tập nhằm khắc
sâu hơn kiến thức cũng như vận dụng vào thực hành ngôn ngữ tiếng Việt.
Như vậy, theo kết quả thống kê ý kiến của giáo viên cho thấy rằng học
sinh mắc lỗi chưa biết vận dụng từ đồng nghĩa và trái nghĩa vào sử dụng ngôn
ngữ như đặt câu, kể chuyện,... chiếm tỉ lệ cao nhất. Bên cạnh đó, học sinh còn
mắc các lỗi như chưa nhận biết được từ đồng nghĩa và trái nghĩa, sử dụng từ
21



đồng nghĩa và trái nghĩa chưa hợp lí, nhầm lẫn từ đồng nghĩa với từ nhiều nghĩa,
sắp xếp từ đồng nghĩa và trái nghĩa chưa phù hợp,... Từ đây, chúng tôi đề xuất
biện pháp là xây dựng một số bài tập để rèn kĩ năng sử dụng từ đồng nghĩa và
trái nghĩa cho học sinh.
Câu 4: Thầy (cô) thường sử dụng những phương pháp dạy học nào trong khi
dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa ở phân môn Luyện từ và câuvà mức độ sử dụng
phương pháp đó ra sao?
Mức độ
Phương pháp

Thường

Thỉnh

xuyên

thoảng

Không bao giờ

SL

TL

SL

TL

SL


TL

Phương pháp trực quan

10/10

100%

0/10

0%

0/10

0%

Phương pháp thảo luận nhóm

8/10

80%

2/10

20%

0/10

0%


Phương pháp trò chơi

5/10

50%

3/10

30%

2/10

20%

9/10

90%

1/10

10%

0/10

0%

Phương pháp thực hành, luyện
tập

Bảng 4: Các phƣơng pháp dạy học từ đồng nghĩa và trái nghĩa cho học sinh

trong phân môn Luyện từ và câuvà mức độ sử dụng
Nhận xét: Khi dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ
và câucho học sinh, giáo viên thường sử dụng các phương pháp dạy học với
mức độ cụ thể như sau:
- Phương pháp trực quan được 100% giáo viên sử dụng ở mức độ thường
xuyên, không có giáo viên thỉnh thoảng sử dụng hay không sử dụng phương
pháp này trong khi dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa cho học sinh.
- Phương pháp thảo luận nhóm được 80% giáo viên lựa chọn sử dụng ở
mức độ thường xuyên, 20% giáo viênsử dụng ở mức độ thỉnh thoảng và không
có giáo viên nào không sử dụng phương pháp này.
22


- Phương pháp trò chơi được 50% giáo viên sử dụng ở mức độ thường
xuyên, có 30% giáo viên sử dụng ở mức độ thỉnh thoảng và có 20% giáo viên
không sử dụng phương pháp này khi dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân
môn Luyện từ và câu cho học sinh.
- Phương pháp thực hành, luyện tập được 90% giáo viên sử dụng ở mức
độ thường xuyên, có 10% giáo viên sử dụng ở mức độ thỉnh thoảng. Không có
giáo viên nào không sử dụng phương pháp này trong khi dạy từ đồng nghĩa và
trái nghĩa cho học sinh.
Như vậy, các phương pháp trực quan, thảo luận nhóm, trò chơi, thực hành
luyện tập được phàn lớn giáo viên sử dụng ở mức độ thường xuyên khi dạy từ
đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh. Trong
đó, phương pháp trò chơi là phương pháp mà giáo viên sử sụng còn hạn chế.
Nguyên nhân là do số lượng học sinh trong một lớp khá đông khiến giáo viên
khó có thể tổ chức cho tất cả các em cùng hoạt động, đồng thời việc chuẩn bị, tổ
chức trò chơi mất khá nhiều thời gian của một tiết học.
Câu 5: Thầy (cô) thường sử dụng hình thức dạy học nào khi dạy từ đồng nghĩa
và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ và câucho học sinh?

Hình thức tổ chức dạy học

Số lượng

Tỉ lệ

Cá nhân

7/10

70%

Nhóm

9/10

90%

Lớp

8/10

80%

Bảng 5: Hình thức tổ chức dạy học trong dạy học từ đồng nghĩa và trái
nghĩa
Nhận xét: Khi dạy từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong phân môn Luyện từ
và câucho học sinh thì phần lớn giáo viên đều sử dụng cả ba hình thức tổ chức
dạy học là cá nhân, nhóm và lớp. Trong đó, hình thức tổ chức dạy học theo
23



×